Thứ Bảy, 3 tháng 8, 2024

Xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Tư tư­ởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã và đang chỉ đạo thực tiễn cách mạng nước ta, xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật sự trung thành của nhân dân. Để tiếp tục giải quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” theo Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang nỗ lực không ngừng học tập và làm theo tư tưởng của Người.

T­ư t­ưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng là sự vận dụng, phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lê-nin về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng ấy được thể hiện ở những luận điểm: Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam; Đảng phải được xây dựng theo những nguyên tắc của đảng kiểu mới của giai cấp vô sản; Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới.

Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là người lãnh đạo cách mạng, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân thực hiện đường lối đó một cách có hiệu quả nhất. Đảng muốn giữ được vai trò lãnh đạo, được dân tin, dân phục, dân yêu thì một vấn đề căn bản là, trong Đảng “từ Trung ương tới các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”.

Công việc xây dựng, chỉnh đốn tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên

Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Với cương vị lãnh đạo hệ thống chính trị, Đảng phải xứng danh là người lãnh đạo, phải là một Đảng trí tuệ, đạo đức, văn minh. Là thành viên của hệ thống chính trị, Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật, không được đứng trên, đứng ngoài pháp luật; không được đứng trên Nhà nước và nhân dân. Đảng phải xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân; chống mọi biểu hiện tiêu cực của bộ máy nhà nước, như bệnh quan liêu, lãng phí, tham nhũng; xây dựng và nâng cao bản lĩnh chính trị và uy tín của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Uy tín này chủ yếu nằm ở đạo đức cách mạng, bản lĩnh và trí tuệ; ở sức cảm hóa, thuyết phục nhân dân, với tinh thần hiểu dân, học dân, hỏi dân, tin dân, thật sự là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.

Theo Hồ Chí Minh, muốn như vậy, một trong những biện pháp cơ bản là Đảng phải thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng, và đây là công việc thường xuyên; Đảng cầm quyền, nhưng nhân dân là chủ. Vì vậy, chỉnh đốn Đảng một mặt, khẳng định sức mạnh chính trị to lớn của Đảng trong cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới đối với các lĩnh vực đời sống xã hội; mặt khác, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện thoái hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên lợi dụng cương vị của Đảng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, đi ngược lại lợi ích, nguyện vọng của nhân dân, dẫn tới lạm quyền, lộng quyền, đặc quyền, đặc lợi.

Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng ta vừa là đạo đức, vừa là văn minh, là người khởi xướng và lãnh đạo mọi sự đổi thay của đất nước qua các giai đoạn lịch sử của cách mạng. Ngay từ những ngày đầu lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Muốn làm cách mạng giành chính quyền, cần có nhiều yếu tố, song nhân tố quan trọng quyết định nhất là phải có Đảng chân chính của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động. Đặc biệt, trước mỗi bước ngoặt của cách mạng, Ng­ười nhấn mạnh thêm, để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, Đảng phải coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đó là việc trước tiên, việc chính, việc cần kíp, việc phải làm ngay.

Theo Người, mỗi cán bộ, đảng viên trong bất kỳ môi trường xã hội nào luôn chịu sự tác động của những cái hay, cái dở, cái tốt, cái xấu. Để loại bỏ cái xấu, cái dở cần phải rèn luyện thường xuyên, trong đó biện pháp quan trọng là đổi mới, xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Chỉnh đốn Đảng là để cán bộ, đảng viên khi gặp khó khăn thì củng cố quan điểm, lập tr­ường, tư tưởng, bình tĩnh sáng suốt, không bi quan, không chủ quan, tự mãn. Chỉnh đốn, xây dựng Đảng là để khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm, làm cho Đảng mạnh lên. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như­ thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.

