Thứ Tư, 3 tháng 7, 2024

Quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển - đảo thiêng liêng của Tổ Quốc

 QUYẾT TÂM BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO THIÊNG LIÊNG CỦA TỔ QUỐC

*****

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động đã trắng trợn xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về bảo vệ chủ quyền biển, đảo.


Chúng rêu rao rằng Đảng, Nhà nước Việt Nam “nhu nhược”, “làm ngơ” trong bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển; “chỉ có liên minh quân sự với các cường quốc quân sự thì Việt Nam mới giữ được chủ quyền biển, đảo, bảo vệ được lợi ích quốc gia - dân tộc”; Đảng, Nhà nước và Quân đội nhân dân Việt Nam “không đủ năng lực và không đủ quyết tâm để bảo vệ chủ quyền biển, đảo”… Những luận điệu này là hoàn toàn sai trái, bịa đặt. Đấu tranh bác bỏ những luận điệu sai trái trên vừa bảo vệ chủ trương, đường lối, nền tảng tư tưởng của Đảng, vừa góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.


Chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam


Tháng 12-1986, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện. Về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới, Đại hội xác định: “Toàn dân xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc”, “Toàn quân bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước”. Quan điểm, chủ trương của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được khẳng định trong Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng là định hướng để Đảng xác định nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong những năm 1986-1990 là: “Tăng cường tổ chức bảo vệ chủ quyền và giữ vững các tuyến biên giới, vùng trời, vùng biển và hải đảo”.


Quán triệt Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng, ngày 30-11-1987, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 06 NQ/TƯ về bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và tăng cường sự có mặt của Việt Nam ở Biển Đông và Trường Sa. Bước sang thế kỷ XXI, mục tiêu bảo vệ chủ quyền biển, đảo được Đảng nhận thức ngày càng toàn diện hơn. Nếu như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 khẳng định: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, lãnh thổ toàn vẹn của Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, sự ổn định chính trị, trật tự và an toàn xã hội, quyền làm chủ của nhân dân, làm thất bại mọi âm mưu và hành động của các thế lực đế quốc, phản động phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”, thì đến Nghị quyết Trung ương 8, khóa IX và sau đó là Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI, Đảng chỉ rõ: Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa không những bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, mà còn bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.


Đặc biệt, tại Đại hội lần thứ XI, lần đầu tiên Đảng đã đưa vấn đề “giữ vững chủ quyền biển đảo” vào nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, khi xác định: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời...”.


Cùng với những quan điểm, chủ trương đúng đắn trên, Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, chỉ rõ: Đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho đất nước giàu mạnh. Đây là sự phát triển vượt bậc trong tư duy lãnh đạo đất nước theo phương châm hướng ra biển của Đảng và cũng là sự chuyển biến có ý nghĩa quyết định đến thành công của toàn bộ quá trình phát triển kinh tế biển gắn với nhiệm vụ bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Tổ quốc trong thời kỳ mới.


Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo vệ chủ quyền biển, đảo, nhận thức của cả hệ thống chính trị, của các tầng lớp nhân dân trong nước và đồng bào ta ở nước ngoài về vị trí, vai trò của biển, đảo đối với công cuộc phát triển kinh tế cũng như bảo vệ chủ quyền quốc gia nâng lên rõ rệt. Chủ quyền, an ninh quốc gia trên biển được giữ vững. Tuy nhiên, nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo gặp không ít khó khăn, thách thức, đặc biệt là công tác lãnh đạo, chỉ đạo bảo vệ chủ quyền biển, đảo của một số cấp ủy Đảng, chính quyền thiếu thường xuyên, quyết liệt. Chính sách, pháp luật về biển chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ; một số chủ trương lớn của Đảng chưa được thể chế hóa kịp thời... Trước bối cảnh đó, để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới, Đại hội lần thứ XIII của Đảng (năm 2021) đề ra chủ trương:


1. “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc...”.


2. “Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân, Công an nhân dân là nòng cốt...; xây dựng và củng cố các tuyến phòng thủ biên giới, biển, đảo”.


3. “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa. Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế”.


4. “Thực hiện chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế biển và vùng ven biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, tăng cường xây dựng các khu kinh tế biển, xây dựng các chương trình hỗ trợ ngư dân bám biển, đánh bắt xa bờ, tạo điều kiện cho việc phòng thủ, bảo vệ, kiểm soát và làm chủ vùng biển”.


5. “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời; vùng biển; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”.


Thực tiễn bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc


Thực tiễn chủ trương, đường lối về bảo vệ chủ quyền biển, đảo cho thấy Đảng và Nhà nước Việt Nam không ngừng nâng cao nhận thức chính trị của mình về vị trí, vai trò của biển, đảo và chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; đã xây dựng và hình thành một hệ thống các quan điểm, chính sách rõ ràng, nhất quán về bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc; đặc biệt là đã thể hiện được bản lĩnh chính trị vững vàng trong xử lý các vấn đề khu vực và quốc tế liên quan đến bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.


Với sự quyết tâm của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, công cuộc bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam luôn diễn ra đúng phương châm, phương hướng và thu được những thành công nhất định. Đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân trên các đảo, quần đảo được bảo đảm, giúp nhân dân luôn phấn khởi, tin tưởng và sẵn sàng gắn bó với đảo.


Trong bất luận hoàn cảnh nào, Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng luôn quan tâm xây dựng lực lượng vũ trang nói chung, Hải quân nhân dân Việt Nam và Cảnh sát biển Việt Nam nói riêng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, làm nòng cốt trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Hơn nữa, với truyền thống xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và những chiến công oanh liệt trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, Bộ đội Hải quân và lực lượng Cảnh sát biển luôn vững vàng về lập trường, kiên định về lý tưởng, có tư duy sáng tạo, sẵn sàng chiến đấu cao quyết tâm bảo vệ an ninh, an toàn biển, đảo của Tổ quốc. Điều này bác bỏ những luận điệu xuyên tạc về sức mạnh và ý chí chiến đấu của Quân đội ta nói chung của lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam và Cảnh sát biển Việt Nam nói riêng.


Tựu trung lại, nhiệm vụ bảo vệ biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc luôn được Đảng, Nhà nước, Quân đội ta và toàn dân đặc biệt coi trọng, đang được tiến hành một cách đồng bộ, bài bản, kiên quyết, kiên trì, kiên cường và khôn khéo. Những luận điệu xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về quyết tâm bảo vệ chủ quyền biển, đảo là không mới, nhưng rất nguy hiểm, bởi đây là vấn đề được dư luận trong và ngoài nước hết sức quan tâm. Vì vậy, nhận diện, đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái; khẳng định tính đúng đắn trong chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo vệ chủ quyền biển, đảo là yêu cầu bức thiết đặt ra nhằm bác bỏ mọi sự chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, để Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển; phát triển bền vững, thịnh vượng như Nghị quyết số 36-NQ/TƯ ngày 22-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã xác định./.



PHÂN BIỆT VÙNG MIỀN – ÂM MƯU CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH


 Nếu ai tinh tế, chú tâm theo dõi cách mà đám phản động “Nhật ký yêu nước” “Việt tân” cũng

như các trang Facebook của bọn phản đông hiện nay tuyên truyền kiểu “yêu nước” của chúng

cũng đủ thấy hết tư tưởng phân biệt vùng miền, cầu vinh bán nước.Và dưới đây là một bài viết

tương tự, chúng cho rằng, miền Bắc Việt Nam (chúng gọi là PAKKY – Bắc Kỳ), “vào cướp Nam

Kỳ”, một tư duy “hài kịch”.

Chúng ra sức xuyên tạc rằng cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Việt

Nam thời kỳ 1954 – 1975 là “nội chiến” là “miền Bắc xâm lược miền Nam”. Chúng âm mưu

xuyên tạc lịch sử để tạo ra dư luận trong quần chúng nhân dân, gây ra chia rẽ hai miền Bắc –

Nam, chia rẽ khối đại đoàn kết của dân tộc ta hòng thực hiện ảo vọng chống phá Đảng, Nhà nước

ta. Nhưng chỉ cần để ý một chút thì người đọc đã dễ dàng nhận ra đó là những luận điệu do bọn

phản động, chống phá cố tình bịa đặt một cách trắng trợn, bất chấp đúng sai. Nếu tìm hiểu về lịch

sử Việt Nam, chúng ta đã quá rõ để biết được cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược của

nhân dân Việt Nam thời kỳ 1954 – 1975 không phải là “nội chiến”, mà là cuộc chiến tranh yêu

nước, nhằm giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Cả thế giới đều thấy rõ như ban ngày sự thật

về âm mưu của đế quốc Mỹ là biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, lấy đó làm bàn đạp tiến

công miền Bắc. Vì vậy, nguồn gốc chiến tranh là mưu đồ chính trị và hành động xâm lược Việt

Nam của Mỹ, chứ không phải xuất phát từ mâu thuẫn nội bộ dân tộc Việt Nam.

