Thứ Bảy, 3 tháng 8, 2024

Những chỉ huấn sâu sắc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về công tác cán bộ

  Với 80 năm tuổi đời, gần 57 năm tuổi Đảng, 14 năm trên cương vị Tổng Bí thư, người đứng đầu Đảng ta luôn trăn trở, tâm huyết với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Đặc biệt, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có nhiều chỉ huấn sâu sắc để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ có tâm, có tầm để phục vụ sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới.

Vận nước đặt tất cả vào đội ngũ cán bộ cấp chiến lược

Ngày 13/3/2024, trên cương vị Trưởng Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIV của Đảng, phát biểu tại Phiên họp đầu tiên của Tiểu ban, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có những định hướng chiến lược và sâu sắc về công tác chuẩn bị nhân sự cấp chiến lược cho Đại hội Đảng các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. 

Tổng Bí thư nhấn mạnh, nói đến chuẩn bị nhân sự Đại hội XIV của Đảng là nói đến chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, nhân sự lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước. Ban Chấp hành Trung ương là cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kỳ Đại hội Đảng, là bộ tham mưu chiến đấu, hạt nhân lãnh đạo chính trị và là trung tâm đoàn kết, thống nhất cao của toàn Đảng, toàn dân tộc. Đây là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, là tinh hoa của Đảng, đòi hỏi phải thật sự vững vàng, có đủ bản lĩnh, phẩm chất, trí tuệ và có uy tín cao để giải quyết những công việc ở tầm chiến lược, xử lý kịp thời, đúng đắn, có hiệu quả những tình huống phức tạp có quan hệ đến sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước, sự sống còn của chế độ.

Thực tế cho thấy, trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhất là vào những thời điểm quyết định hoặc có tính bước ngoặt lịch sử, vận nước đặt tất cả vào đội ngũ cán bộ cấp chiến lược. (Lênin đã từng nói: "Hãy cho tôi một tổ chức những người cách mạng, tôi sẽ làm đảo lộn cả nước Nga"). Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và một số nước Đông Âu sụp đổ là do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rất quan trọng là lựa chọn, bố trí sai một số cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược, nhất là cấp cao nhất. Cần phải khẳng định và thấm nhuần sâu sắc vị trí, ý nghĩa của công việc cực kỳ quan trọng này không chỉ đơn thuần đối với việc tổ chức một Đại hội Đảng mà đây là công việc có ý nghĩa chiến lược gắn liền với vận mệnh của Đảng, sự tồn vong của chế độ và sự phát triển của đất nước.

Danh dự mới là điều quan trọng nhất

Tại Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực giai đoạn 2012 - 2022 vào ngày 30/6/2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là công việc xây dựng tổ chức, xây dựng con người, là công tác con người, rất dễ đụng chạm đến danh dự, lợi ích, quan hệ của con người. Vì vậy, đòi hỏi mỗi chúng ta phải tự phê bình, phân tích, mổ xẻ những ưu, khuyết điểm của chính bản thân mình; phải nhận xét, đánh giá về người khác.

Tại nhiều cuộc họp khác nhau, Tổng Bí thư đều nhất quán quan điểm: "Mọi đảng viên đều phải tự gột rửa, tự sửa mình". Về công tác đánh giá cán bộ thì "Đừng nhìn gà hoá cuốc", "Đừng thấy đỏ tưởng là chín". Trong công việc, công tác, cần tránh thói cục bộ, bản vị, bè phái, kiểu "Cua cậy càng, cá cậy vây". Tổng Bí thư cũng không ít lần căn dặn lãnh đạo, cán bộ, đảng viên: "Đừng bị cám dỗ bởi những lợi ích xấu xa, những việc làm vô liêm sỉ". Điều quan trọng là đạo đức, danh dự.

"Đời người chỉ sống có một lần, phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những việc làm ti tiện đớn hèn vô liêm sỉ; tiền bạc lắm làm gì, chết có mang theo được đâu. Danh dự mới là điều thiêng liêng, cao quý nhất", Tổng Bí thư căn dặn tại Hội nghị toàn quốc các cơ quan nội chính triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng ngày 15/9/2021.

Cán bộ phải “đúng vai, thuộc bài”

Phát biểu tại Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Kết luận và Quy định của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; và Quy định mới về những điều đảng viên không được làm, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phân tích sâu sắc và tập trung vào trả lời 3 câu hỏi: (1) Lâu nay, chúng ta đã từng bàn nhiều, làm nhiều về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; vì sao lần này Trung ương lại tiếp tục bàn và ra Nghị quyết về vấn đề này? (2) Những tinh thần mới, nội dung mới của lần này là gì? và (3) Chúng ta phải làm gì và làm như thế nào để thực hiện có kết quả Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 lần này, biến Nghị quyết thành hiện thực sinh động?.

Nói về công tác cán bộ, Tổng Bí thư nhấn mạnh, bảo đảm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ; quán triệt sâu sắc vai trò của công tác cán bộ là "then chốt của then chốt", có ý nghĩa quyết định mọi thành công của cách mạng nước ta, cả trước mắt và lâu dài. Công tác cán bộ phải gắn với việc thực hiện chủ trương của Đảng về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, giữ vững vị thế cầm quyền và bảo đảm vai trò lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước; đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội. Tiếp tục thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, có năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. “Cán bộ dù ở vị trí nào cũng phải luôn luôn có ý thức đầy đủ về trách nhiệm của mình, làm "đúng vai, thuộc bài", thật sự có chất lượng, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tin yêu, quý trọng” – Tổng Bí thư lưu ý.

Miễn nhiệm, cho từ chức, thay thế những cán bộ năng lực hạn chế, uy tín thấp

Tổng Bí thư cũng yêu cầu thực hiện thí điểm một số chủ trương như: Người đứng đầu được lựa chọn, giới thiệu và phải chịu trách nhiệm về việc giới thiệu cán bộ trong quy hoạch để thực hiện quy trình bầu cử, bổ nhiệm cấp phó của mình; bí thư cấp uỷ giới thiệu để bầu uỷ viên ban thường vụ và phải chịu trách nhiệm về việc giới thiệu của mình; giao quyền cho người đứng đầu bổ nhiệm cán bộ trong quy hoạch, miễn nhiệm đối với cấp trưởng cấp dưới trực tiếp và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Tổng kết việc thí điểm thi tuyển, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp vụ, sở, phòng...

Nâng cao chất lượng công tác đánh giá cán bộ theo hướng thật sự công tâm, khách quan, có tiêu chí rõ ràng và thông qua sản phẩm cụ thể; gắn việc đánh giá cá nhân với đánh giá tập thể, với kết quả thực tế thực hiện nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị. Kịp thời miễn nhiệm, cho từ chức, thay thế những cán bộ năng lực hạn chế, uy tín thấp, mắc sai phạm; mà không chờ đến hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm. Tuyệt đối chống tư tưởng cục bộ, bè phái, "lợi ích nhóm", tiêu cực.

Xây dựng cán bộ “7 dám”

Tại Hội nghị Quân ủy Trung ương lần thứ 6, nhiệm kỳ 2020 - 2025, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương đã nhấn mạnh đến công tác bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ quân đội vững mạnh, đủ đức, đủ tài, có uy tín cao; cấp trên phải làm gương cho cấp dưới, chỉ huy phải mẫu mực trước toàn đơn vị; theo tinh thần “7 dám”: “Dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, và dám hành động vì lợi ích chung”. Đây là nét đặc sắc trong tư duy lý luận của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về công tác cán bộ, là sự đúc kết, khái quát sâu sắc về lý luận và thực tiễn, mang tính biện chứng, lôgic, dễ nhớ, dễ thuộc. Tinh thần “7 dám” không chỉ là định hướng tư duy, hành động, mà còn thể hiện tình cảm, niềm tin và yêu cầu cao của người đứng đầu Đảng, Quân ủy Trung ương đối với đội ngũ cán bộ quân đội trong thời kỳ mới. Đây là bài phát biểu quan trọng mang tầm chiến lược, định hướng căn bản để Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo quân đội thực hiện tốt mọi nhiệm vụ đề ra trong những năm tới, nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Không phải hễ cứ có chức vụ là đã có uy tín

Phát biểu tại Hội nghị sơ kết một năm hoạt động của Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng cấp tỉnh (ngày 19/6/2023), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: “Có một bộ phận cán bộ, công chức, nhân viên trực tiếp có quan hệ với dân thì cửa quyền, hách dịch, sách nhiễu, gây đủ thứ phiền hà, khó khăn cho dân. Một số người có chức, có quyền giữ tác phong quan cách, gia trưởng, phụ trách địa phương nào, đơn vị nào thì như một "ông vua con" ở đấy".