Nội dung xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện rất phong phú, đa dạng. Người nêu rõ phư­ơng châm từng b­ước, có trọng tâm, có kế hoạch rõ ràng, chu đáo. Chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng phải làm toàn diện cả chính trị, tư tưởng và tổ chức; phải đư­ợc tiến hành ở tất cả các cấp. Trong đó đặc biệt coi trọng làm tốt ở chi bộ, vì chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì mọi việc sẽ tốt. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Mỗi chi bộ của Đảng phải là một hạt nhân lãnh đạo quần chúng ở cơ sở, đoàn kết chặt chẽ, liên hệ mật thiết với quần chúng, phát huy được trí tuệ và lực lượng vĩ đại của quần chúng”; Người còn chỉ rõ: “Chi bộ là gốc rễ của Đảng ở trong quần chúng. Chi bộ tốt thì mọi chính sách của Đảng đều đ­ược thi hành tốt, mọi công việc đều tiến bộ không ngừng. Trái lại, nếu chi bộ kém thì công việc không trôi chảy”.

Một nội dung quan trọng nữa trong xây dựng chỉnh đốn Đảng, theo Hồ Chí Minh, là xây dựng đội ngũ đảng viên. Hồ Chí Minh đề cập đến nhiều nội dung, nh­ưng toát lên những nội dung bản chất nhất: Một, đảng viên phải suốt đời phấn đấu hy sinh cho lý t­ưởng của Đảng. Quá trình phấn đấu đó là bền bỉ, liên tục. Hai, đảng viên phải luôn đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết, tr­ước hết, biết hy sinh lợi ích của cá nhân mình để bảo đảm lợi ích cho Đảng. Ba, đảng viên phải có đời t­ư trong sáng, là một tấm g­ương mẫu mực để mọi ng­ười noi theo.

Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến trách nhiệm và tư­ cách đảng viên. T­ư t­ưởng chủ đạo và xuyên suốt là, đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết và ra sức phấn đấu tu dưỡng rèn luyện, học tập để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân được tốt hơn.

Để tiếp tục làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay

Trung thành với t­ư t­ưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta từ khi ra đời đến nay luôn coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đặc biệt những năm gần đây, Đảng đã có nhiều nghị quyết, như­ Nghị quyết Trung ư­ơng 3 (khóa VII), Nghị quyết Trung ­ương 6 (lần 2) khóa VIII,  Nghị quyết Trung ­ương 9 (khóa IX, X), Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) đã đặt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là việc rất quan trọng, thực hiện toàn diện từ chính trị, t­ư t­ưởng và tổ chức tốt công tác cán bộ, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên. Đặc biệt, trong tình hình hiện nay, công tác tự phê bình và phê bình trong Đảng còn yếu; tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, đảng viên chư­a đ­ược ngăn chặn, đẩy lùi; nhiều đảng viên và tổ chức đảng tính chiến đấu chư­a cao, nhất là ở tổ chức cơ sở đảng; việc xây dựng quy chế và hoàn thiện quy chế theo h­ướng đổi mới phư­ơng thức lãnh đạo của Đảng còn hạn chế và có nhiều lúng túng..., càng đòi hỏi phải coi trọng, đẩy mạnh và quyết tâm chỉ đạo chặt chẽ hơn nữa cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Để thực hiện nội dung xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay, trực tiếp thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI, theo chúng tôi cần tập trung làm tốt một số nội dung chủ yếu sau:

Thứ nhất, giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân kiên định, giữ vững và tăng cư­ờng bản chất giai cấp công nhân của Đảng, hệ t­ư t­ưởng của Đảng.

Công tác giáo dục phải làm cho mục tiêu, lý t­ưởng của Đảng ăn sâu, bám chắc vào đời sống chính trị tinh thần của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Trên cơ sở nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, t­ư tưởng Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên phải trung thành, vận dụng sáng tạo lý luận của Đảng vào từng lĩnh vực của đời sống xã hội. Tăng c­ường đoàn kết thống nhất trong Đảng trên nền của sự giác ngộ chính trị cao và những nguyên tắc của công tác xây dựng Đảng, ra sức tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận và đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, t­ư tư­ởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù chống phá sự nghiệp cách mạng nư­ớc ta, phá hoại khối đoàn kết trong Đảng, trong toàn xã hội.

Thứ hai, ra sức học tập, rèn luyện đạo đức, lối sống cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Trước hết phải nâng cao kiến thức mọi mặt cho cán bộ, đảng viên, trong đó tập trung bồi d­ưỡng lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, t­ư tưởng Hồ Chí Minh, năng lực tư­ duy, hoạt động thực tiễn và chuyên môn nghiệp vụ, thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Khắc phục triệt để tình trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên giảm sút ý chí, phai nhạt lý t­ưởng, thoái hóa, biến chất về t­ư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống... Đảng ta xác định việc học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống là chế độ bắt buộc, là tiêu chuẩn để phân loại, đánh giá chất l­ượng tổ chức đảng và đảng viên.