Tóm lại, là người Việt Nam yêu nước chẳng ai có tư tưởng phá hoại đoàn kết dân tộc, phân biệt

vùng miền như chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước Việt Nam là một, Dân tộc

Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”.

Chúng ta đánh Mỹ, đuổi Ngụy cũng vì chân lý độc lập thống nhất của đất nước. Bắc Kỳ – Nam

Kỳ đều là của Việt Nam. Chính vì chân lý xanh tươi ấy mà cả dân tộc phải hao tổn bao xương

máu để dành lại độc lập thống nhất.Vậy mà có những kẻ lại ra rả phân biệt vùng miền, chia rã

đoàn kết, chia rẽ Bắc – Nam. Những luận điệu ấy chỉ có thể là tư duy khuyết tật của đám xỏ lá ba

que.Những kẻ nào cứ tiếp tay cho ngoại bang chống phá đất nước, phá hoại văn hóa truyền thống

dân tộc, đi ngược chân lý Việt Nam đều phải nhận kết cục thất bại ê chề.

Đường lối đối ngoại rộng mở góp phần khẳng định vị thế Việt Nam


Với đường lối đối ngoại đúng đắn dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Vì thế, có rất nhiều nước, trong đó có các cường quốc hàng đầu trên thế giới, muốn thiết lập quan hệ đối tác toàn diện, đối tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện và đối tác đặc biệt với Việt Nam.

Tính đến tháng 9-2023, ngoài 3 quốc gia thiết lập quan hệ đặc biệt với Việt Nam là Lào, Campuchia và Cuba, có 12 quốc gia thiết lập quan hệ đối tác toàn diện với Việt Nam, gồm: Nam Phi, Chile, Brazil, Venezuela, Argentina, Ukraine, Đan Mạch, Myanmar, Canada, Hungary, Brunei và Hà Lan.

Ở mức đối tác cao hơn, có 13 quốc gia thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam, gồm: Nhật Bản, Tây Ban Nha, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, Đức, Italy, Thái Lan, Indonesia, Singapore, Pháp, Malaysia, Philippines, Australia, New Zealand. Ở mức độ đối tác cao nhất có 5 quốc gia thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam là Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc và Hoa Kỳ.

Việc Hoa Kỳ từng là quốc gia cựu thù với Việt Nam trong cuộc chiến tranh xâm lược kéo dài 30 năm, cũng là nước đứng đầu thế giới tư bản công nhận thể chế chính trị của nước ta, ủng hộ một nước Việt Nam mạnh, độc lập, thịnh vượng và tự cường để thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình, hợp tác, phát triển bền vững là một sự kiện có ý nghĩa lịch sử rất quan trọng. Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện là hợp tác lâu dài, tin cậy lẫn nhau và sâu rộng trong tất cả các lĩnh vực, cùng mang lại lợi ích chiến lược cho cả hai bên.

Kể từ khi đổi mới, Việt Nam không chỉ chủ động hội nhập quốc tế mà còn đóng góp nhiều sáng kiến để hóa giải các vấn đề toàn cầu. Là thành viên tích cực và chủ động, Việt Nam đã đưa ra những cam kết mạnh mẽ trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc và được quốc tế đánh giá cao. Ông Kamal Malhotra, Điều phối viên thường trú của Liên hợp quốc tại Việt Nam trong giai đoạn 2018-2022, nhận định: "Nếu chúng ta nói về những kết quả trong 10 năm trở lại đây, Việt Nam có thể tự hào khi đứng trong hàng ngũ các nước đi đầu thực hiện các mục tiêu của Liên hợp quốc. Việt Nam cam kết mạnh mẽ để không ai bị bỏ lại phía sau". Tổng thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres đánh giá: Việt Nam luôn là đối tác mạnh nhất của Liên hợp quốc kể từ khi gia nhập năm 1977; vai trò đầu tàu trong việc đạt được các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ là nền tảng vững chắc giúp Việt Nam triển khai Chương trình phát triển bền vững 2030. Việt Nam đã và đang có những đóng góp quan trọng trong việc ủng hộ hòa bình bền vững.

Nhận được sự tín nhiệm cao của cộng đồng quốc tế, năm 2013, Việt Nam lần đầu tiên trúng cử Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014-2016 với số phiếu ủng hộ cao nhất trong số 14 nước thành viên mới (184/192). Tiếp đến, ngày 11-10-2022, Đại hội đồng Liên hợp quốc bầu Việt Nam làm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025. Ngày 7-6-2019, Đại hội đồng Liên hợp quốc bầu Việt Nam làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2020-2021. Với 15 thành viên, trong đó có 10 thành viên không thường trực, Hội đồng Bảo an là một trong 6 cơ quan chính của Liên hợp quốc được trao trách nhiệm hàng đầu trong việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Tiếp theo nhiệm kỳ đầu tiên của Việt Nam trong Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc 2008-2009, năm 2019 là lần thứ hai Việt Nam được bầu làm thành viên của cơ quan quyền lực cao nhất này của Liên hợp quốc.

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHONG TRÀO THI ĐUA


 Tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước là hệ thống quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước, được hình thành trên cơ sở tiếp thu và vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản Chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng và truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm của dân tộc, đường lối và thực tiễn đấu tranh cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ nội dung của “Lời kêu gọi thi đua ái quốc” thể hiện nổi bật tư tưởng của Người về thi đua ái quốc như sau:

Một là, quan điểm thi đua, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng thi đua lên tầm tư tưởng, đường lối chính trị và phương pháp cách mạng. Theo Người, thi đua là một trong những biện pháp của quá trình vận động cách mạng, có ý nghĩa sâu sắc, rộng lớn, thi đua không chỉ khơi dậy tiềm năng sáng tạo của con người, mà quan trọng hơn là cải tạo bản thân con người, nêu cao tinh thần yêu nước, tinh thần quốc tế, làm cho già, trẻ, gái, trai và tất cả các tầng lớp nhân dân, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, địa vị xã hội đều hướng tới mục đích chung.

Hai là, mục đích thi đua yêu nước nhằm khơi dậy, phát huy được tinh thần yêu nước của mọi tầng lớp nhân dân, làm cho mọi người đều hăng hái, tích cực, sáng tạo, ngày càng làm được nhiều điều tốt hơn trong xã hội… Như vậy, đời sống của nhân dân sẽ ngày càng đầy đủ, no ấm, đất nước sẽ ngày càng giàu lên, quân đội sẽ ngày càng vững mạnh và sẽ hoàn thành được mục tiêu của cách mạng đề ra.

Ba là, nội dung thi đua yêu nước phải toàn diện, phải xuất phát và phục vụ nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn cách mạng, phải thiết thực, ở tất cả các lĩnh vực hoạt động của đất nước, gắn với nhiệm vụ cụ thể của từng ngành, từng cấp, hướng vào cải tạo và xây dựng con người mới, hướng vào giải quyết những vấn đề cơ bản, thiết thực của nhân dân; thi đua phải gắn với công việc hằng ngày của mỗi người.

Bốn là, cách tổ chức phong trào thi đua yêu nước: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Phải dựa vào lực lượng của dân, tinh thần của dân, để gây hạnh phúc cho dân”; các phong trào thi đua yêu nước cần phải đa dạng, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần tự giác, sáng tạo và sức lực của các tầng lớp nhân dân trong từng giai đoạn cách mạng. Trong quá trình thi đua, Người thường lưu ý, phải coi trọng sáng kiến, tổng kết kinh nghiệm. Từ những sáng kiến và kinh nghiệm trong từng ngành, lĩnh vực, ở một địa phương, cơ quan, đơn vị… sẽ được phổ biến, lan rộng ra nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, nhiều cơ quan, cho đến cả nước; phải coi những sáng kiến, kinh nghiệm là tài sản vô giá, cần được phát huy và phổ biến.

