Thứ Tư, 3 tháng 7, 2024

Nhận diện thủ đoạn chống phá quen thuộc - từ hiện tượng cá biệt quy kết thành bản chất

 

Chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng là mục tiêu lâu dài, xuyên suốt của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Để thực hiện mục tiêu đó, các thế lực chống phá thường theo dõi rất sát diễn biến về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của nước ta. Do vậy, mỗi khi có vấn đề nào đó xảy ra hay có hiện tượng nào đó phát sinh, các thế lực nhanh chóng quy kết, chụp mũ để nâng cao quan điểm, thổi phồng, bóp méo sự thật. Đó là bản chất của thủ đoạn quy kết các hiện tượng cá biệt thành bản chất rồi lớn tiếng quy chụp, rêu rao nhằm tạo sự chú ý của dư luận, dọn đường cho các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thực hiện các mưu đồ chống phá.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, hiện tượng là phạm trù chỉ sự biểu hiện ra bên ngoài của các sự vật; còn bản chất là phạm trù chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật. Hiện tượng và bản chất là một cặp phạm trù có mối quan hệ biện chứng, trong đó bản chất luôn luôn được bộc lộ qua hiện tượng, còn hiện tượng nào cũng là sự biểu hiện của bản chất ở mức độ nhất định; không có bản chất tồn tại thuần túy ngoài hiện tượng, đồng thời cũng không có hiện tượng nào mà không biểu hiện bản chất. Nhấn mạnh sự thống nhất này, V.I. Lê-nin chỉ rõ: “Bản chất hiện ra. Hiện tượng là có tính bản chất”(1).

Vì bản chất là cái tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng là cái không ổn định, không quyết định sự vận động, phát triển của sự vật. Do vậy, nhận thức không chỉ dừng lại ở hiện tượng, mà phải tiến đến bản chất của sự vật. Điều này cũng được V.I. Lê-nin chỉ rõ như sau: “Cái không bản chất, cái bề ngoài, cái trên mặt, thường biến mất, không bám “chắc”, không “ngồi vững” bằng bản chất”(2). Luận điểm này có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong việc nhận thức bản chất của sự vật. Đó là, không thể xuất phát từ những hiện tượng cá biệt, đơn lẻ mà quy kết là bản chất của sự vật bởi đây là biểu hiện của bệnh chủ quan, duy ý chí của chủ thể nhận thức.

Ấy vậy mà, thời gian qua, những kẻ phản động, cơ hội chính trị hoặc do thiếu hiểu biết, hoặc cố tình lờ đi những nguyên tắc phương pháp luận trong nhận thức bản chất của sự vật nên thường xuyên dùng chiêu bài quy chụp hiện tượng cá biệt thành bản chất. Điển hình như những sự việc sau:

Một là, xuất phát từ sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô mà quy kết cho sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội với tính cách là một học thuyết khoa học.

Năm 1991, chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô sau hơn 74 năm ra đời đã sụp đổ, kéo theo sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu. Đây được coi là “chấn động chính trị khủng khiếp nhất thế kỷ XX” và là cái cớ để các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lên tiếng quy chụp, phủ nhận lý luận về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lê-nin là ảo tưởng, sai lầm. Họ rêu rao rằng, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là do sự lạc hậu, lỗi thời của bản thân chủ nghĩa Mác vì “Chủ nghĩa xã hội mà Mác nêu ra chỉ là một lý tưởng, một chủ nghĩa xã hội “không tưởng”, không bao giờ thực hiện được”(3); “chủ nghĩa Mác - Lê-nin đưa ra các nguyên tắc “đấu tranh giai cấp”, “tập trung dân chủ” là cổ vũ cho bạo lực, cho chiến tranh, cho độc quyền, độc đoán, thủ tiêu dân chủ”(4)(?!)... Những luận điệu nguy hiểm đó được tung ra khắp nơi trên thế giới với mưu mô phủ nhận lý luận về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác, từ đó kêu gọi các nước không nên đi theo con đường phát triển chủ nghĩa xã hội. Đối với Việt Nam, một số thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị ở nước ngoài đã lên tiếng quy chụp “Việt Nam đang bế tắc không chỉ về kinh tế, mà còn về tinh thần. Không ai còn tin vào chủ nghĩa Mác nữa”(5); hay con đường xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang xây dựng chính là “một khúc cong của lịch sử, là đoạn vòng vèo đầy đau khổ đi lên chủ nghĩa tư bản”(6). Từ đó, các phần tử cơ hội chính trị lên tiếng kêu gọi Việt Nam cần “tránh chỗ tối, tìm chỗ sáng”, “tránh con đường đau khổ” mà các nước xã hội chủ nghĩa, như Liên Xô, Đông Âu đã đi qua để phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa!

Hai là, từ tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên mà quy kết cả đội ngũ cán bộ, đảng viên “thoái hóa”, “biến chất”

Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên cũng được coi là một cái cớ để các thế lực nắm lấy nhằm thổi phồng, quy chụp đội ngũ cán bộ, đảng viên ở nước ta. Từ hiện tượng một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện vi phạm, bị xử lý kỷ luật, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lớn tiếng quy chụp rằng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay đã “thoái hóa về tư tưởng, suy đồi về phẩm chất đạo đức, lối sống, không giữ được “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” như lời dạy của Bác Hồ”(7).

Gần đây, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị còn triệt để lợi dụng tình trạng tham nhũng của một bộ phận cán bộ, đảng viên để quy chụp đó là một “quốc nạn không có thuốc chữa”. Họ hàm hồ cho rằng, tình trạng đó bắt nguồn từ nguyên nhân tất yếu là chế độ một đảng duy nhất ở Việt Nam và cáo buộc tham nhũng là “căn bệnh nan y, kinh niên của chế độ độc Đảng cầm quyền”(8). Ngoài ra, các thế lực phản động còn đồng nhất toàn bộ Đảng Cộng sản với một số đảng viên, cán bộ tham nhũng, thoái hóa, biến chất và lên tiếng rêu rao “Đảng không còn là Đảng do Hồ Chí Minh sáng lập, Đảng không còn mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc”(9).

Từ những lập luận kiểu quy chụp hiện tượng thành bản chất nêu trên, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị còn rêu rao rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam không thể đấu tranh chống tham nhũng, suy thoái thành công vì Đảng cũng suy thoái, tham nhũng”(10). Những phần tử phản động đã ra sức bài xích chế độ một đảng của Việt Nam, lên tiếng kêu gọi Việt Nam phải đi theo con đường đa đảng, tam quyền phân lập vì “Chỉ có thể chống tham nhũng khi thực hiện thể chế “tam quyền phân lập” để kiểm soát quyền lực”(11).  Nguy hại hơn, các thế lực thù địch còn võ đoán bằng những luận điệu hết sức thâm hiểm: “Trước tình hình cai trị độc tài, không hiệu quả của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân không thể chịu đựng được nữa, đang đứng lên để chống đối những sai lầm đó, đứng lên đòi nhân phẩm, nhân quyền dân chủ. Càng ngày càng có nhiều người đấu tranh, người trước, kẻ sau, càng ngày càng đông”(12)!

Ba là, xuất phát từ những hạn chế trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước mà quy kết Đảng Cộng sản Việt Nam “mất hết vai trò lãnh đạo”.

Trong thời gian qua, từ những hạn chế của công cuộc đổi mới, nhất là mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 mà Việt Nam đặt ra cách đây nhiều năm đã không đạt được, các thế lực thù địch lên tiếng đổ lỗi cho Đảng ta lãnh đạo đất nước không hiệu quả. Trên nhiều diễn đàn, nhất là mạng xã hội, với danh nghĩa đứng về phía nhân dân, các phần tử cơ hội chính trị đã lớn tiếng rêu rao “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lãnh đạo” và lên tiếng khuyên Việt Nam cần phải đi theo mô hình “xã hội dân chủ”, thực hiện chính sách “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập”!

Gần đây, lợi dụng tình hình dịch bệnh COVID-19 có nhiều diễn biến phức tạp, trên các kênh truyền thông và mạng xã hội của lực lượng phản động nước ngoài quy chụp rằng “Việt Nam đã mất khả năng phòng, chống dịch” hay “Đảng Cộng sản Việt Nam đã không thể chống đỡ trước cơn bão dịch”... Những luận điệu này được rêu rao khắp nơi hòng làm giảm sút uy tín và phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào vai trò, vị thế và uy tín của Đảng.