Thứ ba, củng cố tổ chức, chấp hành nghiêm các nguyên tắc, chế độ sinh hoạt của Đảng.

Đây là cơ sở để củng cố tổ chức, bảo đảm đoàn kết thống nhất, kỷ luật trong Đảng. Vì vậy, phải quán triệt, chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng, chế độ tự phê bình và phê bình trong toàn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ­ương 6 (lần 2), khóa VIII; Nghị quyết Đại hội Đảng lần IX, X, XI và Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI, để tiếp tục khơi dậy và phát huy tính tích cực, dân chủ, trách nhiệm của đảng viên. Kiên quyết chống quan điểm, tư tư­ởng phủ nhận, xuyên tạc, bóp méo nguyên tắc, chế độ xây dựng Đảng, hòng làm cho Đảng suy yếu về tổ chức, dẫn đến biến chất Đảng./.

ST.

V.I. Lê-nin với vấn đề xây dựng đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh

Trong điều kiện đảng cộng sản đã nắm quyền lãnh đạo đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, V.I. Lê-nin đặc biệt lưu ý tới sự suy yếu có thể xảy ra đối với đảng do mắc phải những sai lầm, khiếm khuyết trong quá trình lãnh đạo, nhất là sai lầm về đường lối và các bệnh quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, cơ hội chủ nghĩa, kiêu ngạo cộng sản, tham nhũng, hối lộ, xa hoa, lãng phí.

V.I. Lê-nin, vị lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới, đã kế tục, bảo vệ và phát triển một cách xuất sắc di sản lý luận của C. Mác và Ph. Ăng-ghen về xây dựng một chính đảng độc lập của giai cấp vô sản, làm chỗ dựa vững chắc cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm lật đổ chế độ xã hội cũ đầy rẫy áp bức, bất công, tiến lên xây dựng một chế độ xã hội mới công bằng, dân chủ, văn minh, vì hạnh phúc và phẩm giá cao đẹp cho con người.

Để khắc phục những sai lầm có thể xảy ra đối với đảng cộng sản cầm quyền, V.I. Lê-nin nhấn mạnh tính tất yếu phải thường xuyên xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh, trước hết tập trung xây dựng lý luận cách mạng của đảng. V.I. Lê-nin khẳng định: “Không thể có một đảng xã hội chủ nghĩa vững mạnh, nếu không có lý luận cách mạng để đoàn kết tất cả những người xã hội chủ nghĩa lại, để họ rút ra từ trong lý luận đó tất cả những tín điều của họ và đem áp dụng lý luận đó vào những phương pháp đấu tranh và phương sách hành động của họ”. Cơ sở hình thành lý luận của một đảng mác-xít chân chính bắt nguồn từ sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản và từ đòi hỏi của thực tiễn cách mạng. Trong nhiều bài nói và bài viết, V.I. Lê-nin thường xuyên nêu rõ vấn đề phải “trí tuệ hóa” đội ngũ công - nông nhằm nâng cao vai trò và uy tín lãnh đạo của đảng đối với toàn xã hội. Người chỉ rõ: “Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra”.

Trong chỉ đạo thực tiễn xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp vô sản, V.I. Lê-nin đặc biệt coi trọng nguyên tắc tập trung dân chủ và coi đây là nguyên tắc bất di, bất dịch, một nguyên tắc tổ chức căn bản của đảng cộng sản. Người khẳng định: Không thể có một đảng cách mạng chân chính mà lại phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ. Nếu không có tập trung thì đảng trở thành một tổ chức biệt phái, hỗn độn, một “câu lạc bộ tranh luận”; nếu xa rời dân chủ, đảng sẽ bị biến thành một tổ chức chuyên quyền, độc đoán, quan liêu. Người đòi hỏi mỗi người đảng viên cộng sản phải tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ, kiên quyết đấu tranh chống các phần tử cơ hội, xét lại trong mọi điều kiện, hoàn cảnh để bảo vệ đảng cộng sản, bảo vệ chính quyền nhà nước của nhân dân lao động.