Theo lời của Tổng Bí thư, những “ông vua con” này chỉ lo thu vén cá nhân, xoay xở làm giàu, vô trách nhiệm với dân, vô cảm trước những khó khăn, đau khổ của quần chúng, lợi dụng chức quyền để đục khoét, vơ vét của cải của Nhà nước, của tập thể, trở thành những con sâu mọt tệ hại của xã hội.

Và vì là “ông vua con” nên các cán bộ có nhiều chức quyền mà ít tu dưỡng đạo đức này rất chuyên quyền, độc đoán. Họ chỉ đạo cấp dưới phải phục tùng vô điều kiện, bất luận việc đó có đúng pháp luật, có xâm phạm lợi ích của Nhà nước hay không. Như ông cha ta đã luận giải, đây là kiểu “cua cậy càng, cá cậy vây".

Mô tả về những “ông vua” đời mới, Tổng Bí thư đã dùng đến câu hò vè vừa dễ nhớ vừa thâm thúy trong dân gian: “Họp thì có người ghi, đi thì có người chở, ở thì có người chăm, nằm thì có người bóp...”.

Trong cuốn sách "Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh", Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Thông thường, bất cứ người lãnh đạo nào cũng phải có một uy tín nhất định; chức vụ càng cao thì uy tín càng lớn. Bởi vì không có uy tín thì không thể lãnh đạo, thuyết phục và tập hợp người khác được.

Tuy nhiên, Tổng Bí thư cũng phân tích, không phải hễ cứ có chức vụ là đã có uy tín, càng không phải đã có uy tín đầy đủ. Chức vụ không đẻ ra uy tín, không quyết định uy tín. Thực tế đã chẳng có những người ở cương vị khá cao, thậm chí rất cao nhưng lại không có uy tín hoặc uy tín quá thấp đó sao? Ở nơi này nơi nọ, đã chẳng có những “thủ trưởng” nói mà quần chúng và cấp dưới không muốn nghe, thậm chí còn bị quần chúng chê trách, muốn “tẩy chay” đó sao?”.

Theo Tổng Bí thư, một người lãnh đạo chứng tỏ bằng hành động là mình thật sự có phẩm chất và tài năng thì “hữu xạ tự nhiên hương”, tự nhiên họ sẽ được quần chúng tin yêu, kính trọng và tín nhiệm.

Còn cán bộ nào khoe mẽ, chạy theo hình thức theo kiểu "trời cho cái mã bên ngoài, nó che đậy cái sơ sài bên trong" thì trước sau cũng bị lật tẩy, dù có nắm giữ chức vụ gì, tự đề cao bao nhiêu, được tán tụng như thế nào thì vẫn không thể có uy tín.

Đồng thời, theo lời Tổng Bí thư, họ “chỉ cần một phút thiếu cảnh giác với mình, buông thả mình là có thể phạm sai lầm lớn, làm mất uy tín của mình, làm hại thanh danh của Đảng. Không phải ngẫu nhiên mà ông cha ta đã đúc kết: “Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng”.

Đất nước không cần cán bộ “quan bảy cũng ừ, quan tư cũng gật”

Trong cuốn sách "Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh", Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu phải nâng cao tính chiến đấu của cán bộ, đảng viên và tổ chức cơ sở đảng.

Đồng chí phê phán việc một số đảng viên thụ động, không dám đưa ra chính kiến nhằm vụ lợi theo cách nói dân gian là “quan bảy cũng ừ..”, “ngậm miệng ăn tiền”; phê bình những cán bộ thiếu gương mẫu nhưng lại chăm chăm “cầm bó đuốc đi rê chân người”.

Tổng Bí thư cho rằng không phải chỉ từng cá nhân cán bộ, đảng viên mà cả các tổ chức cũng phải nâng cao tính chiến đấu: "Chúng ta đã nói nhiều về chống tham nhũng nhưng có thấy mấy chi bộ phát hiện ra đâu. Khi bình chọn cuối năm thì hầu hết đảng viên là đủ tiêu chuẩn và chi bộ trong sạch, vững mạnh, nhưng đơn thư tố cáo thì rất nhiều và tình trạng tham nhũng có cả ở đấy.

Nói là tự phê bình và phê bình chứ vẫn ca ngợi nhau là chính, chưa nhìn thẳng vào sự thật, chưa dám nói thẳng, cũng e dè, nể nang với trăm thứ lý do, nhất là sợ bị trù dập, cho nên cứ bùng nhùng.

Chiến đấu ở đây không phải là “đấm đá” mà là đấu tranh chống lại những tiêu cực, những cản trở sự phát triển của chúng ta ngay từ trong Đảng và trong xã hội, trong mỗi con người chúng ta, đúng không bảo vệ, sai không dám đấu tranh, “quan bảy cũng ừ, quan tư cũng gật”. Trung bình chủ nghĩa không vươn lên là kém tính chiến đấu…

Đảng viên phải tiên phong, gương mẫu thì nói người khác mới nghe, chứ nói rất mạnh mà “chân mình còn lấm bê bê, lại cầm bó đuốc đi rê chân người” thì người ta không chịu".

Tổng Bí thư nhấn mạnh, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là công việc xây dựng tổ chức, xây dựng con người, là công tác con người, rất dễ đụng chạm đến danh dự, lợi ích, quan hệ của con người, đòi hỏi mỗi chúng ta phải tự phê bình, phân tích, mổ xẻ những ưu, khuyết điểm của chính bản thân mình; phải nhận xét, đánh giá về người khác. Nếu không thật tự giác, chân thành, công tâm, khách quan thì rất dễ chủ quan, thường chỉ thấy ưu điểm, mặt mạnh của mình nhiều hơn người khác; trong khi chỉ thấy khuyết điểm, mặt yếu của người khác nhiều hơn mình. Tôi nhớ nhà văn Nga Mắc-xim Goóc-ky có nói: "Con người - hai tiếng ấy vang lên kiêu hãnh làm sao!". Nhưng con người cũng có không ít tật: "Kém một miếng không chịu được", "Miếng ăn là miếng tồi tàn, mất ăn một miếng thì lộn gan lên đầu!". Vì vậy, thường rất khó, rất phức tạp. Khó nhưng không thể không làm, vì nó liên quan đến sinh mệnh của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Đảng ta đã làm, làm nhiều, làm thường xuyên và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nếu không làm thì không có được những thành quả như ngày nay.

Theo Tổng Bí thư, điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là: Tất cả chúng ta, từ trên xuống dưới, đều phải có quyết tâm rất lớn, có sự thống nhất rất cao, có biện pháp thực hiện quyết liệt, khả thi, chỉ đạo chặt chẽ với một phương pháp tư duy đúng đắn, tỉnh táo, bình tĩnh, không cực đoan, không để các thế lực xấu lợi dụng, xuyên tạc, kích động, phá hoại. Có những việc không thể chỉ làm một lần là xong. Ngược lại, phải làm rất kiên quyết, kiên trì, bền bỉ; làm thường xuyên, liên tục; làm đi làm lại nhiều lần như đánh răng, rửa mặt hằng ngày. Có khi giải quyết xong vấn đề này lại nảy sinh vấn đề khác, làm được việc này lại xuất hiện việc khác. Nếu không xác định như vậy thì mỗi khi thấy có sự việc tiêu cực trong Đảng sẽ dễ mất bình tĩnh, nảy sinh tư tưởng bi quan, hoài nghi, hoặc mất niềm tin, phủ nhận mọi sự cố gắng và kết quả chung./.