Một số giải pháp phòng, chống thủ đoạn “thao túng tâm lý”

Mục tiêu của thủ đoạn “thao túng tâm lý” dù xem xét dưới góc độ nào: Tâm lý hay chính trị, trước mắt hay lâu dài, ngấm ngầm hay công khai đều mang tính chất phản nhân văn, đi ngược lại những giá trị tốt đẹp của con người. Thực chất đó là một trong những thủ đoạn của cuộc chiến tranh tâm lý, cuộc chiến chống lại con người.

Để phòng, chống có hiệu quả thủ đoạn này, giải pháp hàng đầu là quan tâm xây dựng sự vững vàng về tâm lý cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. “Vững vàng tâm lý” thể hiện ở kiến thức, quan điểm và niềm tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ; là khả năng kịp thời nhận diện, phản bác thông tin xấu độc, bịa đặt, thủ đoạn tuyên truyền chính trị của kẻ thù; khả năng nắm vững quan điểm chính trị trong ứng xử các vấn đề xã hội. “Vững vàng tâm lý” hoàn toàn khác với các hiện tượng “đứng ngoài chính trị”, “thờ ơ chính trị”.

Từ thủ đoạn “thao túng tâm lý”, các thế lực thù địch luôn tiến công vào những nơi mà ý thức của con người mù mờ nhất, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực tâm lý xã hội và tâm lý cá nhân, đánh vào những nhu cầu, mong muốn, ước vọng không được thỏa mãn của con người. Để có được sự “vững vàng tâm lý”, cần hạn chế, thu hẹp đến mức nhỏ nhất những “mảnh đất màu mỡ” cho thủ đoạn này.

Thực tế cho thấy, nếu không tích cực ngăn chặn, bài trừ tệ nạn và tiêu cực xã hội, làm lành mạnh môi trường xã hội hiện nay thì các nọc độc “thao túng tâm lý” sẽ lan truyền hết sức nhanh chóng. Đây chính là cơ hội cho thế lực thù địch, phản động lợi dụng, gieo rắc sự hoài nghi, dao động, hoang mang, bi quan, mất niềm tin trong nhân dân. Chúng đang chờ đợi quá trình “tự tha hóa”, “tự biến chất”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên để tiếp tục gia tăng những tác động “thao túng tâm lý”.

Trong bối cảnh thời đại thông tin bùng nổ hiện nay, cần chủ động, kịp thời cung cấp, định hướng, kiểm soát thông tin và định hướng dư luận xã hội. Việc chậm trễ thông tin và sự thiếu chủ động trong việc định hướng dư luận xã hội đã làm nảy sinh ở quần chúng nhân dân những biểu hiện bất lợi về tâm lý, tư tưởng; ở mức độ đơn giản là những đồn đoán tùy tiện, ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân vào luật pháp và bộ máy công quyền; ở mức độ phức tạp còn làm cho một số người có thái độ ngờ vực, thậm chí thay đổi quan điểm chính trị.

Vì vậy, trước những sự kiện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... nhất là những sự kiện phức tạp, nhạy cảm thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận xã hội, các cơ quan chức năng cần thông tin kịp thời, chính xác cho công chúng và định hướng suy nghĩ, hành động theo hướng có lợi cho Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Việc làm cần thiết hiện nay là nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm soát, quản lý thông tin, phòng, chống tin giả, tin đồn, thông tin xấu độc trên không gian mạng. Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng trong việc kiểm tra, xác minh, điều tra, truy vết và xác định các hành vi, đối tượng vi phạm các quy định về thông tin sai trái, xuyên tạc để xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.

Giải pháp căn cơ là chăm lo xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Ngày nay, khi mục tiêu "đầu độc" và chiếm lĩnh tâm hồn con người đang và sẽ là mục tiêu chủ yếu của các thế lực thù địch, phản động thông qua thủ đoạn “thao túng tâm lý” thì việc xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh càng có ý nghĩa quan trọng. Môi trường văn hóa lành mạnh đủ sức chống lại những tác động của thủ đoạn “thao túng tâm lý” cần phải tạo được những rung động, những trạng thái cảm xúc tích cực ở đội ngũ cán bộ, đảng viên và người dân về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như những giá trị ưu việt của chế độ XHCN.

Cùng với đó, xây dựng lòng tự hào của mỗi người dân về nền văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, quán triệt và thực hiện tốt lời chỉ dẫn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc tổ chức ngày 24/11/2021 tại Hà Nội: “Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh gắn liền với đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, phi văn hóa, phản văn hóa; bảo vệ những giá trị chân-thiện-mỹ.

Nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân; xây dựng đời sống văn hóa vui tươi, lành mạnh, hạnh phúc; khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển và hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền của đất nước”. Xây dựng chính sách phù hợp để khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư, sản xuất các sản phẩm có giá trị văn hóa, tinh thần phục vụ nhu cầu của nhân dân theo phương châm “lấy xây để chống”, “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, "lấy tích cực để đẩy lùi tiêu cực".

Tác động tiêu cực, hệ lụy khôn lường của thủ đoạn "Thao túng tâm lý"

 

Một là, tác động đến nhận thức, quan điểm, lập trường chính trị. Do triệt để lợi dụng tính tò mò, tâm lý “thích giật gân” và các quy luật thuần tâm lý như: Cảm nhiễm, a dua, ám thị, bắt chước... thủ đoạn “thao túng tâm lý” dễ tác động đến nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Trước những thông tin xuyên tạc, bịa đặt đến dồn dập, những phân tích, bình luận xuất hiện như “nấm mọc sau mưa” dễ đưa người khác vào trạng thái hỗn loạn thông tin. Trạng thái đó khiến nhận thức của con người có thể đi từ phân vân đến hoài nghi, mơ hồ, từ đó dễ làm xói mòn quan điểm, lập trường chính trị.

Hai là, tác động đến cảm xúc, thái độ và niềm tin. Thông tin xuyên tạc, bịa đặt thường liên quan trực tiếp đến nhu cầu, lợi ích, nguyện vọng của người dân và lợi dụng tác động của dư luận xã hội nên thủ đoạn “thao túng tâm lý” dễ tác động đến cảm xúc, thái độ, niềm tin của quần chúng nhân dân. Dưới tác động của thủ đoạn “thao túng tâm lý”, thái độ của con người có thể chuyển biến từ hoài nghi, hoang mang, dao động đến bất bình, phẫn nộ, phản đối, thậm chí là chống đối, bất hợp tác, mất niềm tin.

Ba là, tác động đến hành vi, hành động. Khi đã kiểm soát được nhận thức, cảm xúc, thái độ, thủ đoạn “thao túng tâm lý” còn trực tiếp kích thích, thúc đẩy những hành vi, hành động tiêu cực của con người. Các thế lực thù địch, phản động thường xuyên tổ chức đăng tải, tán phát các thông tin, tài liệu, hình ảnh, video phỏng vấn theo hướng kích động những nhân sĩ, trí thức trong nước có tư tưởng bất mãn chính trị. Đối với quần chúng nhân dân, chúng triệt để lợi dụng bộ phận thiếu hiểu biết, thiếu thông tin hoặc bị kẻ xấu lôi kéo, mua chuộc, nhất là dân tộc ít người, đồng bào tôn giáo nhẹ dạ, cả tin bị chúng kích động, lừa gạt, thúc ép buộc tham gia các cuộc tụ tập gây rối, biểu tình, tạo thành “lực lượng đối trọng”, gây áp lực với hệ thống chính trị các cấp.

Nhiều biểu hiện tinh vi của thủ đoạn “thao túng tâm lý


Với mục tiêu làm mục ruỗng tâm lý xã hội, đảo lộn đời sống tâm lý, tinh thần của nhân dân, các thế lực thù địch, phản động sử dụng nhiều chiêu trò, thủ đoạn tinh vi, ở mọi lúc, mọi nơi, len lỏi vào từng người, từng nhóm xã hội nhằm “lung lạc” nhận thức, “gặm nhấm” tình cảm, điều khiển ý chí và hành động, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. “Thao túng tâm lý” là một thủ đoạn điển hình như vậy.

“Thao túng tâm lý” là cách thức tác động tâm lý nhằm ảnh hưởng, chi phối, kiểm soát nhận thức, cảm xúc, hành vi của người khác theo một mục đích nào đó. Nhờ triệt để lợi dụng các quy luật, đặc điểm tâm lý, cách thức này có thể kiểm soát, điều khiển tâm lý con người diễn biến theo chiều hướng nhất định. Cơ chế “thao túng tâm lý” diễn ra theo nhiều kênh tác động khác nhau, nhưng phổ biến nhất vẫn là kênh thông tin. Bằng số lượng, nội dung và cách đưa thông tin đến người tiếp nhận, có thể kiểm soát, điều khiển được nhận thức, cảm xúc, hành vi của người đó.