Khi đảng cộng sản đã nắm quyền lãnh đạo đất nước, V.I. Lê-nin chỉ ra và cảnh báo về những “căn bệnh” đã và đang trở thành nguy cơ hiện hữu đe dọa sự tồn vong của chế độ xã hội mới và để kẻ thù lợi dụng hòng xóa bỏ mọi thành quả của cách mạng. Đó là những căn bệnh cơ hội chủ nghĩa, kiêu ngạo cộng sản, quan liêu, tham nhũng, hối lộ, xa hoa, lãng phí, “mù chữ”... Người vạch rõ: “... nếu còn có thể hối lộ được, thì cũng không thể nói đến chính trị được. Trong trường hợp này, thậm chí cũng không thể nói đến làm chính trị được, vì mọi biện pháp đều sẽ lơ lửng trên không trung, sẽ hoàn toàn không mang lại kết quả gì cả”. Vì vậy, đảng cần kiên quyết đấu tranh “không khoan nhượng” để “tẩy sạch” các phần tử tha hóa, biến chất trong tổ chức của mình, nhằm làm trong sạch đảng. Người còn cảnh báo: “Toàn bộ công việc của tất cả các cơ quan kinh tế của chúng ta bị khốn khổ trước hết về tệ quan liêu... Nếu có cái gì sẽ làm tiêu vong chúng ta thì chính là cái đó”.

Đảng cộng sản cầm quyền lãnh đạo toàn xã hội không chỉ bằng cương lĩnh chính trị, đường lối chiến lược, sách lược, mà còn phải thông qua vai trò tổ chức hoạt động của bộ máy chính quyền nhà nước và các đoàn thể quần chúng. Vì thế, một vấn đề then chốt về xây dựng đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh được V.I. Lê-nin đặc biệt quan tâm là phải tăng cường xây dựng, củng cố mối liên hệ mật thiết giữa đảng và nhân dân. Người chỉ rõ: “Chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân”. Cho nên, đảng cộng sản cầm quyền phải trở thành người lãnh đạo, người cổ vũ, tổ chức sự sáng tạo đó. Mỗi đảng viên không những phải luôn thực hiện tốt công tác vận động quần chúng nhân dân để tạo nên sức mạnh vô địch cho đảng, mà còn phải thường xuyên học tập, rèn luyện để nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, đạo đức cách mạng, nhằm hướng đích xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh. Từ kinh nghiệm thực tiễn lãnh đạo chính quyền Xô-viết, V.I. Lê-nin đưa ra những chỉ huấn rất sâu sắc: Mỗi người cộng sản nếu không tự bôi nhọ đạo đức, thanh danh của mình, thì không kẻ nào có thể hạ thấp được vai trò và uy tín của họ; tuyệt nhiên không một thế lực nào có thể phá vỡ được quan hệ gắn bó máu thịt giữa đảng và quần chúng nhân dân.

Đối với cách mạng Việt Nam, lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh. Người nói: “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”. Chủ nghĩa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh truyền bá vào nước ta chính là hệ tư tưởng Mác - Lê-nin, đó là ngọn đèn pha soi sáng con đường cách mạng Việt Nam vượt qua bao thác ghềnh để giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong xây dựng đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm đến công tác giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho đội ngũ đảng viên, cán bộ, để họ có đủ cả đức và tài, “hồng” và “chuyên”, trong đó lấy đạo đức làm gốc. Người chỉ rõ, nếu không có đạo đức cách mạng thì dù tài giỏi mấy cũng không thể làm cho “dân tin, dân phục, dân yêu”. Người căn dặn: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Từ việc đề cao vai trò của đạo đức cách mạng đối với toàn Đảng và mỗi đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn cảnh báo những căn bệnh tha hóa đạo đức trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm suy giảm uy tín và sức chiến đấu của Đảng.