Năm là, phương châm thi đua yêu nước, Người chỉ rõ “thi đua chứ không phải ganh đua” nên cần phải đoàn kết, thân ái giúp đỡ lẫn nhau để đạt thành tích cao; “giúp đỡ những người và những nhóm còn kém theo kịp mức cao hiện nay”; thi đua phải gắn liền với công tác khen thưởng; khen thưởng là kết quả của phong trào thi đua; khen thưởng đúng người, đúng việc, kịp thời sẽ động viên, giáo dục và thúc đẩy phong trào thi đua phát triển liên tục. Như vậy, thi đua để tăng cường đoàn kết, mà đoàn kết lại đẩy mạnh thi đua.

Sáu là, lực lượng thi đua, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, lực lượng của phong trào thi đua yêu nước là toàn thể nhân dân: “Mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ, đều cần phải trở nên một chiến sĩ tranh đấu trên mặt trận: quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa”. Từ đó, Người nhận định: “Với lòng nồng nàn yêu nước và lực lượng vô cùng tận của nhân dân ta, cuộc Thi đua ái quốc nhất định sẽ thành công to”.

Ngày nay, cách mạng nước ta đang bước vào thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, hội nhập quốc tế, Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong trào thi đua yêu nước vẫn giữ nguyên giá trị lý luận và thực tiễn. Để vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước trong giai đoạn cách mạng hiện nay, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp: tiếp tục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, nhân dân về ý nghĩa và tác dụng của phong trào thi đua yêu nước; tăng cường giáo dục lòng yêu nước, ý thức tự lực, tự cường, tự hào dân tộc và tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tạo nên sự đồng thuận thực hiện phong trào thi đua ngày càng phát triển. Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác thi đua khen thưởng.

“Sáng kiến và kinh nghiệm cũng như những con suối nhỏ chảy vào sông to, những con sông to chảy vào bể cả. Không biết quý trọng sáng kiến và phổ biến kinh nghiệm tức là lãng phí của dân tộc” - Chủ tịch Hồ Chí Minh./.

 

NHẬN THỨC ĐÚNG VỀ QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN ĐỂ KHÔNG PHÁT NGÔN TÙY TIỆN


 Quyền tự do ngôn luận là một trong những quyền cơ bản của con người được ghi nhận trong nhiều văn bản luật quốc tế. Điều 29 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc nêu rõ: “Mỗi người đều có nghĩa vụ đối với cộng đồng, trong khi hưởng thụ các quyền về tự do cá nhân, phải chịu những hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc thừa nhận và tôn trọng đối với các quyền tự do của người khác và phù hợp với những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ”. Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) năm 1966 cũng quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thông tin, ý kiến”.

Tương đồng với quy định quốc tế, tại Việt Nam, các quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận của công dân luôn được Đảng, Nhà nước tôn trọng và bảo đảm. Các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013 đều khẳng định quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Điều 25 Hiến pháp năm 2013 hiến định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.

Tuy nhiên, quyền tự do ngôn luận không phải là “quyền bất khả xâm phạm” mà phải tuân thủ trong khuôn khổ pháp luật. Quyền tự do ngôn luận, quyền cơ bản của con người đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.

Việc hiểu đúng tự do ngôn luận không chỉ là tôn trọng quyền lợi cá nhân mà còn là sự nhận thức về trách nhiệm đạo đức và pháp luật trong việc sử dụng quyền này. Tự do ngôn luận không phải là tự do tùy tiện phát ngôn mà là một trách nhiệm được thực hiện theo các chuẩn mực pháp lý và đạo lý, qua đó góp phần bảo đảm an ninh tư tưởng - văn hóa và giữ vững ổn định trật tự xã hội.

Tự do ngôn luận không chỉ đơn thuần là việc phát biểu ý kiến mà còn là việc truyền đạt thông tin, kiến thức và quan điểm một cách khách quan, công tâm, trung thực. Tính trung thực và đạo đức trong sử dụng tự do ngôn luận là điều không thể phủ nhận, cần được đặt lên hàng đầu, đặc biệt là đối với trí thức, nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu, luật sư và những người có ảnh hưởng nhất định với cộng đồng, xã hội.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, vẫn có một số cá nhân, nhất là một số người nắm “quyền lực thông tin, quyền lực của con chữ” đã sử dụng tự do ngôn luận một cách tùy tiện, thậm chí lợi dụng để phá hoại an ninh tư tưởng và văn hóa. Thời gian qua, một số trí thức, nhà văn, luật sư... đã lợi dụng tự do ngôn luận để phát ngôn, viết bài với nhiều kỹ năng cài cắm thông tin mập mờ, trộn lẫn đúng-sai nhằm mục đích xấu, thậm chí chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. Các hành động này không chỉ vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan Nhà nước, danh dự của cá nhân lãnh đạo mà còn gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường thông tin và sự ổn định, phát triển của xã hội.

Một số giải pháp phòng, chống thủ đoạn “thao túng tâm lý”


Mục tiêu của thủ đoạn “thao túng tâm lý” dù xem xét dưới góc độ nào: Tâm lý hay chính trị, trước mắt hay lâu dài, ngấm ngầm hay công khai đều mang tính chất phản nhân văn, đi ngược lại những giá trị tốt đẹp của con người. Thực chất đó là một trong những thủ đoạn của cuộc chiến tranh tâm lý, cuộc chiến chống lại con người.

Để phòng, chống có hiệu quả thủ đoạn này, giải pháp hàng đầu là quan tâm xây dựng sự vững vàng về tâm lý cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. “Vững vàng tâm lý” thể hiện ở kiến thức, quan điểm và niềm tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ; là khả năng kịp thời nhận diện, phản bác thông tin xấu độc, bịa đặt, thủ đoạn tuyên truyền chính trị của kẻ thù; khả năng nắm vững quan điểm chính trị trong ứng xử các vấn đề xã hội. “Vững vàng tâm lý” hoàn toàn khác với các hiện tượng “đứng ngoài chính trị”, “thờ ơ chính trị”.

Từ thủ đoạn “thao túng tâm lý”, các thế lực thù địch luôn tiến công vào những nơi mà ý thức của con người mù mờ nhất, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực tâm lý xã hội và tâm lý cá nhân, đánh vào những nhu cầu, mong muốn, ước vọng không được thỏa mãn của con người. Để có được sự “vững vàng tâm lý”, cần hạn chế, thu hẹp đến mức nhỏ nhất những “mảnh đất màu mỡ” cho thủ đoạn này.

Thực tế cho thấy, nếu không tích cực ngăn chặn, bài trừ tệ nạn và tiêu cực xã hội, làm lành mạnh môi trường xã hội hiện nay thì các nọc độc “thao túng tâm lý” sẽ lan truyền hết sức nhanh chóng. Đây chính là cơ hội cho thế lực thù địch, phản động lợi dụng, gieo rắc sự hoài nghi, dao động, hoang mang, bi quan, mất niềm tin trong nhân dân. Chúng đang chờ đợi quá trình “tự tha hóa”, “tự biến chất”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên để tiếp tục gia tăng những tác động “thao túng tâm lý”.

Trong bối cảnh thời đại thông tin bùng nổ hiện nay, cần chủ động, kịp thời cung cấp, định hướng, kiểm soát thông tin và định hướng dư luận xã hội. Việc chậm trễ thông tin và sự thiếu chủ động trong việc định hướng dư luận xã hội đã làm nảy sinh ở quần chúng nhân dân những biểu hiện bất lợi về tâm lý, tư tưởng; ở mức độ đơn giản là những đồn đoán tùy tiện, ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân vào luật pháp và bộ máy công quyền; ở mức độ phức tạp còn làm cho một số người có thái độ ngờ vực, thậm chí thay đổi quan điểm chính trị.

Vì vậy, trước những sự kiện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... nhất là những sự kiện phức tạp, nhạy cảm thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận xã hội, các cơ quan chức năng cần thông tin kịp thời, chính xác cho công chúng và định hướng suy nghĩ, hành động theo hướng có lợi cho Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Việc làm cần thiết hiện nay là nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm soát, quản lý thông tin, phòng, chống tin giả, tin đồn, thông tin xấu độc trên không gian mạng. Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng trong việc kiểm tra, xác minh, điều tra, truy vết và xác định các hành vi, đối tượng vi phạm các quy định về thông tin sai trái, xuyên tạc để xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.