Ở nước ta, theo thống kê, đến nay có khoảng 77 triệu người dùng mạng xã hội (MXH), tương đương 78,1% dân số, chiếm 97,8% dân số từ 13 tuổi trở lên, trong đó người dùng Facebook là 70,4 triệu người. Theo đó, các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng cơ chế “thao túng tâm lý” và đặc tính của MXH để thao túng, kiểm soát tâm trí con người. Có thể chỉ ra một số cách thức của thủ đoạn “thao túng tâm lý” mà các thế lực thù địch, phản động đã và đang tiến hành.

Đưa thông tin sai sự thật, xuyên tạc, bịa đặt. Thông qua các trang web, blog, các trang MXH như: Facebook, Zalo, YouTube, TikTok... chúng ra sức tuyên truyền, bịa đặt về các phe phái trong Đảng, nhất là lợi dụng công cuộc đấu tranh chống tham nhũng để xuyên tạc, hòng hạ uy tín của cán bộ, phá vỡ khối đoàn kết trong Đảng, sự đồng thuận của xã hội, chia rẽ Đảng với nhân dân. Chúng thường xuyên dựng chuyện, thổi phồng những sai lầm, thiếu sót của một số cán bộ, đảng viên, qua đó gây hoang mang, tạo bức xúc trong dư luận xã hội, kích động người dân gây rối an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Giả mạo thông tin. Chúng lập những tài khoản giả mạo trên MXH, website giả mạo các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh đạo một số bộ, ngành, địa phương, những người có uy tín, nhân vật nổi tiếng trong xã hội, qua đó đưa tin bịa đặt, gieo rắc sự hoài nghi trong xã hội, nhất là trước những vấn đề nhạy cảm.

Lèo lái thông tin. Chúng sử dụng các website, dịch vụ thư điện tử (e-mail) và các trang MXH để lèo lái thông tin. Cách thức tiến hành của chúng thường là tổng hợp tin tức từ các báo chính thống để tạo ra sự khách quan, sau đó cài những thông tin xấu độc theo tỷ lệ tăng dần cả về số lượng và mức độ bịa đặt, bóp méo sự thật. Cùng với đó là những phân tích, bình luận tưởng như khách quan nhưng thực chất là tạo ra “bẫy thông tin” khiến người tiếp nhận dễ bị dẫn dắt theo mưu đồ xấu của chúng.

Tung tin đồn, gây kích động, chia rẽ. Lợi dụng những sự kiện nhạy cảm liên quan đến các vấn đề phân định biên giới, lãnh thổ, tranh chấp Biển Đông, ô nhiễm môi trường, hay những vấn đề liên quan đến công tác phòng, chống tham nhũng, công tác cán bộ... chúng tung tin thất thiệt trên các trang MXH gây hoang mang trong dư luận, tạo nên sự hiểu nhầm của người dân, sự hoài nghi vào cấp ủy, chính quyền các cấp. Các tin đồn tác động mạnh vào cảm xúc, kích động những nhóm đối tượng thiếu hiểu biết hoặc hiểu biết chưa đầy đủ để tạo sức mạnh chống phá.

Thứ Ba, 2 tháng 7, 2024

Cảnh giác trước âm mưu nham hiểm của các thế lực thù địch, đối lập Tư tưởng Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác-Lênin

 


Với âm mưu thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ chính trị ở nước ta, các thế lực thù địch dùng mọi thủ đoạn chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng. Một trong những luận điệu tinh vi mà chúng thường sử dụng là đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác-Lênin nhằm phá hủy gốc rễ nền tảng tư tưởng của Đảng. Vì thế, chống lại luận điệu xuyên tạc này là một nội dung căn cốt trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và phản bác các quan điểm sai trái, thù địch hiện nay.

ĐẤU TRANH PHẢN BÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

 

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị ở trong và ngoài nước ra sức chống phá, xuyên tạc rằng, không có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa là những yếu tố đối lập nhau, loại trừ nhau; gán ghép định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường là chủ quan, duy ý chí, không có cơ sở khoa học, không thuyết phục, làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn; nếu bỏ “cái đuôi” định hướng xã hội chủ nghĩa thì nền kinh tế đất nước còn phát triển nhanh hơn, đạt được kết quả còn lớn hơn nhiều.

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN VAI TRÒ, GIÁ TRỊ CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM

 

Trong thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị ráo riết gia tăng chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng ta nhằm chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc; gây mất ổn định chính trị - xã hội, tạo cớ can thiệp, kích động bạo loạn lật đổ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

 

Nhận thức sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là một cách phòng ngừa sự suy thoái về tư tưởng chính trị

Chủ tịch Hồ Chí Minh là trường hợp hiện hữu của lịch sử khi đã “trở thành huyền thoại ngay từ khi còn sống” và thời gian càng lùi xa, sức sống và giá trị trong tư tưởng của Người càng tỏa sáng.

Việc luận giải sức sống bất hủ của tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn, vững tin hơn vào nền tảng tư tưởng của Đảng mà tự thân những giá trị to lớn trong tư tưởng của Người là sự phủ nhận hữu hiệu đối với các ý kiến lệch lạc, xuyên tạc Hồ Chí Minh của các phần tử cơ hội chính trị. Mặt khác, việc khẳng định những giá trị trường tồn trong tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là một cách giúp cán bộ, đảng viên phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị và những biểu hiện lười nhác, xem nhẹ việc học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Thế kỷ 20 đầy bão tố đã khép lại cùng với sự đóng góp của nhiều vĩ nhân, trong đó có Hồ Chí Minh. Điều làm nên sức mạnh và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh chính là những đặc tính tiêu biểu toát lên từ tư tưởng của Người.

Nhận thức sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh cũng là một cách phòng ngừa sự suy thoái về tư tưởng chính trị
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với học sinh Trường Nghệ thuật sân khấu Trung ương ở Khu Văn công Mai Dịch, Hà Nội. Ảnh tư liệu

1. Nội dung căn cốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, phù hợp với quy luật phát triển của thời đại.

Khát vọng tự do là đặc tính của con người nên khi chủ nghĩa thực dân đẩy vô số dân tộc vào vòng nô lệ, cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc là xu thế tất yếu của thời đại. Ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh trở thành đại diện của các dân tộc bị áp bức đấu tranh cho quyền được làm người, quyền được sống trong bình đẳng và tự do.

Được trang bị phương pháp luận khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin và bằng trải nghiệm thực tiễn, Hồ Chí Minh đưa ra những phát kiến ở tầm thời đại về con đường cứu nước và phương hướng dựng nước của dân tộc Việt Nam: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” và “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.

Hồ Chí Minh có hệ thống quan điểm hết sức sáng tạo về phương thức giải phóng, đó là cách mạng thuộc địa phải tiến hành một cách chủ động, sáng tạo, không thụ động trông chờ vào cách mạng chính quốc và sẽ thành công trước cách mạng chính quốc. Thực hiện tư tưởng của Người, dân tộc Việt Nam không chỉ giành được độc lập, tự do mà thắng lợi của nhân dân Việt Nam còn góp phần làm tan vỡ hệ thống thuộc địa trên quy mô toàn thế giới. Vì thế, Hồ Chí Minh được mệnh danh là người đã đẩy bánh xe lịch sử theo hướng tiến bộ. Nhà bác học người Anh Béctơrăng Rútxen đã viết: “Sự nghiệp vô tư và quên mình của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho nền độc lập và thống nhất của Việt Nam suốt hơn nửa thế kỷ nay đã làm cho Người trở thành không những là lãnh tụ của dân tộc Việt Nam mà còn là kiến trúc sư nổi tiếng của thế giới đã thoát khỏi chủ nghĩa thực dân”.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh kết tinh những giá trị vĩnh hằng của nhân loại là hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

Thế giới tôn vinh Hồ Chí Minh là Nhà văn hóa hòa bình bởi Người luôn nỗ lực giải quyết xung đột với dân tộc khác bằng con đường đối thoại văn hóa, khi buộc phải tự vệ thì Người chủ động hạn chế không gian chiến tranh ở Việt Nam để bảo vệ hòa bình khu vực và thế giới. Hồ Chí Minh rất yêu chuộng hòa bình nhưng đó phải là hòa bình thực sự-hòa bình trong độc lập, tự do bởi đúng như Người đã tuyên bố: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.

Với Hồ Chí Minh, độc lập, tự do không chỉ là mục tiêu chính trị mà còn là giá trị đạo đức. Một con người yêu nước, một dân tộc có lòng tự tôn sẽ không cam tâm sống cuộc đời nô lệ. Khi thế giới còn đầy rẫy sự bất công, tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Hồ Chí Minh đã trở thành chân lý lớn của thời đại.

3. Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện khát vọng đoàn kết và hợp tác hữu nghị giữa các dân tộc.

Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên khẳng định: “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ phận trong cách mạng thế giới. Ai làm cách mệnh trên thế giới đều là đồng chí của dân An Nam”. Có thể coi đây là khởi phát của chiến lược đoàn kết quốc tế của Người. Cần nhấn mạnh rằng, chiến lược ấy ra đời không chỉ vì mục tiêu chính trị mà còn xuất phát từ tình cảm đồng loại: “Quan sơn muôn dặm một nhà/ Vì trong bốn biển đều là anh em”. Tình cảm ấy ở người cộng sản Nguyễn Ái Quốc hết sức sâu đậm nên từ năm 1923, nhà thơ Xô viết Ôxip Manđenxtam đã cảm nhận: “Qua phong thái thanh cao, trong giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta như nghe thấy được ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái toàn thế giới”.

Khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: Việt Nam sẵn sàng “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”. Người không ngừng giáo dục nhân dân về tình hữu nghị, về đạo lý “giúp bạn là tự giúp mình”. “Chiến tranh lạnh” đẩy các quốc gia vào thế “đối đầu” nhưng Hồ Chí Minh vẫn kiên trì khẳng định: “Các nước dù chế độ xã hội khác nhau và hình thái ý thức khác nhau cũng đều có thể chung sống hòa bình được”. Hồ Chí Minh là người luôn tìm cách quy tụ thay cho loại trừ, luôn nỗ lực tìm ra “mẫu số chung” chứ không “khoét sâu” sự khác biệt. Với tinh thần “tìm sự thống nhất trong đa dạng”, Hồ Chí Minh không chỉ là người có tư duy quốc tế hiện đại, tinh thần khoan dung văn hóa mà còn là đại sứ của Việt Nam trên toàn cầu.

4. Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện tinh thần đổi mới và hội nhập-xu thế lớn của thời đại ngày nay.

Hồ Chí Minh là người đặc biệt nhạy bén với cái mới. Người định nghĩa cách mạng cũng từ góc độ này: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”. Trung thành với Chủ nghĩa Mác nhưng Người vẫn đặt câu hỏi: “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”. Từ nhận thức đó, Hồ Chí Minh không chỉ vận dụng mà còn phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin bằng một loạt luận điểm mới, phù hợp với cách mạng Việt Nam. Lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người căn dặn cán bộ tuyệt đối không được giáo điều, bảo thủ. Trong "Di chúc" để lại, mặc dù không trực tiếp sử dụng khái niệm “đổi mới” nhưng Người đã phác thảo một chiến lược đổi mới trên nét lớn và căn dặn: “Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. Sự nghiệp đổi mới do Đại hội VI của Đảng đề xướng đã trở lại đúng tinh thần đó và thành tựu do đổi mới mang lại thực sự vĩ đại. Đó là minh chứng cho khả năng dự báo chiến lược của Hồ Chí Minh. Khi thế giới đang phát triển với tốc độ nhanh chưa từng có như hiện nay, tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh càng trở nên ý nghĩa.

Hồ Chí Minh cũng là người đặt nền móng cho chính sách mở cửa và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Ngay khi nhà nước cách mạng mới ra đời và chưa được quốc gia nào công nhận, chủ trương mở cửa, kêu gọi đầu tư đã được Người khẳng định trong “Lời kêu gọi Liên hợp quốc” (tháng 12-1946). Trong thương mại quốc tế, Hồ Chí Minh tuyên bố: “Việt Nam sẽ giao dịch với tất cả các nước nào trên thế giới muốn giao dịch với Việt Nam một cách thật thà”. Ngày nay, hội nhập quốc tế toàn diện đã trở thành xu thế tất yếu nhưng vào thập niên 1940, chủ trương của Hồ Chí Minh về hợp tác kinh tế với các nước có sự khác biệt về ý thức hệ và thể chế chính trị, thực sự là tư duy hết sức mới mẻ, tiến bộ.

5. Tư tưởng văn hóa-đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc mà còn để lại hình mẫu về văn hóa làm người.

Với Hồ Chí Minh, văn hóa không phải là cái gì quá cao siêu mà phải trở thành “văn hóa đời sống”, tức là văn hóa phải góp phần loại bỏ những gì lạc hậu, dốt nát, phù hoa, xa xỉ trong tập tục và nâng cao dân trí để mỗi người giải phóng hết “năng lực người” của mình.

Hồ Chí Minh rất sâu sắc khi cho rằng, việc tiếp thu văn hóa nhân loại phải song hành với việc quảng bá văn hóa dân tộc vì ngoài vấn đề lợi ích thì đó còn là sự dâng hiến theo tinh thần “mình đã hưởng cái hay của người thì cũng phải có cái hay cho người ta hưởng”. Hàm chứa những quan điểm hết sức sâu sắc, cho nên, UNESCO đánh giá: Tư tưởng Hồ Chí Minh “là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc mong muốn được khẳng định bản sắc văn hóa của mình và mong muốn tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc”.

Hồ Chí Minh còn là nhà tư tưởng đặc biệt quan tâm đến đạo đức. Nói về tầm quan trọng của đạo đức, Hồ Chí Minh luôn khẳng định đạo đức là cái gốc của con người, là sức mạnh của người cách mạng và Đảng cách mạng, là điều kiện để con người vươn tới tài năng, là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của học thuyết cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cao nhất chính là suốt đời phấn đấu, hy sinh vì độc lập dân tộc, hạnh phúc của nhân dân và nhân loại.

Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh giàu sức thuyết phục không chỉ bởi đặc tính khoa học, nhân văn mà còn vì cuộc đời “trong như ánh sáng” và sự hiến dâng trọn vẹn cho dân, cho nước của Người. Không chỉ nhân dân Việt Nam, các trí tuệ lớn của thời đại cũng đã thừa nhận: "Nói tới một con người mà cả cuộc đời mình đã để lại ân tình sâu nặng cho nhân dân thì không có một ai khác ngoài Hồ Chí Minh". Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và đạo đức Hồ Chí Minh-mẫu mực điển hình về sự trong sáng, cao thượng, luôn hòa quyện trong nhau và có ý nghĩa thời sự rất lớn đối với một thế giới nhiều nghịch lý hiện nay.

Thế giới ngày càng giàu có và hiện đại nhưng do sự phát tác thái quá của chủ nghĩa cá nhân, sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng giữa các tầng lớp và dân tộc, không ít người đã rơi vào khủng hoảng lẽ sống, niềm tin. Điều đó dẫn đến sự gia tăng bạo lực và lối sống lệch lạc của một bộ phận dân chúng. Đến mức, có người dùng cụm từ “dã man trong văn minh” để nói về thế giới hiện đại. Sinh thời, Thủ tướng Ấn Độ Nêru đã kết luận rất đúng rằng: “Thế giới ngày nay đang trải qua một cuộc khủng hoảng... Cái cần bây giờ là tiếp cận hòa bình, hữu nghị và tình bạn. Hồ Chí Minh là biểu tượng cho sự tiếp cận đó”. Tư tưởng nhân văn-đạo đức Hồ Chí Minh với triết lý nhân sinh “chính tâm và thân dân” sẽ đánh thức phần “thiện” trong mỗi con người, giúp họ tìm ra lẽ sống đúng đắn và cách hành xử hợp đạo lý để có được hạnh phúc đích thực.

Năm tháng trôi qua nhưng Hồ Chí Minh “không phải là một kỷ niệm của quá khứ. Người là một con người diệu kỳ cho tất cả mọi thời đại”. Đó là sự đánh giá xác đáng mà nhân loại đã dành cho Bác Hồ của chúng ta.

TÍCH CỨC THAM GIA ĐẤU TRANH VỚI CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI THÙ ĐỊCH

 

Thế hệ trẻ là lực lượng xung kích, đi đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong giai đoạn cách mạng hiện nay, khi đất nước đang vững bước trên con đường đi lên CNXH. Kể từ sau sự kiện mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch, phản động, chống đối trong và ngoài nước đã triệt để thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam, một trong những thủ đoạn mà chúng thường xuyên tiến hành là tấn công vào nền tảng tư tưởng, tăng cường hoạt động xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, đồng thời tấn công vào niềm tin của thế hệ trẻ nhằm hướng lái tư tưởng của bộ phận nòng cốt này theo con đường tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng của thế hệ trẻ Việt Nam là tích cực tham gia công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đẩy mạnh hoạt động đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch hiện nay.