 

Nhức nhối xâm phạm bản quyền trên không gian mạng

Vi phạm bản quyền tại Việt Nam trên môi trường số từ nhiều năm nay vẫn diễn ra phổ biến, gây thiệt hại hàng ngàn tỉ đồng. Các cơ quan chức năng cũng đã vào cuộc nhưng dường như vấn nạn này vẫn chưa được đẩy lùi một cách hiệu quả.

Hội thảo khoa học quốc tế "Bảo vệ bản quyền sách trên không gian mạng" đã đánh giá thực trạng đáng báo động của việc vi phạm bản quyền trên không gian mạng hiện nay. 

 Vi phạm bản quyền vẫn diễn ra phổ biến

Tại Hội thảo khoa học quốc tế "Bảo vệ bản quyền sách trên không gian mạng" do Hội Xuất bản Việt Nam tổ chức đã khẳng định: sự phát triển như vũ bão của Internet và sự tiến bộ vượt bậc của công nghệ, đặc biệt là các công nghệ số đã tạo điều kiện cho các tác giả, chủ sở hữu quyền, các đơn vị xuất bản có thể truyền bá, lưu trữ tác phẩm nhanh chóng và rộng rãi hơn. Nhưng chính sự phát triển này của công nghệ trong khi mà các yếu tố quan trọng khác như năng lực quản lý nhà nước, năng lực quản trị của doanh nghiệp, nhà xuất bản và ý thức bảo vệ bản quyền của người sử dụng còn hạn chế khiến tình trạng vi phạm bản quyền tác giả trong hoạt động xuất bản ngày càng trở nên nghiêm trọng với nhiều hình thức tinh vi, phức tạp, đe dọa nghiêm trọng sự phát triển ổn định, bền vững của nhiều nền xuất bản, trong đó có các quốc gia ASEAN.

Theo Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh, hiện nay nạn sách giả, sách lậu đã có thể gọi là “quốc nạn”. Nó giống như một thứ vi rút, một thứ dịch bệnh liên tục bào mòn sức khỏe văn hóa, sức khỏe tinh thần của cộng đồng. Nhìn xa hơn, nạn sách giả, sách lậu còn làm xấu hình ảnh của đất nước, làm ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh nói chung và kinh doanh văn hóa của Việt Nam nói riêng. Với một quốc gia mà nạn xâm phạm bản quyền diễn ra ngang nhiên từ năm này qua năm khác với quy mô ngày càng lớn, các nhà đầu tư hiển nhiên sẽ dè dặt khi hợp tác. Dẹp hay không dẹp được tệ nạn này, nó sẽ cho thấy năng lực quản lý và quyết tâm của nhà nước trong việc làm trong sạch hóa môi trường văn hóa và kinh doanh của đất nước.

Theo số liệu nghiên cứu năm 2022 của Media Partners Asia, Việt Nam đứng thứ ba trong khu vực (sau Indonesia và Philippines) về tỷ lệ vi phạm bản quyền trên không gian số. Tính theo đầu người, Việt Nam đứng thứ nhất, với khoảng 15,5 triệu người xem bất hợp pháp, làm thất thoát khoảng 348 triệu USD. Vi phạm quyền tác giả trên không gian số được thể hiện với nhiều hình thức khác nhau, và ảnh hưởng đến hầu hết các nội dung văn hóa - nghệ thuật: văn học, hội họa, âm nhạc, điện ảnh... Chưa bao giờ, vấn nạn xâm phạm quyền tác giả đối với các nội dung trên nền tảng số gióng lên hồi chuông báo động không chỉ cho các lực lượng chức năng mà còn là các cá nhân, tập thể liên quan như hiện nay.

Năm 2023, Thanh tra Bộ VHTTDL phối hợp với các cơ quan có liên quan ngăn chặn, bảo đảm thuê bao/người sử dụng dịch vụ viễn thông của doanh nghiệp trên toàn lãnh thổ Việt Nam không truy cập được vào 2.763 wesbite, 3.611 link có nội dung vi phạm; xem xét, xử lý các tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan. Đồng thời, gửi hàng nghìn khuyến cáo tới doanh nghiệp khai thác, sử dụng hình ảnh, âm thanh, video, sử dụng chương trình phần mềm máy tính trong sản xuất, hoạt động kinh doanh thương mại, hoạt động quảng cáo chấp hành các quy định của pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan…Mặc dù hành lang pháp lý liên tục hoàn thiện, với nhiều quy định chặt chẽ được bổ sung nhưng thực tế vẫn cho thấy nạn xâm phạm bản quyền vẫn diễn ra phổ biến và chưa mấy thuyên giảm.

Tại Hội thảo khoa học “Quản lý hoạt động phổ biến phim trên không gian mạng tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” vừa được Cục Điện ảnh tổ chức, các nhà quản lý, nhà phát hành, phổ biến phim… tiếp tục “kêu trời” khi quản lý phổ biến phim trên không gian mạng vẫn vấp phải vô vàn thách thức bởi nạn xâm phạm bản quyền.Theo đại diện BHD, tình trạng ăn cắp bản quyền phát hành trên không gian mạng vẫn còn rất phổ biến, gây thiệt hại vô cùng lớn cho nhà sản xuất, phát hành và phổ biến phim. Nhiều tên miền cung cấp phim miễn phí cho người xem khi buộc phải gỡ phim lại chạy sang miền khác mà vẫn thu hút đông khán giả thích “xem chùa”. Có những phim cơ quan quản lý nhà nước cấm thì chỉ vài tháng sau đã xuất hiện trên mạng nhan nhản, thành ra việc cấm trở thành… “bắt cóc bỏ đĩa”.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật và tăng cường các giải pháp về CNTT để bảo vệ quyền tác giả

Trước thực trạng đáng báo động về việc vi phạm bản quyền trên không gian mạng diễn ra từ nhiều năm nay, câu hỏi đặt ra là tại sao vấn nạn này vẫn chưa được đẩy lùi?

Bảo vệ bản quyền sách trên không gian mạng nói riêng và quyền tác giả nói chung trên không gian mạng là một thách thức lớn trong thời đại số hóa không chỉ của riêng Việt Nam mà của chung rất nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên việc Việt Nam được liệt vào danh sách đứng đầu về tỷ lệ vi phạm bản quyền trên không gian mạng phải chăng đã phần nào cho thấy hiệu quả thực sự của hệ thống quy định pháp luật trong lĩnh vực này?

 Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ là phải “hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ”. Ngoài ra, việc “tăng cường công tác bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ” cũng được đặt ra trong nhiệm vụ chung về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nằm trong Chiến lược của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030.

Theo Cục Bản quyền tác giả, hiện tại các hành lang pháp lý của chúng ta đã ngày càng hoàn thiện và đã quy định nhiều biện pháp để các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có thể áp dụng để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình. Ngoài việc áp dụng biện pháp công nghệ bảo vệ quyền, đưa thông tin quản lý quyền hoặc áp dụng các biện pháp công nghệ khác nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; các chủ thể quyền có thể yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải chấm dứt hành vi xâm phạm, gỡ bỏ và xóa nội dung vi phạm trên môi trường mạng viễn thông và mạng Internet, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại; yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ theo quy định của Luật này và các quy định pháp luật khác; thậm chí, khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Tại Hội thảo khoa học “Quản lý hoạt động phổ biến phim trên không gian mạng tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” nhiều chuyên gia đều khẳng định: Thực tế việc bùng nổ Internet đặt ra nhu cầu cấp thiết về việc ứng dụng công nghệ vào hoạt động phổ biến phim trên không gian mạng nhằm giải quyết những thách thức, đồng thời tự tạo ra cơ hội để phát triển dịch vụ. Đối với lĩnh vực cụ thể là bảo vệ quyền tác giả trong lĩnh vực điện ảnh trên không gian mạng, cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp như hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan nói chung, quyền tác giả tác phẩm điện ảnh nói riêng; nâng cao nhận thức, ý thức bảo vệ quyền, đẩy mạnh áp dụng các biện pháp công nghệ và thông tin quản lý quyền, chủ động yêu cầu xử lý khi có hành vi xâm phạm quyền; tăng cường công tác truyền thông, tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan...