Giải pháp căn cơ là chăm lo xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Ngày nay, khi mục tiêu "đầu độc" và chiếm lĩnh tâm hồn con người đang và sẽ là mục tiêu chủ yếu của các thế lực thù địch, phản động thông qua thủ đoạn “thao túng tâm lý” thì việc xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh càng có ý nghĩa quan trọng. Môi trường văn hóa lành mạnh đủ sức chống lại những tác động của thủ đoạn “thao túng tâm lý” cần phải tạo được những rung động, những trạng thái cảm xúc tích cực ở đội ngũ cán bộ, đảng viên và người dân về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như những giá trị ưu việt của chế độ XHCN.

Cùng với đó, xây dựng lòng tự hào của mỗi người dân về nền văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, quán triệt và thực hiện tốt lời chỉ dẫn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc tổ chức ngày 24/11/2021 tại Hà Nội: “Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh gắn liền với đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, phi văn hóa, phản văn hóa; bảo vệ những giá trị chân-thiện-mỹ.

Nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân; xây dựng đời sống văn hóa vui tươi, lành mạnh, hạnh phúc; khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển và hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền của đất nước”. Xây dựng chính sách phù hợp để khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư, sản xuất các sản phẩm có giá trị văn hóa, tinh thần phục vụ nhu cầu của nhân dân theo phương châm “lấy xây để chống”, “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, "lấy tích cực để đẩy lùi tiêu cực"

Đấu tranh, phản bác các luận điệu sai trái, thù địch là trách nhiệm của thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay

 Thực tiễn những thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong 90 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chứng minh rằng: Nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Những thành tựu đạt được trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước, nhất là trong gần 40 năm đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng chính là nhờ sự kiên định, nắm vững và vận dụng sáng tạo, đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu phát triển bức thiết của cách mạng Việt Nam và phù hợp với quy luật phát triển của thời đại.

Trong giai đoạn hiện nay, tình hình thế giới, khu vực và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, đã tác động trực tiếp, tiêu cực đến công tác bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; đặc biệt là từ sau sự kiện sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, các thế lực thù địch, phản động, chống đối trong và ngoài nước đã coi đây là một cơ hội thuận lợi cùng với việc lợi dụng những hạn chế, thiếu sót của chính chúng ta trong tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng để ráo riết đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, phá hoại tư tưởng, chống Đảng, Nhà nước ta với dã tâm là xóa bỏ nền tảng tư tưởng chủ nghĩa xã hội và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, hoạt động đó đã gây ra không ít hệ lụy, hậu quả trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước.

Trước yêu cầu cấp thiết của thời cuộc, ngày 22/10/2018, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Nghị quyết khẳng định: “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là bảo vệ Đảng, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”. Đây là một nội dung “cơ bản, hệ trọng, sống còn” của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, của cả hệ thống chính trị; là công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp; của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, của từng cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu. Theo đó, nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch không của riêng một đơn vị hay cá nhân nào, mà là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong đó có thế hệ trẻ Việt Nam – lực lượng dự bị hùng hậu của cách mạng nước ta.

Nhận thức sâu sắc vị trí, tầm quan trọng của nhiệm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch nhất là những những thông tin xuyên tạc, sai sự thật trên mạng xã hội, thời gian qua, Thế hệ trẻ đã tham gia xây dựng các trang thông tin điện tử, cổng thông tin, các trang mạng xã hội dưới sự hướng dẫn của Trung ương Đoàn, Trung ương Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam, theo đó, các tỉnh, thành Đoàn và Ủy ban Hội tỉnh, thành phố; các Đoàn trực thuộc và các Ủy ban Hội trực thuộc tương đương cấp tỉnh đã xây dựng và vận hành cổng thông tin điện tử, 100% tổ chức đoàn từ Trung ương đến cơ sở (gồm 67 đầu mối trực thuộc, hơn 1.400 đơn vị đoàn cấp huyện, hơn 11.000 đơn vị đoàn cấp xã) đã triển khai xây dựng, vận hành trang Facebook tuyên truyền; ứng dụng tiện ích cộng nghệ Bigdata, real-time để thống kê các lượt tương tác và nắm bắt dư luận xã hội; đổi mới phương thức tuyên truyền thông qua việc thường xuyên sử dụng các phim ngắn đồ họa, bản đồ tư duy triển khai các nội dung tuyên truyền, giáo dục;... Nhiều tuyến tin bài sắc bén đấu tranh, phản bác với các tin đồn, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch đã được đăng tải trên mạng xã hội; bước đầu có sự kết nối, phối hợp giữa các lực lượng trong chia sẻ thông tin tích cực, đấu tranh, gỡ bỏ các tài khoản mạng xã hội xấu độc, đảm bảo giữ vững tình hình an ninh trật tự trên địa bàn.

Thế hệ trẻ đã tích cực triển khai nhiều giải pháp đồng bộ nhằm đấu tranh, ngăn chặn, chủ động phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, bước đầu đạt những kết quả quan trọng. Các cấp bộ Đoàn đã tích cực tham mưu cho các cấp ủy, chỉ huy các cấp, triển khai các mô hình, công trình, phần việc thanh niên xung kích đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, tham gia đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch trên không gian mạng như thành lập Câu lạc bộ lý luận trẻ, Câu lạc bộ bút chiến, đấu tranh phản bác; câu lạc bộ truyền thông; thường xuyên nắm bắt tình hình, định hướng dư luận xã hội trong đoàn viên thanh niên; kịp thời cung cấp những thông tin chính xác, minh bạch theo các nguồn tin chính thống; tổ chức sinh hoạt chính trị, tọa đàm, diễn đàn đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; đồng thời đẩy mạnh cuộc vận động “Mỗi ngày một tin tốt, mỗi tuần một câu chuyện đẹp”, tuyên truyền gương người tốt, việc tốt, những câu chuyện hay, hình ảnh đẹp, thông tin tích cực của tuổi trẻ Việt Nam trên các phương tiện truyền thông, các trang mạng xã hội nhằm góp phần đẩy lùi thông tin xấu độc, hướng đoàn viên thanh niên đến với các giá trị chân - thiện - mỹ trong học tập, công tác, chiến đấu.

Đoàn viên thanh niên đã phát huy vai trò xung kích bảo vệ nền tảng của Đảng, đấu tranh phản bác thông tin xấu độc trên không gian mạng khi trực tiếp tham mưu cho Ban Chỉ đạo Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới của đơn vị đấu tranh và làm thất bại nhiều âm mưu phá hoại, nhằm lật đổ chính quyền của hàng chục tổ chức phản động trong và ngoài nước; ngăn chặn, vô hiệu hóa trên các đợt kêu gọi, kích động biểu tình; xây dựng và tổ chức các kế hoạch đấu tranh phản bác gắn với các vụ việc được dư luận quan tâm để ổn định tình hình, trấn áp thông tin tiêu cực; tham gia chính danh và trực diện với tư cách cộng tác viên đăng tải hàng trăm nghìn bài viết đấu tranh phản bác các thông tin bịa đặt, sai sự thật, xuyên tạc, vu cáo của các thế lực thù địch chống phá các sự kiện chính trị của Đảng, Nhà nước… trên các website, trang blog, mạng xã hội, tạp chí, đầu báo chính thống trong và ngoài lực lượng, góp phần nâng cao chất lượng công tác đấu tranh, phản bác trên không gian mạng.

Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức vào thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ở nước ta hiện nay

Trong giai đoạn hiện nay, “xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch”(35) được Đảng ta xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, then chốt trong tiến trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Lực lượng chủ công thực thi nhiệm vụ nêu trên chỉ có thể là đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.

Cán bộ hành chính gồm những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở các tỉnh thành trực thuộc Trung ương, ở huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, như chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện; những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong thường trực hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, bí thư, phó bí thư đảng ủy; người đứng đầu trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở xã, phường, thị trấn, như chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng nhân dân; chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban nhân dân, chủ tịch ủy ban Mặt trận Tổ quốc, bí thư đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, chủ tịch hội liên hiệp phụ nữ, chủ tịch hội nông dân và chủ tịch hội cựu chiến binh.

Công chức hành chính gồm những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức hoặc được giao giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, như cán sự, chuyên viên làm việc trong các sở thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh, các phòng thuộc ủy ban nhân dân cấp huyện; những người được tuyển dụng, được giao giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc ủy ban nhân dân cấp xã, gồm có các chức danh: Chỉ huy trưởng quân sự, văn phòng - thống kê, địa chính - xây dựng, tài chính - kế toán, tư pháp - hộ tịch, văn hóa - xã hội.

Yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức hành chính nói riêng hiện nay là phải: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước...; có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”(36). Một trong những giải pháp quan trọng, hiệu quả để hiện thực hóa yêu cầu nói trên là phải tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính; hướng tới xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính là hoạt động có định hướng, có tổ chức, thông qua các phương pháp và bằng các hình thức phù hợp, hướng tới cung cấp, trang bị cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính những tri thức, hiểu biết về chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ nói chung, những kiến thức pháp luật cụ thể, cần thiết, liên quan đến hoạt động công vụ nói riêng; qua đó, góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.

Sự vận dụng giá trị quan điểm Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức vào thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ở nước ta hiện nay thể hiện trên những điểm cơ bản sau:

Thứ nhấtphải xác định cụ thể, rõ ràng mục đích đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.

Mục đích là cái mà cả quá trình đào tạo, bồi dưỡng phải hướng tới và là kết quả cuối cùng mà công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính phải đạt được. Nghị định số 101/2017/NĐ-CP, ngày 1-9-2017, của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức quy định mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng là trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ trong hoạt động công vụ của cán bộ, công chức và hoạt động nghề nghiệp của viên chức, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị và năng lực, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, sự nghiệp phát triển của đất nước.

Mục đích của đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính là cung cấp, trang bị cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính những phẩm chất đạo đức cách mạng, tri thức, hiểu biết về chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ nói chung, những kiến thức pháp luật cụ thể, cần thiết, liên quan đến hoạt động công vụ nói riêng; góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Nếu như trên bình diện chung, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”; thì cụ thể hóa lời dạy của Người vào hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính trong giai đoạn hiện nay, mục đích đó chính là: Xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung.

Thứ haiphải nâng cao năng lực đào tạo, bồi dưỡng của các chủ thể tham gia đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.

Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, trước hết, phụ thuộc vào năng lực đào tạo, bồi dưỡng, nhận thức về chức năng, nhiệm vụ và ý thức trách nhiệm của các chủ thể tham gia công tác đào tạo, bồi dưỡng, cụ thể là các cơ sở giáo dục có chức năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính. Các cơ sở giáo dục cần xúc tiến mạnh mẽ sự chuẩn bị về cơ sở vật chất (giảng đường, thư viện, phòng đọc, trang thiết bị công nghệ thông tin, kết nối mạng internet...), các chương trình đào tạo, bồi dưỡng chuẩn, thiết thực, phù hợp với nhu cầu của từng nhóm đối tượng cán bộ, công chức hành chính; xây dựng được đội ngũ giảng viên, chuyên gia có chất lượng chuyên môn cao, có kỹ năng sư phạm và tâm huyết; sẵn sàng để thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên, chuyên gia có uy tín, chất lượng, trình độ chuyên môn cao, có kỹ năng nghiệp vụ sư phạm giỏi, có đạo đức nghề nghiệp, tâm huyết với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính phải được coi là nhiệm vụ thường xuyên, có tầm chiến lược của các cơ sở giáo dục; với tinh thần “không cốt nhiều, chỉ cốt tinh”, để thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “cốt thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều”.

Nhân viên Trung tâm Phục vụ Hành chính công tỉnh Quảng Ninh hướng dẫn người dân và doanh nghiệp dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4_Ảnh: Tư liệu

Thứ ba, đối với đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, cần chuẩn bị năng lực nhận thức, các điều kiện vật chất, tinh thần khác để sẵn sàng lĩnh hội kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ, tri thức pháp luật cần thiết cho hoạt động chuyên môn, đáp ứng yêu cầu công vụ.

Chất lượng, hiệu quả của công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính không chỉ phụ thuộc vào chủ thể, mà còn phụ thuộc phần lớn vào chính đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Các nhà giáo, chuyên gia dù có giỏi đến mấy, đáp ứng được mọi yêu cầu, nhưng nếu không nhận được sự hợp tác chủ động, tích cực từ phía đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, thì không thể có được chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng như mong muốn. Mỗi cán bộ, công chức hành chính cần phải chủ động, tự giác, tích cực tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng, xuất phát từ nhu cầu lĩnh hội nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ, hiểu biết pháp luật.

Bên cạnh đó, mỗi cán bộ, công chức hành chính cần thường xuyên cập nhật thông tin về lĩnh vực chuyên môn của bản thân, chủ động tìm hiểu các chính sách, văn bản pháp luật mới, nhất là những văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực chuyên môn đang đảm trách; nghĩa là phải phát huy tinh thần tự học như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Việc học phải lấy tự học làm cốt. Một mặt, nếu một cán bộ, công chức hành chính, dù đã tốt nghiệp kỹ sư, cử nhân, mà dừng lại, tự hài lòng, thỏa mãn với tấm bằng đại học của mình thì sẽ nhanh chóng trở nên lạc hậu trước những thay đổi nhanh chóng của thực tiễn đời sống. Mặt khác, mỗi cán bộ, công chức hành chính cũng cần thường xuyên rèn luyện các kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức chuyên môn, hiểu biết pháp luật vào quá trình thực thi công vụ, giải quyết nhiệm vụ được giao.

Thư tư, tiếp tục đổi mới nội dung đào tạo, bồi dưỡng toàn diện cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.

Ngoài những nội dung có tính chất chuyên biệt, chuyên sâu về lĩnh vực chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ của từng nhóm đối tượng cán bộ, công chức hành chính, còn cần phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cao cấp lý luận chính trị, trung cấp lý luận chính trị; bồi dưỡng các kỹ năng lãnh đạo, quản lý; bồi dưỡng nội dung quản lý nhà nước trên các lĩnh vực; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh; bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học; đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính thuộc các cấp, các ngành phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, nhu cầu và công tác quy hoạch cán bộ của Đảng, Nhà nước, các cơ quan hữu quan.

Các cơ sở giáo dục có chức năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính cần tập trung xây dựng các bộ giáo trình, tài liệu tham khảo riêng cho từng nhóm đối tượng cán bộ, công chức hành chính; bảo đảm độ sâu cần thiết về kiến thức chuyên môn, chuyên ngành, các kỹ năng nghiệp vụ, những kiến thức pháp luật phù hợp cho từng nhóm đối tượng. Khi thiết kế nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cần căn cứ vào nhu cầu thông tin, kiến thức của từng đối tượng cán bộ, công chức hành chính; bổ sung, cập nhật kịp thời những vấn đề mới về chuyên môn, nghiệp vụ, các văn bản, chính sách, pháp luật mới vào nội dung đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Quá trình triển khai nội dung các môn học, học phần phải gắn lý luận với thực tiễn hành chính công vụ sinh động, tránh lý luận suông, khô khan, giáo điều, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Nội dung bồi dưỡng cũng cấn chú trọng trang bị cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính các kiến thức về phương pháp, kỹ năng thực hành công vụ, về áp dụng kiến thức pháp luật vào thực tiễn công vụ.

Thứ nămđổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính.

Đây là vấn đề cần được các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, các nhà giáo, chuyên gia đặc biệt quan tâm. Mặc dù trong những năm qua, các chủ thể đào tạo, bồi dưỡng ở nước ta đã áp dụng nhiều giải pháp nhằm đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng; song, kết quả vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của Nhà nước và xã hội. Để tạo ra bước đột phá trong việc đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng, các cơ sở giáo dục cần tập trung thực hiện có hiệu quả các giải pháp nhằm hướng trọng tâm của quá trình đào tạo, bồi dưỡng vào đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo, tạo động lực cho họ đầu tư nhiều thời gian cho việc tự học. Muốn vậy, trước hết, cần kết hợp hài hòa giữa phương pháp thuyết trình truyền thống với phương pháp giảng dạy tích cực, như: nêu vấn đề, kết hợp giảng lý thuyết với việc nêu ra các tình huống và bài tập trắc nghiệm... Đội ngũ thầy, cô giáo hạn chế sử dụng phương pháp thuyết trình theo lối độc thoại một chiều; tăng cường các phương pháp đối thoại, thảo luận nhóm theo các chủ đề chuyên môn, phương pháp nêu tình huống, sự kiện thực tế để lôi cuốn cán bộ, công chức hành chính tích cực tranh luận, thảo luận, tìm ra hướng giải quyết hợp lý nhất... Chủ động chuyển mạnh từ “lấy người dạy làm trung tâm” sang phương pháp “lấy người học làm trung tâm”. Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, mỗi giảng viên, chuyên gia cần ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy; mỗi cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cần xây dựng hệ thống thư viện điện tử, tạo cho cán bộ, công chức hành chính khả năng tiếp cận công nghệ hiện đại phục vụ hiệu quả cho việc học tập.