KIÊN QUYẾT ĐẤU TRANH BÁC BỎ CÁC ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN, LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI PHỦ NHẬN VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM, PHỦ NHẬN NHỮNG THÀNH QUẢ CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM

 


Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động ráo riết đẩy mạnh việc công kích, xuyên tạc vai trò lãnh đạo của Đảng ta trên nhiều phương tiện truyền thông, nhất là trên internet, các mạng xã hội, như xuyên tạc rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không còn đủ khả năng để lãnh đạo đất nước trong bối cảnh thế giới có nhiều bất ổn, làm cho đất nước lâm vào tình trạng yếu thế, lạc hậu trước xu hướng bùng nổ thông tin và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra mạnh mẽ, kết cấu xã hội ở Việt Nam đã có sự chuyển biến theo hướng đa dạng, nhiều tầng nấc, xu hướng dân chủ hóa ngày càng được coi trọng. Để tuyên truyền cho luận điệu thâm độc trên, các thế lực thù địch, phản động đưa ra nhiều lý lẽ mang tính chất tấn công, chống phá sau:

 

Thói đạo đức giả và bộ mặt thật của chủ nghĩa cá nhân - Bài 2: Diệt trừ thói đạo đức giả là diệt trừ chủ nghĩa cá nhân (Tiếp theo và hết)

Chỉ có quét sạch chủ nghĩa cá nhân, thói đạo đức giả, tích cực rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, chí công vô tư, thực hiện tốt bổn phận, nâng cao lòng tự trọng của mỗi cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất, danh dự, sống có trách nhiệm với cơ quan, địa phương, đất nước, đảng viên và cán bộ mới làm tròn trách nhiệm, lời hứa thiêng liêng trước cờ Đảng, trước nhân dân.

Thông qua việc làm cụ thể, nhất là thực hiện nghiêm Quy định số 144-QĐ/TW ngày 9-5-2024 của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới, tự mỗi cá nhân, chi bộ nêu gương sáng về lối sống, lý tưởng, đạo đức cách mạng, phụng sự nhân dân.  

Tại sao những kẻ đạo đức giả khó bị vạch mặt?

Thời gian gần đây, khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống các biểu hiện suy thoái về đạo đức thì sự giả tạo của những con mọt này càng tinh vi. Thói đạo đức giả ngày càng lên ngôi để đối phó với cấp trên, cấp dưới và dư luận xã hội; lẩn trốn sự kiểm tra, giám sát của tập thể, của cơ quan chức năng; các tổ chức, quần chúng nhân dân...

Tại sao thói đạo đức giả, những kẻ đạo đức giả chưa bị vạch mặt? Có thể khẳng định, ở nhiều cơ quan, những kẻ đạo đức giả nói chung là không thể giấu được. Nhiều người dù biết nhưng không đấu tranh, hoặc không dám đấu tranh với thói đạo đức giả, thậm chí còn dung túng cho nó. Bởi, về cơ bản, những kẻ đạo đức giả ấy nằm trong nhóm những người có ảnh hưởng, có chức quyền với nhóm người còn lại trong cơ quan, địa phương. Vì thế, những người không có quyền lực nảy sinh tâm lý e ngại, thờ ơ, ngại va chạm, hoặc sợ va chạm. Chính sự yếu đuối, không mạnh dạn của không ít quần chúng đã tạo môi trường, mảnh đất sống cho thói đạo đức giả của một số cán bộ có chức quyền ngày càng phát triển.

Làm thế nào để diệt trừ những kẻ đạo đức giả trong tổ chức?

Như đã trình bày ở trên, nguyên nhân sâu xa dẫn đến thói đạo đức giả trong một số cán bộ, đảng viên hiện nay chính là chủ nghĩa cá nhân. Muốn tiêu diệt tận gốc thói đạo đức giả, nhất định phải đấu tranh không khoan nhượng với chủ nghĩa cá nhân. Chỉ có như vậy mới có thể chống thói đạo đức giả từ gốc. Đây cũng là cách ngăn trừ hậu quả, chặn bọn mối mọt đục ruỗng từ bên trong.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng chỉ rõ, nguyên nhân cơ bản và sâu xa của tham nhũng là do chủ nghĩa cá nhân, do suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên.

Thói đạo đức giả và bộ mặt thật của chủ nghĩa cá nhân - Bài 2: Diệt trừ thói đạo đức giả là diệt trừ chủ nghĩa cá nhân (Tiếp theo và hết)
Chung tay xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng thật trong sạch, vững mạnh. Đồ họa: THANH HẢI 

Để che đậy hành vi này, những người “có ít nhiều quyền hành trong bộ máy chính trị” thường phải mang bộ mặt đạo đức giả để tiếp tục luồn lách mà trục lợi. Những người này, ban đầu có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống trong sạch, lành mạnh, có động cơ, tuy nhiên, khi trong tay có chút quyền lực thì họ đã không thể ngăn được lòng tham, vì thế, tìm mọi cách mà vơ vét, làm lợi cho mình và gia đình. Lòng tham và dục vọng quá lớn khiến họ đánh mất mình. Họ đi vào suy thoái đạo đức, lối sống, lừa gạt tổ chức, cá nhân, tìm mọi cách tham ô, tham nhũng, thỏa mãn dục vọng thấp hèn, quên đi lý tưởng cao quý, những bài học về đạo đức cách mạng, quên đi bổn phận công bộc cho nhân dân, quên đi lời hứa trước Đảng, trước nhân dân, tình đồng chí, nghĩa đồng bào, quên đi biết bao người đang phấn đấu, lao động, chiến đấu, sản xuất để đất nước có được vị thế, tiềm lực như ngày hôm nay.

Cái gốc của người cán bộ cách mạng chính là đạo đức cách mạng

Ngày nay, không ít cán bộ rời xa những giá trị cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Quên đi cái gốc của người cán bộ cách mạng chính là đạo đức cách mạng. Quên đi lời dạy của Bác rằng, đạo đức cách mạng không phải từ trên trời rơi xuống, mà do bền bỉ tu dưỡng, rèn luyện mà thành. Họ đã quên đi sự rèn luyện mỗi ngày, quên đi những đức tính tốt đẹp cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư..., chỉ lo vinh thân phì gia, vơ cho đầy túi, xây cho nhiều nhà, sống xa hoa, rời xa quần chúng nhân dân. Nguy hiểm nhất, có một số cán bộ khi có chức vụ, quyền lực, được quản lý cơ quan, địa phương ở nhiều cấp khác nhau thì bắt đầu dùng thói đạo đức giả, những lời lẽ hoa mỹ, những kiến thức trống rỗng, những câu chuyện phi thực tế để che đậy mưu đồ bất chính, gây dựng ê-kíp làm ăn phi pháp, ăn chặn, tham nhũng, nhận hối lộ, đề bạt bổ nhiệm sai người, sai vị trí... dẫn tới việc những con số được thống kê từ Ủy ban Kiểm tra Trung ương về tình trạng cán bộ vi phạm kỷ luật, suy thoái cứ ngày một dày lên.

Có thể khẳng định, ở một bộ phận cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị vẫn còn không ít người giữ thói đạo đức giả. Đó là những hành vi dùng vỏ bọc đạo đức bề ngoài để che đậy bản chất cơ hội bên trong, lạm quyền, đánh lừa cá nhân, tập thể, lộng quyền, tiếp tay cho các việc làm sai trái nhằm mưu lợi riêng, đây là điều hết sức nguy hại. Thắng lợi của công cuộc đổi mới không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân, thói hư tật xấu của đảng viên, cán bộ. Chống thói đạo đức giả đã trở thành vấn đề bức thiết trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Thực tế cho thấy, ở thời nào cũng vậy, nếu cán bộ, đảng viên luôn nêu gương, tận tâm, tận lực thực thi công vụ, nói cho dân nghe, làm cho dân hiểu, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân thì sẽ để lại tiếng thơm muôn đời và ngược lại. Chỉ có quét sạch chủ nghĩa cá nhân, thói đạo đức giả, tích cực rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, chí công vô tư, thực hiện tốt bổn phận, nâng cao lòng tự trọng của mỗi cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất, danh dự, sống có trách nhiệm với cơ quan, địa phương, đất nước, đảng viên và cán bộ mới làm tròn trách nhiệm, lời hứa thiêng liêng trước cờ Đảng, trước nhân dân.

Nói tới phẩm chất người cán bộ, tinh thần phụng sự cách mạng, nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh tới những phẩm chất cốt lõi của người cán bộ, như: Phải tuyệt đối trung thành, kiên định lý tưởng cách mạng, đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của đất nước, dân tộc lên trên hết, trước hết; hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân, tận hiếu với nhân dân; hết lòng yêu thương đồng chí, đồng bào, yêu thương con người; cần, kiêm, liêm, chính, chí công vô tư; thật sự là công bộc của nhân dân; kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa cơ hội...