Để bảo vệ quyền tác giả, giá trị, công sức của việc sáng tạo giá trị tri thức và cũng chính là bảo vệ bạn đọc, đã đến lúc chúng ta phải có những hạnh động quyết liệt để đẩy lùi vấn nạn này. Để làm được điều chắc chắn cần có sự chung tay phối hợp đấu tranh của tất cả các ngành, các quốc gia nhưng có lẽ trên hết vẫn là ý thức của người dân.

 

 

GIỮ VỮNG QUAN ĐIỂM KHÁCH QUAN, TOÀN DIỆN, LỊCH SỬ, CỤ THỂ VÀ PHÁT TRIỂN TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY


Mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua đều bắt nguồn từ việc Đảng ta luôn kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng.

Đó là sự kiên định và sáng tạo trên cơ sở tính khoa học, tính cách mạng, tính nhân văn, phù hợp với điều kiện của Việt Nam và thời đại. Đặc biệt, Đảng, Nhà nước ta luôn vận dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể của Chủ nghĩa Mác-Lênin trong thực tiễn, góp phần xây dựng cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước như ngày nay.

Một công cụ sắc bén để phân tích các vấn đề xã hội

Quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển là một công cụ sắc bén để phân tích các vấn đề xã hội và tìm ra những giải pháp thích hợp cho từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó cũng là công cụ nhận thức quan trọng để Đảng ta kiên định, vận dụng sáng tạo và phát triển trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử.

Quan điểm khách quan yêu cầu trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải phản ánh trung thực sự vật, hiện tượng với tất cả bản chất, những mối quan hệ vốn có của nó; nắm vững và tôn trọng những quy luật khách quan của hiện thực; đồng thời, không rơi vào chủ quan duy ý chí; không được lấy ý chí chủ quan, ý muốn chủ quan, nguyện vọng, tình cảm cá nhân để áp đặt cho thực tế.

Quan điểm toàn diện đòi hỏi phải xem xét toàn diện các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng và mối liên hệ giữa các yếu tố, bộ phận cấu thành và những mắt khâu trung gian, gián tiếp của chúng; cả hiện tại, quá khứ và xu hướng phát triển trong tương lai; phải đồng bộ, không cục bộ, phiến diện. Song trong mối liên hệ cụ thể, từng giai đoạn phải nắm đúng trọng tâm, then chốt, phù hợp với nhu cầu thực tiễn, tránh dàn trải, không viển vông, ảo tưởng. Trong quá trình xem xét toàn bộ mối liên hệ, bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng, phải dự báo được khả năng vận động, phát triển; chống mọi biểu hiện trì trệ, bảo thủ.

Quan điểm lịch sử, cụ thể chỉ rõ trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xem xét đúng các quá trình, các giai đoạn phát triển của các sự vật, hiện tượng; nhận thức được những thuộc tính, những mối liên hệ tất yếu, bản chất vốn có của sự vật, hiện tượng trong các hoàn cảnh, điều kiện cụ thể. Chỉ ra được mối liên hệ, quy luật khách quan; vị trí, vai trò của từng mối liên hệ quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Đồng thời, cần phải đấu tranh chống mọi biểu hiện xa rời thực tiễn với những điều kiện, hoàn cảnh riêng.

Quan điểm phát triển đòi hỏi phải nắm được khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng; phải khái quát và làm sáng rõ được xu hướng vận động, phát triển chủ đạo trong cả tự nhiên, xã hội và mỗi con người. Sự phát triển là quá trình biện chứng, có tính chất quanh co, phức tạp, thậm chí có những bước tụt lùi tạm thời, nhưng tất yếu cái mới sẽ ra đời. Do đó, cần phải có niềm tin vào sự tất thắng của cái mới, đấu tranh, loại bỏ mọi lực cản ảnh hưởng sự phát triển của tự nhiên, xã hội và mỗi con người.

Giữ vững quan điểm trong lãnh đạo, quản lý 

Giữ vững quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là trong gần 40 năm đổi mới đất nước, Đảng ta luôn kiên định: Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đảng đề ra chiến lược phát triển tổng thể là: Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế-xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.

Đảng ta luôn vận dụng sáng tạo bài học tôn trọng thực tiễn khách quan, quán triệt sâu sắc nguyên tắc kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, giữa kiên định và đổi mới, giữa kế thừa và phát triển để đưa ra những quyết sách sáng suốt, đúng đắn, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, có hiệu quả công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển trong giai đoạn mới; quyết tâm khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; thể hiện tầm nhìn và định hướng phát triển đất nước với những bước đi, lộ trình cụ thể đến năm 2025, 2030 và 2045, để phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN).

Đặc biệt, trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng, với phương châm “Tiền hô hậu ủng”, “Nhất hô bá ứng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông suốt”, Đảng, Nhà nước đã quán triệt sâu sắc, lãnh đạo, chỉ đạo, nắm vững và xử lý tốt 4 kiên định, 12 định hướng, 10 mối quan hệ, 3 đột phá chiến lược, 6 nhiệm vụ trọng tâm; phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; hình thành đồng bộ thể chế phát triển nhanh và bền vững đất nước dựa trên các trụ cột: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và nền dân chủ XHCN Việt Nam.

Cùng với lãnh đạo phát triển tổng thể các mặt, các lĩnh vực trong tính chỉnh thể, Đảng ta còn đánh giá vị trí, vai trò của từng lĩnh vực, yếu tố làm cơ sở để xác định, xây dựng từng bước đi, lộ trình và giải pháp phù hợp với điều kiện đất nước và xu thế phát triển của thời đại. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững đất nước, hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thúc đẩy chuyển đổi số, tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, chú trọng phát triển những ngành, lĩnh vực là thế mạnh của đất nước và của từng vùng, ngành, địa phương.

Thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và năng lực nội sinh của nền kinh tế. Tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế, chính sách; khơi thông các nguồn lực cho phát triển. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án chiến lược trọng điểm, quan trọng quốc gia; chú trọng đầu tư phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, tập trung cho vùng “lõi nghèo”, đặc biệt khó khăn, tránh dàn trải, lãng phí.

Phát triển con người toàn diện, con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của phát triển. Phát huy dân chủ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân; thực hiện quan điểm “dân là gốc”, “dân là trung tâm” và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Tạo môi trường sống an toàn, thân thiện, lành mạnh để phát triển trẻ em toàn diện, thực hiện tốt công tác người cao tuổi, thanh niên, bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ. Tập trung cải thiện đời sống của đồng bào dân tộc, người dân vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, vùng khó khăn.

Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa-xã hội, phát triển văn hóa-xã hội ngang tầm với phát triển kinh tế. Phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế. Thực hiện hiệu quả Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục-đào tạo và nâng cao hơn nữa vai trò của khoa học-công nghệ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, gắn với nền kinh tế tri thức, kinh tế số, đô thị thông minh.

Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh, gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Thực hiện tốt các chính sách khuyến khích và bảo vệ cán bộ “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”. Nâng cao hiệu quả công tác dân vận, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức chính trị-xã hội, doanh nghiệp và người dân, góp phần tạo đồng thuận xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại; giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Củng cố, tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc; xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong mọi tình huống. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, chất lượng ngày càng cao; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh và rộng khắp, coi trọng lực lượng dân quân tự vệ biển và dân quân tự vệ ở các địa phương trọng điểm.

Tích cực phòng ngừa, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và các loại tội phạm; giữ vững thế chủ động chiến lược, bảo đảm an ninh, trật tự, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống, không để hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nước. Chủ động đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”, âm mưu “phi chính trị hóa” LLVT; phòng ngừa, ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; bảo đảm an ninh kinh tế, an ninh thông tin, truyền thông, an ninh mạng và an ninh xã hội. Tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh; chủ động phối hợp với các quốc gia bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc; xử lý các vấn đề an ninh phi truyền thống, có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến.

Vận dụng đúng đắn, linh hoạt quan điểm đối tác, đối tượng; triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi trong quan hệ quốc tế. Kiên trì thực hiện chính sách cân bằng trong quan hệ với các nước lớn; coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng; đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và đối tác quan trọng khác, tạo lợi ích thực chất giữa Việt Nam và các nước; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và tạo điều kiện thuận lợi, thu hút các nguồn lực để phục vụ phát triển đất nước, củng cố và nâng cao uy tín, vị thế quốc tế của Việt Nam./.