Các cơ sở giáo dục có chức năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính cần triển khai tổng kết, đánh giá ưu điểm, nhược điểm của các phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính; từ đó, tìm ra các phương pháp phù hợp với từng nhóm đối tượng. Cần có sự phân loại nội dung đào tạo, bồi dưỡng gắn với đặc thù của từng nhóm đối tượng cán bộ, công chức hành chính để sử dụng phương pháp đào tạo, bồi dưỡng phù hợp; tránh sự lãng phí, tốn kém không cần thiết về thời gian, công sức, tiền của.

Tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức hành chính nói riêng rất cụ thể, thiết thực và vẫn còn nguyên giá trị đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ở nước ta hiện nay. Vận dụng giá trị quan điểm của Người về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức vào thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ở nước ta hiện nay đòi hỏi phải chú trọng thực hiện kỹ lưỡng từng mắt khâu, yếu tố của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, từ việc xác định mục đích, chủ thể, đối tượng đào tạo, bồi dưỡng cho tới xây dựng nội dung, lựa chọn phương pháp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức hành chính có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung... như Đại hội XIII của Đảng đã đề ra./.

Thực chất của thủ đoạn chống phá từ hiện tượng cá biệt quy kết thành bản chất và giải pháp đấu tranh


Từ hiện tượng cá biệt quy kết thành bản chất tuy là thủ đoạn không mới, nhưng vô cùng nguy hiểm. Những thế lực sử dụng thủ đoạn này hoặc là thiếu hiểu biết về việc xem xét bản chất của sự việc (trường hợp này không nhiều), hoặc là cố tình lờ đi nguyên tắc xem xét, đánh giá bản chất của sự việc từ những hiện tượng đơn lẻ (trường hợp này là nhiều). Do đó, họ đã quy kết, đồng nhất hiện tượng với bản chất. Đây thực chất là thủ đoạn xuyên tạc, thổi phồng kiểu “vơ đũa cả nắm” với mưu đồ chống phá. Dễ dàng nhận thấy mục đích đằng sau thủ đoạn này là các thế lực thù địch muốn quy chụp, vu cáo những sai lầm, hạn chế của Đảng và Nhà nước ta từ những vụ, việc cụ thể, cá biệt thành hiện tượng phổ biến, có tính quy luật nhằm làm trầm trọng hơn vấn đề, khoét sâu thêm những khuyết tật đã có. Mục đích sâu xa của thủ đoạn này là nhằm hạ thấp năng lực lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước ta, cổ xúy và thúc đẩy tình trạng phản đối, khiếu kiện, chống phá Đảng, Nhà nước, chính quyền của một bộ phận nhân dân kém hiểu biết, bản lĩnh chính trị không vững vàng; từ đó mưu toan hướng lái sự phát triển của Việt Nam theo con đường mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị cho là “tối ưu nhất” - con đường phát triển tư bản chủ nghĩa.

Có thể thấy rõ sự phiến diện, sai lầm trong cách quy kết đó. Chúng ta không phủ nhận những sai lầm, hạn chế, khuyết điểm từ những hiện tượng mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã đưa ra, song điều nguy hại là ở chỗ nó đã bị xuyên tạc, bóp méo qua lăng kính chủ quan với mưu đồ chống phá nguy hiểm. Ví như, từ sự quy chụp sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu mà quy kết là sự “cáo chung” của lý luận về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Mặc dù Liên Xô và các nước Đông Âu là những nước tiêu biểu về xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở thế kỷ XX, nhưng sự sụp đổ không phải là sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa với tính cách là hình thái kinh tế - xã hội mà loài người hướng đến. Nguyên nhân của sự sụp đổ đó không phải là do những sai lầm cố hữu của chủ nghĩa Mác mà “bắt nguồn từ chủ nghĩa giáo điều và xét lại trong đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng cầm quyền, cùng sự phản bội của một số người lãnh đạo cao nhất ở đó đối với những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin”(13). Hơn nữa còn do cả sự phản bội của một số lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản Liên Xô lúc bấy giờ đúng như lời thú nhận của M.X. Goóc-ba-chốp được A.P. Sê-vi-a-kin công bố trong cuốn sách nổi tiếng “Bí ẩn diệt vong của Liên Xô - lịch sử những âm mưu và phản bội năm 1945 - 1991”. Đó là: “Mục tiêu của toàn bộ cuộc đời tôi là tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản. Chính vì để đạt được mục tiêu này, tôi đã sử dụng địa vị của mình trong Đảng và trong Nhà nước. Khi trực tiếp làm quen với phương Tây, tôi đã hiểu rằng tôi không thể từ bỏ mục tiêu chống cộng sản đặt ra. Và để đạt được nó, tôi đã phải thay đổi toàn bộ Ban Chấp hành Đảng Cộng sản Liên Xô và Xô-viết tối cao cũng như Ban Lãnh đạo ở tất cả các nước Cộng hòa. Tôi đã tìm kiếm những người ủng hộ để hiện thực hóa mục tiêu đó, trong số này đặc biệt có A.Ya-kốp-lép, Sê-vát-nát-de...”(14).

Từ tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là tình trạng tham nhũng mà các thế lực thù địch, phản động quy kết cả đội ngũ cán bộ, đảng viên của nước ta thoái hóa, biến chất hay Đảng ta không có khả năng đấu tranh chống tham nhũng, Đảng chỉ dám đánh “con tôm, con tép”. Thực tiễn cho thấy, chúng ta không thể phủ nhận tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên trong những năm gần đây có những biểu hiện ngày càng nghiêm trọng, nhưng số cán bộ, đảng viên vi phạm chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số cán bộ, đảng viên trên cả nước. Ngoài những cán bộ có biểu hiện tiêu cực, có rất nhiều cán bộ, đảng viên luôn vững vàng về bản lĩnh chính trị, nêu cao trách nhiệm cống hiến vì xã hội, vì cộng đồng và có đóng góp to lớn cho sự phát triển của đất nước, được nhân dân tin tưởng, yêu mến và tôn vinh. Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của đất nước, thời gian qua không thể không kể đến sự đóng góp của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong cả nước. Họ không chỉ lãnh đạo, quản lý đất nước, mà thực sự còn là cầu nối giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, là nơi gửi gắm niềm tin yêu, sự tôn trọng của nhân dân.

Trước tình trạng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước còn nhiều hạn chế, tăng trưởng kinh tế còn chậm, các thế lực thù địch quy kết rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã mất vai trò lãnh đạo, đường lối đổi mới của Việt Nam không thành công. Đó thực chất là những luận điệu chủ quan, duy ý chí, thể hiện rõ mưu đồ quy chụp. Để đánh giá đúng vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hay kết quả của công cuộc đổi mới đất nước, cần có cái nhìn khách quan, công tâm, trên tinh thần khoa học, biện chứng mới thấy rõ hết được. Chúng ta không phủ nhận rằng, hiện nay Việt Nam vẫn còn là một nước đang phát triển, mức độ tăng trưởng thấp hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới, nhưng nhìn lại cả chặng đường đã đi qua, nhất là từ khi đổi mới đến nay, chúng ta mới thấy hết được những bước phát triển vượt bậc của đất nước. Điều này đã được đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố”(15). Đó là những bằng chứng thuyết phục để khẳng định vai trò lãnh đạo to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam, khẳng định đường lối đổi mới của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn, vừa phù hợp với quy luật khách quan, vừa đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Đây cũng chính là căn cứ thực tiễn sinh động để phản bác những thủ đoạn chống phá tinh vi của các thế lực thù địch, trong đó có thủ đoạn quy kết những hiện tượng đơn lẻ, cá biệt thành bản chất.

Thủ đoạn chống phá quy kết những hiện tượng cá biệt thành bản chất tuy không mới, nhưng cũng không thể xem nhẹ, coi thường vì nó dễ khiến người khác hiểu sai, gây tâm lý hoang mang, mất niềm tin. Do đó, cần có những biện pháp hợp lý để đấu tranh ngăn chặn.