Trước những thách thức, yêu cầu của tình hình và điều kiện phát triển mới của đất nước, Đảng ta ngày càng chú trọng bảo đảm và phát huy sự liêm chính trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chính vì vậy, thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Quy định số 144-QĐ/TW ngày 9-5-2024 về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới.

Việc ban hành Quy định số 144-QĐ/TW là cấp thiết, phù hợp với yêu cầu thực tiễn, phát huy ưu điểm, khắc phục những tồn tại, hạn chế trong công tác xây dựng Đảng về đạo đức, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xây dựng Đảng ta “là đạo đức, là văn minh” như lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với quy định kịp thời này, Đảng đã đưa ra thông điệp mạnh mẽ là toàn Đảng cùng chấp hành nghiêm những tiêu chuẩn đạo đức ở mức rất cao, rất cụ thể với cán bộ, đảng viên. Đây sẽ là cơ sở để đánh giá, xử lý đảng viên vi phạm, kém rèn luyện, tha hóa, biến chất, sa vào chủ nghĩa cá nhân.

Những bài học Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy chúng ta về công tác cán bộ chưa bao giờ cũ. Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Do vậy, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình; đồng thời, phải tự thấy day dứt, hổ thẹn với những nhận thức lệch lạc và việc làm chưa đúng của mình. Không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, nhân cách, phẩm giá, duy trì lối sống trong sạch, lành mạnh, văn minh, nâng cao “sức đề kháng” trước những cám dỗ vật chất, tiền bạc, danh vọng, tránh sa vào chủ nghĩa cá nhân, lối sống ích kỷ, thực dụng, tham nhũng.

Ngày nay, đối với các cơ quan, tổ chức đoàn thể, trước thực tế tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống có chiều hướng phức tạp, cần nghiêm túc nhìn nhận sự yếu kém, hạn chế; các quy chế, quy định chưa được thực hiện đồng bộ, nghiêm túc; công tác kiểm tra, giám sát còn buông lỏng, thiếu thường xuyên. Vì vậy, tới đây, các tiêu chí về rèn luyện cán bộ cần cụ thể và chặt chẽ hơn nữa; siết chặt các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ; xây dựng các quy chế cần khoa học làm căn cứ để đánh giá đạo đức của cán bộ, đảng viên một cách khách quan, thực chất, toàn diện và nhân văn; khuyến khích quần chúng nhân dân mạnh dạn tố giác các hành vi vi phạm; bóc trần thói đạo đức giả của cán bộ, đảng viên kém tu dưỡng, rèn luyện.

NGUYỄN HÒA

NHẬN DIỆN VÀ ĐẤU TRANH VỚI CHỦ NGHĨA CƠ HỘI - CHÌA KHÓA BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG


 

Chủ nghĩa cơ hội là các quan điểm phi mácxít, mang tính chất phản động trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế. Hiện nay trước những diễn biến phức tạp của tình hình trong nước, khu vực và quốc tế, xuất hiện nhiều quan điểm, tư tưởng cơ hội chủ nghĩa dưới nhiều màu sắc rất phức tạp, rất khó nhận diện đã và đang phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, đe dọa trực tiếp đến vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Do đó, nhận diện và đấu tranh loại bỏ những biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội trong nội bộ đảng và trong xã hội là một tất yếu, khách quan trong sự nghiệp cách mạng của đảng ta để bảo vệ Cương lĩnh, mục tiêu, đường lối, những thành quả của cách mạng Việt Nam.

Giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu

 VIỆT NAM KÊU GỌI GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU 

 

Theo phóng viên TTXVN tại Thụy Sĩ, trong khuôn khổ Khóa họp lần thứ 56 của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (LHQ) ở Geneva, Đại sứ Mai Phan Dũng, Trưởng phái đoàn thường trực của Việt Nam tại LHQ, đã phát biểu thay mặt Nhóm nòng cốt Nghị quyết về quyền con người và biến đổi khí hậu - bao gồm Việt Nam, Bangladesh, Philippines - tại phiên thảo luận về chủ đề bảo đảm sinh kế bền vững trước tác động của biến đổi khí hậu.


Đại sứ Mai Phan Dũng khẳng định bảo đảm sinh kế bền vững, đặc biệt dành cho nhóm dễ bị tổn thương chịu tác động của biến đổi khí hậu, là ưu tiên hàng đầu của các nước đang phát triển. Biến đổi khí hậu, các hiện tượng thời tiết cực đoan ngày càng gây ra thiệt hại lớn về nhà cửa, hệ sinh thái, cơ sở hạ tầng, đồng thời làm suy yếu nền kinh tế, ảnh hưởng đến việc thụ hưởng các quyền con người cơ bản, nhất là của nhóm dễ bị tổn thương.


Đại sứ Mai Phan Dũng hối thúc cộng đồng quốc tế tăng cường hợp tác nhằm giải quyết hiệu quả tác động của biến đổi khí hậu đối với sinh kế của người dân. Đồng thời, Ông cũng kêu gọi vận hành hiệu quả Quỹ Tổn thất và Thiệt hại (được thành lập tại Hội nghị COP 28) để cung cấp nguồn tài chính cần thiết cho nhóm cộng đồng chịu tác động của biến đổi khí hậu, đặc biệt là ở các nước đang phát triển.


Bên cạnh đó, Đại sứ Mai Phan Dũng đã đưa ra một số giải pháp nhằm giải quyết những thách thức nêu trên. Cụ thể là thực hiện các chính sách ưu tiên người dân, trao quyền cho cộng đồng địa phương thông qua giáo dục, nguồn lực và chiến lược thích ứng; thúc đẩy các hoạt động bền vững trong nông nghiệp, thủy sản nhằm đảm bảo an ninh lương thực và sinh kế bền vững; và tích hợp khả năng thích ứng với khí hậu vào các chương trình bảo trợ xã hội để tăng cường khả năng phục hồi của những nhóm dân cư dễ bị tổn thương.


Sau đó, phát biểu tại phiên đối thoại với Báo cáo viên đặc biệt về quyền con người và biến đổi khí hậu ngày 2/7, Đại sứ Mai Phan Dũng đề nghị Báo cáo viên đặc biệt làm rõ hơn hiệu quả lồng ghép sự liên kết giữa các lĩnh vực hoạt động vào những chính sách về biến đổi khí hậu và biện pháp nhân rộng các bài học tốt nhằm đảm bảo sự tham gia có ý nghĩa của nhóm dễ bị tổn thương trong các hoạt động về biến đổi khí hậu. Ông cũng đề nghị Báo cáo viên đặc biệt đề xuất các giải pháp tăng cường phối hợp giữa các bên liên quan để thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền trong bối cảnh biến đổi khí hậu.


Ứng phó với biến đổi khí hậu là một trong những ưu tiên hàng đầu của Việt Nam. Nước ta đã có nhiều chính sách, chương trình hành động quyết liệt nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu; đồng thời tham gia các cam kết quốc tế mạnh mẽ trong vấn đề này, bao gồm cam kết giảm phát thải khí nhà kính theo mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Tại Hội đồng Nhân quyền LHQ, Việt Nam là thành viên Nhóm nòng cốt, cùng Bangladesh, Philippines giới thiệu nghị quyết hàng năm về biến đổi khí hậu và quyền con người. Tại khóa họp lần này của Hội đồng Nhân quyền LHQ, Việt Nam sẽ thay mặt Nhóm nòng cốt giới thiệu nghị quyết về chủ đề chuyển đổi công bằng./.


Tin tức/TTXVN

KIÊN QUYẾT QUÉT SẠCH CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN

Thực tiễn khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định sự trường tồn và phát triển của dân tộc Việt Nam. Để đủ sức lãnh đạo đất nước và xã hội, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã đặc biệt nhấn mạnh công tác xây dựng Đảng nói chung và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân (CNCN) nói riêng.

Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh coi CNCN là “kẻ thù của cách mạng”. Đảng ta xác định đấu tranh chống CNCN vừa là một nội dung trọng tâm, vừa là một giải pháp rất quan trọng trong xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Trong mọi thời kỳ cách mạng, trước bất cứ nhiệm vụ gì, Đảng ta đều đặc biệt coi trọng và gắn chặt với cuộc đấu tranh chống CNCN. Nhằm giải quyết vấn đề về tư tưởng và tổ chức của Đảng, trong đó có nội dung liên quan đến CNCN, từ năm 1939, Đảng ta đã tổ chức đợt sinh hoạt “tự phê bình” sâu rộng. Đặc biệt, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” viết năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ cụ thể 15 căn bệnh nguy hiểm trong Đảng bắt nguồn từ CNCN. Đảng ta nhận thức rõ nguồn gốc của những “căn bệnh” làm hư hỏng đội ngũ đảng viên, làm tha hóa Đảng ta không gì khác là CNCN. Từ chỗ coi CNCN là “kẻ thù của cách mạng”, Đảng xác định phải kiên quyết tuyên chiến với loại “giặc nội xâm” này. Vụ án Đại tá Trần Dụ Châu, Giám đốc Nha Quân nhu, vì CNCN mà phạm tội tham nhũng phải lĩnh án tử hình là ví dụ điển hình chứng minh cho tinh thần kiên quyết đấu tranh với CNCN trong Đảng.
Qua các nhiệm kỳ đại hội, Đảng ta đều có các văn kiện chuyên đề về đấu tranh chống CNCN. Đặc biệt, từ Đại hội VI đến nay, tinh thần kiên quyết đấu tranh chống CNCN của Đảng ta được thể hiện rất rõ nét. Tại Đại hội XIII, Đảng ta đề ra yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng với 10 giải pháp cơ bản, trong đó nhấn mạnh phải: Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII với trọng tâm là ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm minh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những hành vi tham nhũng, tiêu cực và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định tinh thần “kiên quyết đấu tranh quét sạch CNCN trong toàn Đảng”. Tại Điều 3 của Quy định số 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm, Đảng ta cũng nêu rõ đảng viên không được vướng vào “… CNCN, cơ hội, vụ lợi…”.
Nhờ thường xuyên coi trọng công tác xây dựng Đảng nói chung và đấu tranh chống CNCN nói riêng mà năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ta ngày càng được nâng lên. Đại đa số cán bộ, đảng viên của Đảng có bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn kiên định mục tiêu lý tưởng và con đường XHCN; phát huy tốt vai trò tiên phong, gương mẫu thực sự làm nòng cốt đi đầu trong công cuộc đổi mới và lãnh đạo quần chúng thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng. Nhiều tấm gương điển hình, tiên tiến được nhân rộng, lan tỏa trong đời sống xã hội. Mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng Đảng ta vẫn vững vàng chèo lái đưa con thuyền cách mạng vượt lên đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đặc biệt qua gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
Bên cạnh những thành tựu quan trọng đạt được, bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra từ nhiệm kỳ khóa VII, trong đó có “nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội” vẫn hiện hữu, có mặt diễn biến gay gắt, phức tạp hơn. Đúng như Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII đã chỉ rõ điều bức xúc và đáng lo nhất hiện nay là tình trạng tham nhũng, tiêu cực của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh sự “phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường XHCN, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin; nói trái, làm trái quan điểm, đường lối của Đảng; sa sút về ý chí chiến đấu, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh; thậm chí còn phụ họa theo những nhận thức, quan điểm sai trái, lệch lạc; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao; không thực hiện đúng các nguyên tắc xây dựng Đảng và tổ chức sinh hoạt Đảng”.
Có nhiều nguyên nhân của tình trạng trên, nhưng Đảng ta nhận định nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu, trong đó có nguyên nhân vướng vào CNCN. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn đến những hành vi sai trái, tiêu cực. Để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của đội ngũ đảng viên ngang tầm với đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới, Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh phải “kiên quyết đấu tranh quét sạch CNCN trong toàn Đảng”.
Mặt khác, trước bối cảnh mới đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; nền kinh tế phát triển chưa bền vững, khủng hoảng kinh tế toàn cầu tác động ảnh hưởng rất lớn, cùng với những hạn chế, yếu kém còn tồn tại khiến nước ta đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới, đòi hỏi Đảng ta tiếp tục đẩy mạnh công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng lên tầm cao mới. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra: “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”. Có thể khẳng định đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị nói chung, đấu tranh kiên quyết với CNCN nói riêng không phải là ý muốn chủ quan của ai, mà là yêu cầu tất yếu của tình hình nhiệm vụ cách mạng.
Để tiếp tục đấu tranh chống CNCN đạt hiệu quả cao, trước hết chúng ta cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, nhằm không ngừng nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường xây dựng XHCN. Đây là cơ sở, nền tảng để cán bộ, đảng viên xác định động cơ, mục đích rèn luyện, tu dưỡng phấn đấu đúng đắn, vì lợi ích của tập thể, của quốc gia, dân tộc, trong đó có gia đình, cá nhân mình. Chỉ có trên cơ sở ý thức rõ điều đó, cán bộ, đảng viên mới nâng cao sức “đề kháng”, không mắc vào CNCN.
Trong tổ chức xây dựng và sinh hoạt đảng phải giữ vững các nguyên tắc, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ gắn chặt với đề cao trách nhiệm cá nhân trong Đảng. Đồng thời, thường xuyên đẩy mạnh đấu tranh tự phê bình và phê bình nhằm phòng ngừa từ xa CNCN cũng như mọi biểu hiện tham nhũng, tiêu cực. Mỗi đảng viên, từng tổ chức Đảng phải coi tự phê bình và phê bình như phương thuốc để phòng ngừa và chữa trị các căn bệnh mắc phải. Mặt khác, phải có cơ chế phát huy tai mắt của nhân dân trong xây dựng Đảng và tham gia đấu tranh chống CNCN. Trước hết là phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc giám sát cán bộ, đảng viên. Phát huy tốt vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong tuyên truyền cổ vũ, tôn vinh những tổ chức đảng, đảng viên điển hình, tiên tiến và phát hiện, đấu tranh với những biểu hiện của CNCN. Dùng thông tin chính thống đẩy lùi những thông tin sai trái, xấu, độc, đề cao trách nhiệm của các cơ quan báo chí trong cung cấp thông tin, định hướng dư luận, đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn lợi cuộc đấu tranh chống CNCN, chống tham nhũng, tiêu cực để chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta./.

GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT, GIỮ NGHIÊM KỶ LUẬT QUÂN ĐỘI LÀ THIẾT THỰC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Để pháp luật thực sự đi vào cuộc sống, trở thành nền nếp, thói quen trong mọi hành vi, hoạt động của mỗi công dân và các tổ chức trong xã hội, cần phải thường xuyên quan tâm chăm lo nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức pháp luật nhằm không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật cho nhân dân. Đây không chỉ là trách nhiệm của riêng các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, mà còn là trách nhiệm của mọi cấp, mọi ngành, mọi tổ chức xã hội và của mỗi người dân. Đảng ta đã xác định: “Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật”. Quân đội nhân dân Việt Nam là công cụ bạo lực sắc bén của Nhà nước càng phải tăng cường giáo dục ý thức pháp luật, giữ nghiêm kỷ luật quân đội nhằm góp phần bảo vệ và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thực tế những năm qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, cấp ủy, chỉ huy các cấp đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và coi trọng bồi dưỡng ý thức pháp luật, giữ nghiêm kỷ luật như một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm xây dựng quân đội của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Hiện nay, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện có nhiều tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, thì việc tăng cường bồi dưỡng ý thức pháp luật, giữ nghiêm kỷ luật càng trở nên cấp thiết nhằm làm cho cán bộ, chiến sĩ hiểu và chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội. Bồi dưỡng ý thức pháp luật là khâu rất quan trọng để đưa pháp luật thực sự đi vào đời sống xã hội trong lĩnh vực hoạt động quân sự. Thông qua bồi dưỡng ý thức pháp luật làm cho mọi người có trình độ văn hóa pháp lý cần thiết, trên cơ sở đó xác định đúng trách nhiệm, nghĩa vụ và tự giác chấp hành pháp luật Nhà nước, điều lệnh, điều lệ quân đội; tham gia tích cực vào việc đấu tranh chống mọi biểu hiện vi phạm pháp luật, tạo sự thống nhất về ý chí và hành động.
Quán triệt và cụ thể hóa các chương trình của Chính phủ và Bộ Quốc phòng, các đơn vị trong toàn quân đã triển khai nghiêm túc, đầy đủ nội dung quy định; hoàn thành việc phổ cập những kiến thức cơ bản về pháp luật và phổ biến kịp thời các nội dung pháp luật có liên quan tới mọi quân nhân như: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi), Bộ Luật tố tụng hình sự, Bộ Luật dân sự, Bộ Luật hôn nhân và gia đình; đồng thời, trang bị những kiến thức pháp luật trực tiếp liên quan đến chức năng nhiệm vụ đơn vị, nghĩa vụ và quyền lợi của công dân như: Luật Nghĩa vụ quân sự (sửa đổi), Luật Sĩ quan, Bộ Luật lao động, Luật Công đoàn, Pháp lệnh dân quân, tự vệ… Nội dung quan trọng trong các bộ luật có liên quan trực tiếp đến đời sống của cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị đã được cấp ủy, chỉ huy các cấp vận dụng trong sinh hoạt, học tập và công tác như Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Giao thông đường bộ, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và biện

Những cây bút không chuyên lan tỏa nét đẹp “vườn hoa” người tốt, việc tốt Thủ đô.