Tiến sĩ NGUYỄN ĐÌNH TƯƠNG

Phát huy truyền thống đánh thắng trận đầu, xây dựng Quân chủng Hải quân “tinh, gọn, mạnh”

Ngày 02 và 05/8/1964, Hải quân nhân dân Việt Nam đã phối hợp cùng các lực lượng anh dũng chiến đấu, lập nên chiến công đánh thắng trận đầu. Đó mãi là niềm tự hào, nguồn cổ vũ, động viên to lớn để lớp lớp thế hệ cán bộ, chiến sĩ Hải quân vượt qua mọi hy sinh, gian khổ, vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; động lực để xây dựng Quân chủng “tinh, gọn, mạnh”, hiện đại, xứng đáng là lực lượng nòng cốt bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.



Thủ trưởng Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân kiểm tra Trạm Ra-đa của Vùng 5

Bước vào năm 1964, trước nguy cơ phá sản của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mỹ phiêu lưu mở rộng chiến tranh phá hoại ra hậu phương chiến lược của ta, nhằm ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho chiến trường miền Nam. Từ tháng 3/1964, Mỹ và chính quyền Sài Gòn thường xuyên sử dụng máy bay trinh sát, tàu chiến tiến sâu vào hải phận của ta, bắn phá dọc bờ biển từ Thanh Hóa trở vào Quảng Bình. Đặc biệt, ngày 02/8/1964, Hải quân Mỹ sử dụng tàu khu trục Maddox tiến vào sát bờ biển Hòn Mê, Lạch Trường (Thanh Hóa, cách Đông Nam Hòn Nẹ 10 hải lý) để trinh sát và khiêu khích các lực lượng của ta. Chấp hành chỉ thị của cấp trên, Hải quân nhân dân Việt Nam đã tổ chức lực lượng tiến công đánh đuổi tàu khu trục Maddox, kiên quyết trừng trị hành động xâm phạm vùng biển Tổ quốc, buộc tàu địch phải rút chạy. Sau vụ việc này, chính quyền Mỹ dựng lên cái gọi là “Sự kiện Vịnh Bắc Bộ” vu cáo Hải quân nhân dân Việt Nam “cố ý” tiến công tàu khu trục của Mỹ ở vùng biển quốc tế, nhằm đánh lừa dư luận, tạo cớ để đánh phá ra miền Bắc. Thực hiện mưu đồ đó, ngày 05/8/1964, Mỹ lập tức mở Chiến dịch “Mũi tên xuyên”, sử dụng tối đa lực lượng máy bay của hai biên đội tàu sân bay (Constellation và Ticonderoga) đánh phá các mục tiêu kinh tế, căn cứ, kho tàng, nơi trú đậu tàu thuyền của Hải quân ta dọc ven biển từ sông Gianh (Quảng Bình) đến Bãi Cháy (Quảng Ninh), mở đầu cho hành động leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc. Đây là một cuộc đọ sức quyết liệt giữa lực lượng và thế trận chiến tranh nhân dân trên biển của quân dân miền Bắc với sức mạnh hải quân, không quân Mỹ. Mặc dù phải đương đầu với lực lượng địch được trang bị vũ khí hiện đại, nhưng với ý chí, quyết tâm chiến đấu cao, lòng quả cảm, Bộ đội Hải quân đã phối hợp, hiệp đồng với lực lượng phòng không ba thứ quân và nhân dân các địa phương ven biển anh dũng chiến đấu, bắn rơi 08 máy bay và bắn bị thương nhiều chiếc khác, bắt sống giặc lái, làm thất bại bước đầu âm mưu phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ, viết tiếp truyền thống chiến thắng trận đầu của Quân đội ta.

Chiến thắng ngày 02 và 05/8/1964 đã mở đầu trang sử chiến đấu và chiến thắng hào hùng của Hải quân nhân dân Việt Nam, góp phần cổ vũ toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thi đua giết giặc lập công, đánh đuổi Mỹ - ngụy. Chiến thắng đó đã trở thành truyền thống vẻ vang “đánh thắng trận đầu” của Hải quân nhân dân Việt Nam; mãi mãi là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng; khẳng định ý chí dám đánh, quyết đánh và biết đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của Hải quân nói riêng và toàn dân, toàn quân ta nói chung. Đây còn là chiến thắng của tinh thần đoàn kết, hiệp đồng chiến đấu, của trí tuệ và nghệ thuật quân sự Việt Nam “lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều”; phát huy tổng lực sức mạnh của cả dân tộc đánh thắng kẻ thù mạnh hơn gấp nhiều lần bằng vũ khí trang bị hiện có, khẳng định tính đúng đắn của đường lối chiến tranh nhân dân do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Chiến thắng đó là kết tinh của ý chí quyết tâm, tinh thần cảnh giác cách mạng, bản lĩnh mưu trí sáng tạo; quá trình huấn luyện, chuẩn bị lực lượng và sẵn sàng chiến đấu cao của các lực lượng trên hướng biển; trong đó, Hải quân nhân dân giữ vai trò nòng cốt. Chiến thắng trận đầu ngày 02 và 05/8/1964 tạo ra tiếng vang lớn trên trường quốc tế, khẳng định ý chí kiên cường bất khuất của dân tộc Việt Nam, một dân tộc nhỏ bé nhưng không chịu khuất phục trước bất kỳ kẻ thù xâm lược nào. Thời gian đã lùi xa 60 năm nhưng khí thế hào hùng của chiến công đánh thắng trận đầu vẫn còn nguyên giá trị, là động lực tinh thần to lớn để Bộ đội Hải quân tiếp tục nỗ lực phấn đấu lập thêm nhiều chiến công mới, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Hiện nay, tuy hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là dòng chảy chính của thời đại, song tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những biến động phức tạp, khó dự báo; tình trạng tranh chấp chủ quyền, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh cục bộ và những thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng gia tăng, diễn ra gay gắt. Tình hình Biển Đông đã và đang có những diễn biến căng thẳng, tiềm ẩn nguy cơ khó lường. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh hoạt động chống phá cách mạng nước ta bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”, với nhiều thủ đoạn mới rất tinh vi, thâm độc. Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc nói chung, bảo vệ chủ quyền biển, đảo nói riêng đang đặt ra yêu cầu mới rất cao và toàn diện, đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, v.v. Để hoàn thành trọng trách với Đảng, với Tổ quốc và Nhân dân, Quân chủng Hải quân tiếp tục phát huy truyền thống “đánh thắng trận đầu”, tập trung xây dựng Quân chủng “tinh, gọn, mạnh”, hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.



Đồng chí Tư lệnh Quân chủng Hải quân và đại biểu Đoàn công tác thăm hỏi, động viên quân dân đảo Song Tử Tây.