Một là, cần nâng cao tinh thần cảnh giác cho nhân dân trước các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị. Các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể phải không ngừng tuyên truyền, giúp nhân dân nhận diện rõ thủ đoạn tinh vi, nguy hiểm của các thế lực thù địch khi quy kết những hiện tượng cá biệt thành bản chất để tránh bị các thế lực lôi kéo, mua chuộc, kích động. Ngoài ra, cần động viên, khích lệ, hướng dẫn nhân dân tham gia đấu tranh phản bác những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch bằng điều kiện, khả năng của mình nhằm nâng cao “sức đề kháng” trước những hoạt động chống phá tinh vi của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị.

Cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân huyện Si Ma Cai, tỉnh Lào Cai tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao tinh thần cảnh giác cho nhân dân trước các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch _Nguồn: congan.laocai.gov.vn

Hai là, tiếp tục phát huy vai trò của báo chí, truyền thông trong việc tuyên truyền, lan tỏa những kết quả tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước để, một mặt, “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”; mặt khác, từng bước pha loãng những thông tin xấu, độc, có nội dung xuyên tạc, quy chụp, võ đoán để các thông tin tích cực chiếm ưu thế trên báo chí, truyền thông, mạng xã hội. Ngoài ra, trước những vụ, việc có dấu hiệu bị quy chụp, xuyên tạc, các cơ quan báo chí, truyền thông cần phát huy vai trò trong việc định hướng tư tưởng cho nhân dân theo những luồng thông tin chính thống, tránh để các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị chiếm lĩnh thông tin, dẫn dắt dư luận theo ý muốn chủ quan để dễ bề thực hiện mưu đồ chống phá.

Ba là, cần chủ động có những biện pháp phù hợp để đấu tranh nhằm vô hiệu hóa các thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Căn cứ vào vai trò, nhiệm vụ của các lực lượng chuyên trách, nòng cốt để xây dựng những phương án đấu tranh phù hợp với thủ đoạn quy chụp từ những hiện tượng cá biệt thành bản chất. Với lực lượng tuyên giáo các cấp, cần phát huy vai trò trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân nâng cao tinh thần cảnh giác trước các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Với đội ngũ chuyên gia, cần đẩy mạnh nghiên cứu, cung cấp các luận cứ khoa học sắc bén, thuyết phục để phản bác những âm mưu, thủ đoạn chống phá. Với lực lượng xung kích (công an, quân đội, thanh niên...) cần thực hiện đồng bộ, quyết liệt các biện pháp kỹ thuật để bóc gỡ, ngăn chặn, xử lý những thủ đoạn chống phá; đồng thời, tăng cường đấu tranh trên không gian mạng, mở rộng mạng lưới đấu tranh trong nhân dân để quy tụ và phát huy sức mạnh tổng lực.

Từ hiện tượng cá biệt quy kết thành bản chất là một trong những thủ đoạn tinh vi mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thường xuyên thực hiện nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng. Nhận diện bản chất của thủ đoạn đó để nâng cao tinh thần cảnh giác, ý thức trách nhiệm là cách mỗi chúng ta đấu tranh với những thủ đoạn chống phá đó, góp phần bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay./.

Nhận diện thủ đoạn chống phá quen thuộc - từ hiện tượng cá biệt quy kết thành bản chất

 

Chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng là mục tiêu lâu dài, xuyên suốt của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Để thực hiện mục tiêu đó, các thế lực chống phá thường theo dõi rất sát diễn biến về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của nước ta. Do vậy, mỗi khi có vấn đề nào đó xảy ra hay có hiện tượng nào đó phát sinh, các thế lực nhanh chóng quy kết, chụp mũ để nâng cao quan điểm, thổi phồng, bóp méo sự thật. Đó là bản chất của thủ đoạn quy kết các hiện tượng cá biệt thành bản chất rồi lớn tiếng quy chụp, rêu rao nhằm tạo sự chú ý của dư luận, dọn đường cho các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thực hiện các mưu đồ chống phá.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, hiện tượng là phạm trù chỉ sự biểu hiện ra bên ngoài của các sự vật; còn bản chất là phạm trù chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật. Hiện tượng và bản chất là một cặp phạm trù có mối quan hệ biện chứng, trong đó bản chất luôn luôn được bộc lộ qua hiện tượng, còn hiện tượng nào cũng là sự biểu hiện của bản chất ở mức độ nhất định; không có bản chất tồn tại thuần túy ngoài hiện tượng, đồng thời cũng không có hiện tượng nào mà không biểu hiện bản chất. Nhấn mạnh sự thống nhất này, V.I. Lê-nin chỉ rõ: “Bản chất hiện ra. Hiện tượng là có tính bản chất”(1).

Vì bản chất là cái tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng là cái không ổn định, không quyết định sự vận động, phát triển của sự vật. Do vậy, nhận thức không chỉ dừng lại ở hiện tượng, mà phải tiến đến bản chất của sự vật. Điều này cũng được V.I. Lê-nin chỉ rõ như sau: “Cái không bản chất, cái bề ngoài, cái trên mặt, thường biến mất, không bám “chắc”, không “ngồi vững” bằng bản chất”(2). Luận điểm này có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong việc nhận thức bản chất của sự vật. Đó là, không thể xuất phát từ những hiện tượng cá biệt, đơn lẻ mà quy kết là bản chất của sự vật bởi đây là biểu hiện của bệnh chủ quan, duy ý chí của chủ thể nhận thức.

Ấy vậy mà, thời gian qua, những kẻ phản động, cơ hội chính trị hoặc do thiếu hiểu biết, hoặc cố tình lờ đi những nguyên tắc phương pháp luận trong nhận thức bản chất của sự vật nên thường xuyên dùng chiêu bài quy chụp hiện tượng cá biệt thành bản chất. Điển hình như những sự việc sau:

Một là, xuất phát từ sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô mà quy kết cho sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội với tính cách là một học thuyết khoa học.

Năm 1991, chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô sau hơn 74 năm ra đời đã sụp đổ, kéo theo sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu. Đây được coi là “chấn động chính trị khủng khiếp nhất thế kỷ XX” và là cái cớ để các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lên tiếng quy chụp, phủ nhận lý luận về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lê-nin là ảo tưởng, sai lầm. Họ rêu rao rằng, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là do sự lạc hậu, lỗi thời của bản thân chủ nghĩa Mác vì “Chủ nghĩa xã hội mà Mác nêu ra chỉ là một lý tưởng, một chủ nghĩa xã hội “không tưởng”, không bao giờ thực hiện được”(3); “chủ nghĩa Mác - Lê-nin đưa ra các nguyên tắc “đấu tranh giai cấp”, “tập trung dân chủ” là cổ vũ cho bạo lực, cho chiến tranh, cho độc quyền, độc đoán, thủ tiêu dân chủ”(4)(?!)... Những luận điệu nguy hiểm đó được tung ra khắp nơi trên thế giới với mưu mô phủ nhận lý luận về chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác, từ đó kêu gọi các nước không nên đi theo con đường phát triển chủ nghĩa xã hội. Đối với Việt Nam, một số thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị ở nước ngoài đã lên tiếng quy chụp “Việt Nam đang bế tắc không chỉ về kinh tế, mà còn về tinh thần. Không ai còn tin vào chủ nghĩa Mác nữa”(5); hay con đường xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang xây dựng chính là “một khúc cong của lịch sử, là đoạn vòng vèo đầy đau khổ đi lên chủ nghĩa tư bản”(6). Từ đó, các phần tử cơ hội chính trị lên tiếng kêu gọi Việt Nam cần “tránh chỗ tối, tìm chỗ sáng”, “tránh con đường đau khổ” mà các nước xã hội chủ nghĩa, như Liên Xô, Đông Âu đã đi qua để phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa!

Hai là, từ tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên mà quy kết cả đội ngũ cán bộ, đảng viên “thoái hóa”, “biến chất”

Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên cũng được coi là một cái cớ để các thế lực nắm lấy nhằm thổi phồng, quy chụp đội ngũ cán bộ, đảng viên ở nước ta. Từ hiện tượng một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện vi phạm, bị xử lý kỷ luật, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lớn tiếng quy chụp rằng đội ngũ cán bộ, đảng viên ở Việt Nam hiện nay đã “thoái hóa về tư tưởng, suy đồi về phẩm chất đạo đức, lối sống, không giữ được “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” như lời dạy của Bác Hồ”(7).