  Sau 10 năm triển khai Cuộc thi viết về gương điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt trên địa bàn TP Hà Nội, hàng nghìn gương điển hình tiên tiến đã được phát hiện và nhân rộng. Những tấm gương tốt, việc làm hay đã thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước trên khắp địa bàn thành phố. Có được những thành tích kể trên, không thể không nói đến sự góp công, góp sức của những người làm báo không chuyên.

Từ một cuộc thi viết

Phát huy truyền thống là một trong những địa phương luôn đi đầu trong các phong trào thi đua yêu nước, thực hiện Chỉ thị 34-CT/TW của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng”, từ năm 2015, TP Hà Nội đã kịp thời triển khai, tổ chức Cuộc thi viết về gương điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt. Số lượng các tác phẩm dự thi dành cho đối tượng chuyên và không chuyên đều tăng suốt 10 năm phát động và tổ chức. Số lượng đơn vị tham gia cuộc thi cũng tương tự. Nếu như năm 2017 có 85 địa phương, cơ quan, đơn vị gửi bài viết tham dự thì đến năm 2023 đã có 112 địa phương, cơ quan, đơn vị gửi bài tham gia dự thi cấp thành phố. Đáng chú ý, cuộc thi đã nhận được sự tham gia của đông đảo đối tượng dự thi là cán bộ, công chức, viên chức, cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang, học sinh, sinh viên thuộc các trường trên địa bàn; và xuất hiện ngày càng nhiều hơn các tác giả là cán bộ cơ sở, người dân ở tổ dân phố, khu dân cư…

Bên cạnh việc phản ánh chân thực, khách quan, người thật, việc thật, rõ người, rõ địa chỉ nơi điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt cư trú hoặc học tập, công tác. Nhiều bài dự thi trình bày đẹp, công phu, sáng tạo, có nhiều hình ảnh, số liệu minh họa phong phú; nhiều bài dự thi được viết tay thể hiện cảm xúc trân trọng đối với đối tượng được viết và sự tâm huyết của tác giả đối với cuộc thi viết. Đáng mừng, có nhiều gương điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt là các nhân tố mới được phát hiện, có sức lan tỏa ở đơn vị, địa phương, trong những năm qua trên cơ sở tiếp nhận, tổng hợp bài viết dự thi và thông tin giới thiệu của các đơn vị về các gương điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt, Ban Thi đua - Khen thưởng đã rà soát, thẩm định kịp thời đề xuất Chủ tịch UBND TP Hà Nội tặng danh hiệu người tốt, việc tốt cho 4.286 cá nhân, tặng Bằng khen cho 20 tập thể, 15 hộ gia đình; tặng danh hiệu “Công dân Thủ đô ưu tú” cho 11 cá nhân; trình Thủ thướng Chính phủ tặng Bằng khen cho 4 hộ gia đình, 5 cá nhân; trình Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng Ba cho 2 cá nhân.

Tổng số gương người tốt, việc tốt của thành phố được lựa chọn tuyên truyền và giới thiệu Trung ương truyên truyền trong 10 năm qua lên đến gần 400 gương và cùng với đó là trên 600 gương được lựa chọn viết sách “Những bông hoa đẹp” của Thủ đô từ tập XXI (xuất bản năm 2015) đến tập XXIX (xuất bản năm 2023). Đó là những điển hình tiên tiến, những gương tiêu biểu nhất được lựa chọn trong số hàng nghìn gương người tốt, việc tốt được phát hiện, khen thưởng qua các năm. Chính từ cuộc thi viết đã phát hiện, nhân rộng các điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt của thành phố, góp phần tạo dựng nên “Những bông hoa đẹp” trong “vườn hoa” muôn sắc của Thủ đô.


Xuất hiện những phóng viên không chuyên “thường trú” tại cơ sở

Trong thành công của cuộc thi viết, không thể không kể đến những tác giả không chuyên. Họ là những cán bộ hưu trí, giáo viên, công an, bộ đội, cán bộ trung tâm văn hóa... - tất cả đều có một điểm chung - niềm đam mê viết lách. Họ là những người trực tiếp làm việc tại cơ sở, nắm rõ địa bàn. Chúng tôi vẫn gọi họ là những phóng viên không chuyên “thường trú” tại cơ sở. Anh Nguyễn Xuân Tiến, Phó Chánh Văn phòng Huyện ủy Thường Tín, người từng có nhiều năm là cán bộ Trung tâm Văn hóa thông tin huyện Thường Tín là ví dụ.

Là cán bộ bám và nắm chắc địa bàn, anh Nguyễn Xuân Tiến đã phát hiện nhiều tấm gương đẹp, việc làm tốt tại cơ sở. Năm 2023, anh đã đoạt giải Ba cuộc thi với bài viết: “Những người xuyên đêm vá đường” kể về câu chuyện anh Phạm Văn Hiếu và những người bạn ở huyện Thường Tín không quản ngày đêm, mưa nắng “vá lành” những “ổ gà” trên những con đường, đảm bảo giao thông an toàn... Năm nay, anh một lần nữa giành giải cao nhất với bài viết: “Vượt lên nỗi đau hiến tạng cứu người của đôi vợ chồng yếu thế”. Với góc nhìn chân thực của mình, anh Tiến đã phản ánh câu chuyện về gia đình anh Đặng Trịnh Bộ và chị Nguyễn Thị Hòa (ở xóm 2, thôn Quất Động, xã Quất Động, huyện Thường Tín). Khi anh Bộ mắc bệnh hiểm nghèo, chị Hòa đã tình nguyện hiến tạng của chồng mình để cứu sống và mang lại hạnh phúc người khác. Đến nay, cuộc sống của anh Đặng Trịnh Bộ đã kết thúc nhưng lại mang đến sự sống, hạnh phúc cho bao gia đình. Hành động hiến tạng không chỉ là việc cứu người, mà còn là sự lan tỏa của tình yêu, tình người và hy vọng. Điều đó chắc chắn sẽ góp phần làm thay đổi tư duy, suy nghĩ của nhiều người về một xã hội đoàn kết, giàu lòng nhân ái.

Tương tự, với Trung tá Dương Hồng Nhật, dù mang đặc thù công việc của một chiến sĩ Công an quận Tây Hồ nhưng anh vẫn dành những khoảng lặng trong tâm hồn và ngòi bút của mình để khắc họa nên những nhân vật với việc làm đẹp đẽ mà anh tiếp xúc. Để rồi, bài viết: “Người hùng đầu trọc và sứ mệnh trên sông Hồng” của anh đã lay động biết bao độc giả và giành giải Nhì cuộc thi viết người tốt, việc tốt năm 2024. Bài viết của Trung tá Dương Hồng Nhật đã khắc họa nên chân dung về anh Nguyễn Văn Dũng, một người hùng thầm lặng gắn bó với con sông Hồng và nghề vớt xác. Anh Dũng đã dành phần lớn cuộc đời của mình để mang lại hy vọng và tình thương cho những người đã ra đi. Suốt hơn 30 năm, anh đã vượt qua những thách thức khắc nghiệt của môi trường làm việc đầy nguy hiểm và khó khăn, để đưa hơn 600 thi thể về nơi yên nghỉ cuối cùng. Anh Nguyễn Văn Dũng, người mang theo niềm tin, hy vọng và lòng nhân ái, là một biểu tượng tuyệt vời cho sự đẹp đẽ của tâm hồn con người. Trung tá Dương Hồng Nhật chia sẻ: “Tôi đã biết đến anh Dũng gần 10 năm nay. Do tính chất công việc đặc thù, những việc làm của anh Dũng đã giúp chúng tôi rất nhiều, chúng tôi luôn coi anh như một cộng tác viên đặc biệt của đơn vị. Qua bài viết của mình, tôi không chỉ muốn góp một phần lan tỏa hành động đẹp đẽ của anh Dũng, mà còn là lời tri ân đến anh Dũng, đến những việc làm thầm lặng của anh”.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Mỗi người tốt là một bông hoa đẹp, cả dân tộc ta là một vườn hoa đẹp”. Thế nên, cần lắm những người như anh Tiến, anh Nhật và rất nhiều những người viết báo không chuyên khác, cần mẫn, ghi lại những hình ảnh, kể lại những câu chuyện về những cá nhân điển hình tiên tiến, những tấm gương người tốt, việc tốt, để từ đó lan tỏa sâu rộng những giá trị chân - thiện - mỹ, làm nên nét đẹp của “vườn hoa” người tốt, việc tốt Thủ đô.