Trước hết, tập trung xây dựng Quân chủng vững mạnh về chính trị. Đây là vấn đề quan trọng hàng đầu, làm cơ sở, nền tảng để nâng cao chất l­ượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, bảo đảm cho Quân chủng luôn hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Để làm được điều đó, Quân chủng tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; tăng cường và nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị trên tất cả các mặt công tác để cán bộ, chiến sĩ nhận thức sâu sắc đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; thấy rõ vị trí chiến lược quan trọng của biển, đảo, nhiệm vụ của Quân chủng. Trong tình hình hiện nay, Quân chủng tăng cường phổ biến, quán triệt để bộ đội nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, xác định rõ đối tượng, đối tác của cách mạng Việt Nam, đối tượng tác chiến của Hải quân và yêu cầu cấp bách của nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới. Qua đó, tiếp tục nâng cao nhận thức, trách nhiệm, xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ bản lĩnh chính trị vững vàng, thống nhất cao về ý chí, hành động, không mơ hồ, mất cảnh giác; nêu cao tinh thần vượt mọi khó khăn, gian khổ; khôn khéo, kiên quyết, kiên trì, mưu trí, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ; phát huy ý chí quyết tâm dám đánh, quyết đánh và biết đánh thắng kẻ thù trong mọi tình huống, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Cùng với đó, tập trung xây dựng Đảng bộ Quân chủng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; giữ vững nguyên tắc tổ chức, xây dựng Đảng. Chú trọng kiện toàn, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là tổ chức đảng ở các đơn vị có tính đặc thù cao, đơn vị làm nhiệm vụ trực sẵn sàng chiến đấu, các đảo, nhà giàn. Đảng bộ Quân chủng tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XIII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và các chỉ thị, kết luận, hướng dẫn của các cấp về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; đặc biệt là Quy định số 144-QĐ/TW, ngày 09/5/2024 của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới. Đồng thời, coi trọng nâng cao hơn nữa chất lượng sinh hoạt tự phê bình và phê bình, làm chuyển biến mạnh mẽ về chính trị, tư­ tưởng, đạo đức và lối sống của cán bộ, đảng viên, ngăn chặn, đẩy lùi tiêu cực. Thực hiện tốt Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ - Người chiến sĩ Hải quân”, tạo động lực huy động sức mạnh tổng hợp xây dựng Quân chủng vững mạnh về chính trị, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Hai là, nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Quân chủng tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể hóa và thực hiện tốt Nghị quyết số 1659-NQ/QUTW, ngày 20/12/2022 của Quân ủy Trung ương về nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2023 - 2030 và những năm tiếp theo. Phấn đấu nâng cao hơn nữa chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và trình độ hiệp đồng tác chiến cho các lực lượng; lấy nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo làm mục tiêu huấn luyện. Quá trình huấn luyện bám sát phương châm “cơ bản, thiết thực, vững chắc”; coi trọng huấn luyện đồng bộ, chuyên sâu, sát với nhiệm vụ, tình huống, phương án chiến đấu, đối tượng tác chiến, tổ chức biên chế, trang bị, khu vực hoạt động của từng đơn vị. Kết hợp chặt chẽ giữa huấn luyện chiến đấu với giáo dục chính trị, xây dựng nền nếp chính quy, quản lý kỷ luật. Tăng cường luyện tập, diễn tập trong những điều kiện phức tạp, sát thực tế chiến đấu, trong điều kiện địch sử dụng vũ khí công nghệ cao, đặc biệt là diễn tập đối kháng, thời gian chuẩn bị ngắn; qua đó, nâng cao trình độ chỉ huy, khả năng hiệp đồng tác chiến cũng như­ rèn luyện bản lĩnh cho cán bộ, chiến sĩ. Tiếp tục đột phá huấn luyện làm chủ khai thác, sử dụng và bảo đảm kỹ thuật cho các loại vũ khí, trang bị thế hệ mới, hiện đại. Cùng với đó, Quân chủng chủ trì phối hợp với các quân khu, địa phương và lực lượng có liên quan củng cố, xây dựng thế trận bờ - biển - đảo liên hoàn, vững chắc; nâng cao chất lượng nghiên cứu, dự báo tình hình, chủ động tham mưu, đề xuất giải pháp ngăn ngừa xung đột, xử lý thắng lợi các tình huống trên biển, đảo, không để bị động bất ngờ, nhất là về chiến lược. Đồng thời, tiếp tục nghiên cứu, tổng kết đúc rút những bài học kinh nghiệm trong chiến đấu, nhất là chiến thắng trận đầu để vận dụng vào công tác huấn luyện, xây dựng lực lượng và phát triển nghệ thuật, cách đánh hải quân, phù hợp với vũ khí, trang bị kỹ thuật và điều kiện mới của nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Ba là, tập trung kiện toàn tổ chức, lực lượng “tinh, gọn, mạnh”, đẩy nhanh hiện đại hóa Quân chủng. Trên cơ sở quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 17/01/2022 của Bộ Chính trị (khóa XIII); Nghị quyết số 230-NQ/QUTW, ngày 02/4/2022 của Quân ủy Trung ương; Kế hoạch số 1228/KH-BQP, ngày 25/4/2022 của Bộ Quốc phòng về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo cũng như kế thừa, phát huy kết quả kiện toàn tổ chức, lực lượng thời gian qua, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân chủng tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo tập trung kiện toàn tổ chức biên chế, xây dựng lực lượng theo đúng lộ trình, kế hoạch đã được Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng phê duyệt. Trong đó, coi trọng việc kiện toàn tổ chức gắn với điều chỉnh thế bố trí lực lượng trên các vùng biển, đảo, bảo đảm cân đối, đồng bộ, có trọng điểm, ưu tiên trên hướng chủ yếu, khu vực quan trọng để vừa có khả năng chuyển hóa thế trận linh hoạt, hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng, vừa có thể triển khai tác chiến liên hợp, tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng, nhưng khi cần có thể độc lập tác chiến. Đồng thời, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị tích cực kiện toàn tổ chức, biên chế, giảm đầu mối trung gian, điều chỉnh quân số từ nơi thừa sang nơi thiếu, ưu tiên bảo đảm quân số cho đơn vị chiến đấu. Để thực hiện mục tiêu đến năm 2025 xây dựng Hải quân nhân dân Việt Nam cơ bản hiện đại, cùng với việc tiếp tục đầu tư cho chiến lược phát triển nguồn nhân lực, thực hiện tốt việc tuyển chọn nguồn và huấn luyện, đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ, chiến sĩ có đủ trình độ, khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, Quân chủng tập trung hiện đại hóa phương tiện, vũ khí trang bị cho các lực lượng, các trang bị trinh sát, quan sát để nắm tình hình trên các vùng biển, nhất là vùng biển xa,... đảm bảo cho các lực lượng có đủ sức mạnh làm nòng cốt trong cuộc chiến tranh nhân dân trên biển, quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc trong tình hình mới.

Bốn là, thực hiện tốt công tác hậu cần - kỹ thuật, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân chủng. Là lực lượng nòng cốt thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong môi trường biển, đảo; điều kiện bảo đảm khó khăn; sử dụng nhiều phương tiện, khí tài đặc chủng, hiện đại nên công tác bảo đảm hậu cần - kỹ thuật có vai trò rất quan trọng đối việc hoàn thành nhiệm vụ của Quân chủng. Để hoàn thành tốt trọng trách được giao, Quân chủng tiếp tục quán triệt, đẩy mạnh triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về công tác hậu cần - kỹ thuật đến năm 2030 và những năm tiếp theo; trong đó, trọng tâm hướng vào sáp nhập, kiện toàn tổ chức lực lượng hậu cần, kỹ thuật các cấp đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân chủng “tinh, gọn, mạnh” và nâng cao chất lượng bảo đảm hậu cần - kỹ thuật cho các nhiệm vụ, nhất là cho các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, lực lượng ở quần đảo Trường Sa, nhà giàn DK1. Đồng thời, tiếp tục chỉ đạo các cơ quan, đơn vị rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn kiện hậu cần - kỹ thuật tác chiến; duy trì nghiêm nền nếp chế độ sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng bảo đảm cho mọi tình huống; chú trọng xây dựng, luyện tập phương án bảo đảm hậu cần - kỹ thuật cho tàu xuất phát nhanh, trong thời gian ngắn. Bên cạnh đó, tập trung nghiên cứu, tham mưu quy hoạch, xây dựng các căn cứ, phân căn cứ hậu cần - kỹ thuật chiến dịch, cụm lực lượng và trên các đảo theo hướng cơ động, liên hoàn, vững chắc; tích cực phối hợp với các ngành, địa phương xây dựng, quản lý chặt chẽ lực lượng, phương tiện hậu cần - kỹ thuật dự bị động viên, sẵn sàng huy động đáp ứng yêu cầu bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Cùng với các nội dung trên, Quân chủng tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác hội nhập quốc tế; đối ngoại quốc phòng; tăng cường và phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với hải quân các nước. Chủ động tham gia các diễn đàn, hội thảo, hội nghị hải quân khu vực và trên thế giới; tích cực tham gia tuần tra chung, hợp tác kỹ thuật quân sự, chuyển giao công nghệ, hậu cần, huấn luyện - đào tạo, kinh tế, thủy đạc, phòng, chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU),... góp phần củng cố lòng tin, nâng cao vị thế và uy tín của Hải quân Việt Nam trên trường quốc tế.