Gần đây, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị còn triệt để lợi dụng tình trạng tham nhũng của một bộ phận cán bộ, đảng viên để quy chụp đó là một “quốc nạn không có thuốc chữa”. Họ hàm hồ cho rằng, tình trạng đó bắt nguồn từ nguyên nhân tất yếu là chế độ một đảng duy nhất ở Việt Nam và cáo buộc tham nhũng là “căn bệnh nan y, kinh niên của chế độ độc Đảng cầm quyền”(8). Ngoài ra, các thế lực phản động còn đồng nhất toàn bộ Đảng Cộng sản với một số đảng viên, cán bộ tham nhũng, thoái hóa, biến chất và lên tiếng rêu rao “Đảng không còn là Đảng do Hồ Chí Minh sáng lập, Đảng không còn mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc”(9).

Từ những lập luận kiểu quy chụp hiện tượng thành bản chất nêu trên, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị còn rêu rao rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam không thể đấu tranh chống tham nhũng, suy thoái thành công vì Đảng cũng suy thoái, tham nhũng”(10). Những phần tử phản động đã ra sức bài xích chế độ một đảng của Việt Nam, lên tiếng kêu gọi Việt Nam phải đi theo con đường đa đảng, tam quyền phân lập vì “Chỉ có thể chống tham nhũng khi thực hiện thể chế “tam quyền phân lập” để kiểm soát quyền lực”(11).  Nguy hại hơn, các thế lực thù địch còn võ đoán bằng những luận điệu hết sức thâm hiểm: “Trước tình hình cai trị độc tài, không hiệu quả của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân không thể chịu đựng được nữa, đang đứng lên để chống đối những sai lầm đó, đứng lên đòi nhân phẩm, nhân quyền dân chủ. Càng ngày càng có nhiều người đấu tranh, người trước, kẻ sau, càng ngày càng đông”(12)!

Ba là, xuất phát từ những hạn chế trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước mà quy kết Đảng Cộng sản Việt Nam “mất hết vai trò lãnh đạo”.

Trong thời gian qua, từ những hạn chế của công cuộc đổi mới, nhất là mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 mà Việt Nam đặt ra cách đây nhiều năm đã không đạt được, các thế lực thù địch lên tiếng đổ lỗi cho Đảng ta lãnh đạo đất nước không hiệu quả. Trên nhiều diễn đàn, nhất là mạng xã hội, với danh nghĩa đứng về phía nhân dân, các phần tử cơ hội chính trị đã lớn tiếng rêu rao “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lãnh đạo” và lên tiếng khuyên Việt Nam cần phải đi theo mô hình “xã hội dân chủ”, thực hiện chính sách “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập”!

Gần đây, lợi dụng tình hình dịch bệnh COVID-19 có nhiều diễn biến phức tạp, trên các kênh truyền thông và mạng xã hội của lực lượng phản động nước ngoài quy chụp rằng “Việt Nam đã mất khả năng phòng, chống dịch” hay “Đảng Cộng sản Việt Nam đã không thể chống đỡ trước cơn bão dịch”... Những luận điệu này được rêu rao khắp nơi hòng làm giảm sút uy tín và phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, làm xói mòn niềm tin của nhân dân vào vai trò, vị thế và uy tín của Đảng.

Một số giải pháp phòng, chống thủ đoạn “thao túng tâm lý”

Mục tiêu của thủ đoạn “thao túng tâm lý” dù xem xét dưới góc độ nào: Tâm lý hay chính trị, trước mắt hay lâu dài, ngấm ngầm hay công khai đều mang tính chất phản nhân văn, đi ngược lại những giá trị tốt đẹp của con người. Thực chất đó là một trong những thủ đoạn của cuộc chiến tranh tâm lý, cuộc chiến chống lại con người.

Để phòng, chống có hiệu quả thủ đoạn này, giải pháp hàng đầu là quan tâm xây dựng sự vững vàng về tâm lý cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. “Vững vàng tâm lý” thể hiện ở kiến thức, quan điểm và niềm tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ; là khả năng kịp thời nhận diện, phản bác thông tin xấu độc, bịa đặt, thủ đoạn tuyên truyền chính trị của kẻ thù; khả năng nắm vững quan điểm chính trị trong ứng xử các vấn đề xã hội. “Vững vàng tâm lý” hoàn toàn khác với các hiện tượng “đứng ngoài chính trị”, “thờ ơ chính trị”.

Từ thủ đoạn “thao túng tâm lý”, các thế lực thù địch luôn tiến công vào những nơi mà ý thức của con người mù mờ nhất, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực tâm lý xã hội và tâm lý cá nhân, đánh vào những nhu cầu, mong muốn, ước vọng không được thỏa mãn của con người. Để có được sự “vững vàng tâm lý”, cần hạn chế, thu hẹp đến mức nhỏ nhất những “mảnh đất màu mỡ” cho thủ đoạn này.

Thực tế cho thấy, nếu không tích cực ngăn chặn, bài trừ tệ nạn và tiêu cực xã hội, làm lành mạnh môi trường xã hội hiện nay thì các nọc độc “thao túng tâm lý” sẽ lan truyền hết sức nhanh chóng. Đây chính là cơ hội cho thế lực thù địch, phản động lợi dụng, gieo rắc sự hoài nghi, dao động, hoang mang, bi quan, mất niềm tin trong nhân dân. Chúng đang chờ đợi quá trình “tự tha hóa”, “tự biến chất”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên để tiếp tục gia tăng những tác động “thao túng tâm lý”.

Trong bối cảnh thời đại thông tin bùng nổ hiện nay, cần chủ động, kịp thời cung cấp, định hướng, kiểm soát thông tin và định hướng dư luận xã hội. Việc chậm trễ thông tin và sự thiếu chủ động trong việc định hướng dư luận xã hội đã làm nảy sinh ở quần chúng nhân dân những biểu hiện bất lợi về tâm lý, tư tưởng; ở mức độ đơn giản là những đồn đoán tùy tiện, ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân vào luật pháp và bộ máy công quyền; ở mức độ phức tạp còn làm cho một số người có thái độ ngờ vực, thậm chí thay đổi quan điểm chính trị.

Vì vậy, trước những sự kiện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... nhất là những sự kiện phức tạp, nhạy cảm thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận xã hội, các cơ quan chức năng cần thông tin kịp thời, chính xác cho công chúng và định hướng suy nghĩ, hành động theo hướng có lợi cho Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Việc làm cần thiết hiện nay là nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm soát, quản lý thông tin, phòng, chống tin giả, tin đồn, thông tin xấu độc trên không gian mạng. Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng trong việc kiểm tra, xác minh, điều tra, truy vết và xác định các hành vi, đối tượng vi phạm các quy định về thông tin sai trái, xuyên tạc để xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.

Giải pháp căn cơ là chăm lo xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Ngày nay, khi mục tiêu "đầu độc" và chiếm lĩnh tâm hồn con người đang và sẽ là mục tiêu chủ yếu của các thế lực thù địch, phản động thông qua thủ đoạn “thao túng tâm lý” thì việc xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh càng có ý nghĩa quan trọng. Môi trường văn hóa lành mạnh đủ sức chống lại những tác động của thủ đoạn “thao túng tâm lý” cần phải tạo được những rung động, những trạng thái cảm xúc tích cực ở đội ngũ cán bộ, đảng viên và người dân về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như những giá trị ưu việt của chế độ XHCN.

Cùng với đó, xây dựng lòng tự hào của mỗi người dân về nền văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, quán triệt và thực hiện tốt lời chỉ dẫn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc tổ chức ngày 24/11/2021 tại Hà Nội: “Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh gắn liền với đấu tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, phi văn hóa, phản văn hóa; bảo vệ những giá trị chân-thiện-mỹ.

Nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân; xây dựng đời sống văn hóa vui tươi, lành mạnh, hạnh phúc; khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển và hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền của đất nước”. Xây dựng chính sách phù hợp để khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư, sản xuất các sản phẩm có giá trị văn hóa, tinh thần phục vụ nhu cầu của nhân dân theo phương châm “lấy xây để chống”, “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, "lấy tích cực để đẩy lùi tiêu cực".