Vinh dự, tự hào và phát huy truyền thống “đánh thắng trận đầu” của thế hệ cha anh đi trước, cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam ngày nay tiếp tục nỗ lực phấn đấu xây dựng Quân chủng “tinh, gọn, mạnh”, hiện đại, xứng đáng là lực lượng nòng cốt bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc./.

ST.

Bảo vệ giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay

Trong mọi giai đoạn của cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh đã khẳng định giá trị trường tồn, là một bộ phận quan trọng cấu thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng, là ngọn cờ dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Do đó, việc bảo vệ giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa cấp thiết trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Bác Hồ với nữ chiến sĩ thi đua miền Bắc_Ảnh: Tư liệu

1- Giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh được khẳng định qua các cơ sở lý luận và thực tiễn sau:

Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi đến thắng lợi.

Tư tưởng của Người là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân; nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; phát triển kinh tế, văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”; chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ trung thành của nhân dân”… Cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Người không chỉ luôn phấn đấu thực hiện, mà còn giáo dục, dìu dắt các thế hệ cách mạng và người dân Việt Nam về tư tưởng đó. Chính vì vậy, Người là hiện thân của chủ nghĩa nhân văn cao cả, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, mang lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Người là biểu tượng sáng ngời của tình đoàn kết quốc tế, một chiến sĩ quả cảm không ngừng đấu tranh cho hòa bình và tiến bộ xã hội... Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành giá trị văn hóa có ảnh hưởng mạnh mẽ trên thế giới; là tài sản tinh thần vô cùng quý báu của dân tộc ta trên con đường hội nhập và phát triển. Dù thế giới biến đổi không ngừng và có nhiều thay đổi phức tạp, khó lường, nhưng giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh luôn trường tồn cùng với sự phát triển tiến bộ của nhân loại và dân tộc Việt Nam.

Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần phát triển, làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong điều kiện cách mạng Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh học tập, tiếp thu và vận dụng lý luận Mác - Lê-nin một cách sáng tạo trên nền của một nhân cách vĩ đại, với trí tuệ uyên bác và luôn lấy thực tiễn Việt Nam làm điểm xuất phát. Những vấn đề lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam đã được Người luận giải trên cơ sở gắn lý luận với thực tiễn, xuất phát từ đòi hỏi của dân tộc với sự phát triển của thời đại. Người luôn nắm vững cái cốt lõi, “linh hồn sống” của chủ nghĩa Mác - Lê-nin là “phương pháp làm việc biện chứng”. Trên tinh thần và cách tiếp cận đó, hệ thống các quan điểm của Người về dân tộc, cách mạng giải phóng dân tộc, về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) của dân, do dân, vì dân, xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất (nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam), xây dựng văn hóa, đạo đức, con người mới, về quân sự, ngoại giao… đều phản ánh sự kế thừa, phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lê-nin gắn với điều kiện lịch sử, văn hóa và con người Việt Nam.

Ngoài ra, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam còn là tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, và “quyền lực cao nhất thuộc về nhân dân”. Điều đó cho thấy giá trị tư tưởng của Người thông qua các luận điểm về quyền sống tự do, độc lập - một trong những giá trị vĩnh hằng trong quyền tự nhiên của con người và cũng là quyền căn bản của mỗi quốc gia, dân tộc trên thế giới. Bên cạnh đó, các luận điểm mang dấu ấn sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự lực cánh sinh, về phát huy sức mạnh toàn dân tộc, về xây dựng nền văn hóa mới, giáo dục mới, con người mới, gắn với thể chế chính trị mới; xây dựng quân đội nhân dân và nền ngoại giao nhân dân dựa trên nội lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại… cũng là sự bổ sung, phát triển và làm phong phú lý luận Mác - Lê-nin gắn với thực tiễn Việt Nam.

Thứ ba, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng quan trọng để Đảng ta hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách thực hiện các mục tiêu của cách mạng.

Quá trình cách mạng Việt Nam 94 năm qua đã chứng minh, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã trở thành ngọn cờ soi đường cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi. Mặc dù đến Đại hội VII của Đảng, lần đầu tiên, Đảng ta trang trọng ghi vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991): Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, song trên thực tế, cùng với học thuyết Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành “nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam” cho Đảng ta ngay từ khi Đảng mới ra đời vào mùa Xuân năm 1930, với những văn kiện đầu tiên của Đảng mang đậm dấu ấn tư tưởng Hồ Chí Minh. Và trong suốt quá trình xây dựng, trưởng thành, phát triển của Đảng, hệ thống các quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với lý luận Mác - Lê-nin đã trở thành kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta.

Với vai trò, uy tín và tầm ảnh hưởng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành lãnh tụ tiêu biểu cho khát vọng được sống trong hòa bình, độc lập, tự do của toàn dân tộc. Tư tưởng của Người về các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam không chỉ chứa đựng giá trị nhân văn cao đẹp, mà còn hàm chứa tư duy lý luận khoa học. Cùng với lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành tư tưởng cốt lõi của Đảng ta để xác định đường lối chiến lược, sách lược trong chỉ đạo cách mạng, nhằm đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo vệ và giữ vững chính quyền cách mạng, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội trên tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân.

Trong tình hình mới, tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục soi sáng sự nghiệp đổi mới đất nước, nhằm thực hiện thành công tầm nhìn chiến lược của Đảng được xác định tại Đại hội XIII: “Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”.

Thực tế cho thấy, hệ thống quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mục tiêu, con đường, phương pháp đấu tranh trong cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ xã hội mới ở Việt Nam là cơ sở cho đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong 94 năm qua. Đồng thời, những thành tựu đã đạt được về mọi mặt ở Việt Nam là không thể phủ nhận, điều đó không chỉ phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, mà còn phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp và giải phóng con người.

Khẳng định giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhấn mạnh: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là linh hồn, ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn nửa thế kỷ qua. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta, nhân dân ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của toàn dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam".

Thứ tư, tư tưởng Hồ Chí Minh được hiện thực hóa đã cổ vũ, huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, làm nên những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam.

Một trong những đóng góp nổi bật của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với dân tộc, là đã tìm ra con đường duy nhất đúng cho cách mạng Việt Nam - con đường “cách mạng vô sản”. Tiếp theo đó là phương pháp để thức tỉnh nhân dân Việt Nam - những người bị áp bức tàn bạo dưới chế độ thực dân. Ngay từ rất sớm, Người đã nhận thức đúng sự chuyển biến của thời đại, gắn cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa với cách mạng vô sản. Thông qua các quan điểm và hoạt động thực tiễn, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã vạch ra đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng đúng đắn cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam.

Nhờ sự hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh vào phong trào cách mạng Việt Nam, nhân dân ta đã được thức tỉnh, nâng cao ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, hoàn thành thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”. Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh “là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”.

Trong 38 năm đổi mới đất nước dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, cơ bản xóa được đói, giảm được nghèo theo định hướng phát triển bền vững. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường. Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, an ninh chính trị, trật tự, an toàn và an sinh xã hội được bảo đảm. Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của đất nước đã tăng lên rất nhiều, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn theo con đường lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

Thành phố Hồ Chí Minh sau gần 40 năm đổi mới_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

2- Để bảo vệ các giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, cần triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng thấm sâu vào đời sống xã hội. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, cũng như của mọi chủ thể trong hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong đó, cần tập trung quán triệt và thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp chủ yếu sau:

Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của toàn dân về giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đây là định hướng quan trọng, là tiền đề tạo ra sự chuyển biến từ nhận thức đến hành động của các chủ thể. Bởi vì, nhận thức hướng dẫn hành động, nhận thức đúng thì hành động đúng và nhận thức đúng sẽ không vấp phải những sai lầm, khuyết điểm, thậm chí thất bại trong hoạt động thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng căn dặn: “Tư tưởng đúng thì hành động mới khỏi sai lạc và mới làm tròn nhiệm vụ cách mạng được”. Theo đó, cần tăng cường giáo dục, tuyên truyền, làm cho cấp ủy các cấp, cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân nhận thức sâu sắc, toàn diện về các nội dung khẳng định giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh trong tiến trình cách mạng Việt Nam, như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhấn mạnh: “Thế giới đã và sẽ còn đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn sống mãi trong kho tàng văn hóa của nhân loại”.

Ngoài ra, tiếp tục đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong toàn bộ hệ thống chính trị, bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Không có lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học thì không thể có lập trường giai cấp vững vàng. Vì vậy, các cô, các chú phải chịu khó học tập lý luận Mác - Lê-nin, học tập đường lối, chính sách của Đảng; đồng thời phải học tập văn hóa, kỹ thuật và nghiệp vụ”(8). Để nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục chính trị, các cơ sở đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân, nhất là các nhà trường giảng dạy về lý luận chính trị cần thực hiện nghiêm Kết luận số 94-KL/TW, ngày 28-3-2014, của Ban Bí thư, “Về việc tiếp tục đổi mới việc học tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân”; Chỉ thị số 23-CT/TW, ngày 9-2-2018, của Ban Bí thư, “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới”; các quan điểm trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng về công tác tư tưởng, lý luận.

Chỉ thị số 23-CT/TW, ngày 9-2-2018, của Ban Bí thư chỉ rõ: Đổi mới mạnh mẽ về nội dung, phương pháp học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh theo hướng phù hợp với từng đối tượng, phát huy tính tự giác, tinh thần trách nhiệm, thường xuyên tự học tập, tự nghiên cứu để nâng cao trình độ, bản lĩnh chính trị và phương pháp công tác của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là thế hệ trẻ. Tiếp tục đổi mới nội dung giáo trình theo hướng giảng dạy, truyền thụ đầy đủ những nội dung cơ bản, cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cập nhật những học thuyết đương đại, vận dụng sáng tạo, tăng cường liên hệ thực tiễn. Đổi mới phương pháp giảng dạy lý luận chính trị, ứng dụng các phương pháp hiện đại, hấp dẫn người học, tạo hứng thú tìm tòi, nghiên cứu. Đổi mới hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá thực chất kết quả học tập lý luận chính trị theo hướng thực chất. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong học tập lý luận chính trị.

Tiếp tục nghiên cứu xây dựng Chương trình học tập theo hướng phân biệt rõ cấp học và đối tượng học; đồng thời tăng cường, bảo đảm tính liên thông trong đào tạo các trình độ lý luận chính trị, phân cấp rõ ràng, hạn chế tối đa sự chồng chéo, trùng lặp trong hệ thống các cơ sở đào tạo lý luận chính trị để nâng cao hiệu quả việc học tập, đào tạo, bồi dưỡng và tránh lãng phí về thời gian, kinh phí. Tiếp tục đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị phù hợp với nhu cầu quy hoạch, đào tạo, sử dụng cán bộ.

Theo đó, cần đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ nội dung, chương trình, giáo trình, tài liệu và phương pháp giảng dạy lý luận chính trị trong hệ thống các học viện, nhà trường; tập trung truyền thụ đầy đủ những nội dung cơ bản, cốt lõi, cũng như giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh, cập nhật những nội dung, giá trị mới, phù hợp với sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, làm cơ sở định hướng cho việc vận dụng trong thực tiễn. Đặc biệt, cần chú trọng việc giáo dục lý luận chính trị cho thế hệ trẻ trong các nhà trường, đổi mới, nâng cao tính hấp dẫn của việc dạy và học các bộ môn khoa học Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho người học nhận thức đúng đắn, đầy đủ, sâu sắc về bản chất khoa học, cách mạng, nhân văn và các giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Hai là, tích cực, chủ động, nhạy bén trong đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch hòng phủ nhận giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Để thực hiện tốt nội dung này, cần quán triệt, thực hiện nghiêm Chỉ thị số 34-CT/TW, ngày 17-4-2009, của Ban Bí thư Trung ương Đảng, “Về tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa”; Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Bộ Chính trị, “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”; quan điểm của Đại hội XIII của Đảng. Trên cơ sở đó, các cấp, các ngành, nhất là cơ quan báo chí, tuyên truyền, học viện, nhà trường, viện nghiên cứu cần chủ động, tích cực đấu tranh, phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, vạch trần thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh, đối lập giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin với tư tưởng Hồ Chí Minh, tuyệt đối hóa tư tưởng Hồ Chí Minh hoặc chủ nghĩa Mác - Lê-nin; thổi phồng những sơ hở, yếu kém trong công tác lãnh đạo, quản lý kinh tế - xã hội, nhằm kích động tâm lý bất mãn, chống đối, chia rẽ nội bộ, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc để phủ nhận giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Các cấp, các ngành phải tích cực, chủ động thực hiện các biện pháp xử lý kịp thời những bức xúc, tăng cường sự đồng thuận xã hội, sự nhất trí trong nội bộ, củng cố và nâng cao niềm tin vào giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị khóa XIII, đi đôi với tăng cường quản lý chặt chẽ báo chí, xuất bản, internet, mạng xã hội theo đúng quy định của pháp luật; tăng cường thông tin đối ngoại và thông tin nội bộ, nhằm nâng cao tính thuyết phục, tính chiến đấu của công tác tư tưởng, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Ba là, tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn.

Trong quá trình tìm đến chân lý cách mạng, ngay từ năm 1924, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhấn mạnh: “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”(9). Do vậy, để tiếp tục khẳng định giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay, phải tích cực nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển và tìm ra các giá trị mới của tư tưởng Hồ Chí Minh cả về lý luận và thực tiễn. Vì thế, trước hết phải nghiên cứu, vận dụng và phát huy giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh theo đúng tinh thần mác-xít nhằm cải tạo thực tiễn; tiếp tục kế thừa, bổ sung và phát triển quan điểm, luận điểm toàn diện và sâu sắc của Người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội của đất nước.

Để thực hiện tốt các nội dung trên, đòi hỏi phải phát huy dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị trên cơ sở quán triệt và thực hiện tốt Quy định số 285-QĐ/TW, của Bộ Chính trị khóa XI, về dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị ở trong các học viện, nhà trường, viện nghiên cứu. Thông qua đó, bảo đảm nâng cao chất lượng kết quả nghiên cứu khoa học, nhằm góp phần bổ sung, phát triển sáng tạo, nâng tầm lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với yêu cầu thực tiễn của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay.

Bốn là, phát huy vai trò, trách nhiệm của lực lượng chuyên trách trong đấu tranh bảo vệ giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Chất lượng và hiệu quả của công tác lý luận, của việc bảo vệ, vận dụng, phát huy giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ cán bộ lý luận và lực lượng chuyên trách. Hơn ai hết, đội ngũ này phải là lực lượng thật sự kiên định về lập trường tư tưởng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, am hiểu sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng. Do đó, việc xây dựng đội ngũ cán bộ lý luận, lực lượng chuyên trách, nhất là cán bộ chuyên sâu về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ là yêu cầu cấp thiết hiện nay. Theo đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng trong các học viện, nhà trường về nội dung, giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh cần được chú trọng, đổi mới; đồng thời, làm tốt việc lựa chọn, bồi dưỡng, sử dụng những người có tâm huyết, có trình độ cao, năng lực, phong cách công tác tốt để làm công tác giảng dạy, nghiên cứu lý luận.

Ngoài ra, cần thường xuyên kiện toàn tổ chức lực lượng chuyên trách, nhất là cán bộ tuyên giáo và lực lượng đấu tranh trên không gian mạng, phát huy vai trò của ban chỉ đạo 35 các cấp, lực lượng chuyên sâu, lực lượng 47 trong quân đội... để nâng cao hiệu quả đấu tranh trực diện với các quan điểm sai trái trên internet và các phương tiện truyền thông xã hội. Thường xuyên quan tâm, động viên và phát huy hiệu quả các trang website, blog cá nhân, nhóm của lực lượng nòng cốt và ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục, đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa. Thực hiện tốt các biện pháp kỹ thuật để kịp thời ngăn chặn, lọc thông tin, không để các thế lực thù địch lợi dụng internet, các phương tiện truyền thông xã hội để xuyên tạc, phủ nhận giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như nền tảng tư tưởng của Đảng ta./.

ST.