 Cũng như V.I. Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở Đảng ta về mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và quần chúng nhân dân. Người khẳng định sự thống nhất tối cao về lợi ích giữa Đảng và nhân dân: “Đảng ta là Đảng chỉ có một điều là phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Ngoài ra, không còn có lợi ích nào khác”. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là đày tớ thật trung thành của nhân dân. Đó là một nguyên tắc lớn, gắn liền với bản chất cách mạng của Đảng. Người viết trong Di chúc: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền... Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Khi đã trở thành đảng cầm quyền, nếu Đảng thiếu sự gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng sẽ trở thành một tổ chức quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, mất sức sống và sức sáng tạo, mất vai trò lãnh đạo đối với toàn xã hội. Đảng giữ vai trò là người lãnh đạo, nhưng quần chúng nhân dân mới là người làm nên lịch sử, bởi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Khi Đảng biết dựa vào nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thì đó chính là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của Đảng, là cội nguồn tạo nên sức mạnh của Đảng. Đảng ta vĩ đại là bởi Đảng biết tìm thấy nguồn sức mạnh vô địch từ trong quần chúng nhân dân, vì nhân dân mà nguyện hy sinh, phấn đấu, và trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, Đảng cũng luôn tâm nguyện một điều sâu sắc: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.

Có thể nói, từ V.I. Lê-nin tới Hồ Chí Minh, từ Cách mạng Tháng Mười Nga tới cách mạng Việt Nam có một mối liên hệ hữu cơ, một sự thống nhất biện chứng, chặt chẽ. Liên quan đến vấn đề xây dựng đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh, dù diễn đạt khác nhau, trong những bối cảnh khác nhau, song cả hai vị lãnh tụ V.I. Lê-nin và Chủ tịch Hồ Chí Minh đều nhấn mạnh phải luôn đề phòng và kiên quyết đấu tranh ngăn chặn mọi biểu hiện tiêu cực, như suy thoái về tư tưởng chính trị, đặc quyền, đặc lợi, xa rời nhân dân, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô nguyên tắc, cơ hội chủ nghĩa và những tiêu cực khác; không để chúng xâm nhập vào cơ thể Đảng, vào bộ máy nhà nước. Đó là những nguy cơ thách thức nghiêm trọng uy tín của Đảng trong xã hội, ảnh hưởng đến việc cầm quyền của Đảng, sự tồn vong của chế độ và con đường phát triển của đất nước.

Thực tiễn hơn 84 năm qua, Đảng ta luôn luôn trung thành và vận dụng đúng đắn, sáng tạo những nguyên lý cơ bản của V.I. Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đảng cầm quyền trong sạch, vững mạnh. Đảng ta đã trưởng thành qua bao thử thách, có những bổ sung, phát triển lý luận về xây dựng đảng cầm quyền phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam trong điều kiện mới. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh chống mọi thủ đoạn, luận điệu xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội của các thế lực thù địch; chống mọi biểu hiện xa rời những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền. Với bản lĩnh của một đảng cách mạng chân chính, dày dạn kinh nghiệm, luôn nêu cao dũng khí tự phê bình và phê bình, gắn bó máu thịt với nhân dân, Đảng ta đã lãnh đạo, tổ chức và phát huy sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đưa đất nước giành được nhiều thắng lợi vĩ đại, vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn./.

ST.

XÂY DỰNG VĂN HÓA ĐỌC TRONG ĐOÀN VIÊN THANH NIÊN

 

Với thời đại công nghệ thông tin ngày càng phát triển, mọi người có thể thu thập thông tin nhanh qua các trang mạng chỉ bằng những cú lướt web. Bằng các phương tiện công nghệ, người đọc có thể tiếp cận thông tin nhanh, có thể nhanh đến mức lướt đọc sơ sài và chia sẽ để lưu lại thông tin rồi lướt qua các nội dung khác hấp dẫn hơn mà chưa kịp lắng đọng thông tin cũ. 

Vì vậy, với thời đại công nghệ thông tin xâm lấn những văn hóa truyền thống thì việc xây dựng văn hóa đọc cho đoàn viên thanh niên, cán bộ công nhân lao động ngày càng được nâng cao. Người lao động làm việc hăng say, năng suất gia tăng vì đời sống tinh thần phấn khởi, lạc quan sau những giờ trải nghiệm thú vị với những nội dung và nhân vật trong sách báo.

Nhận thức về tầm quan trọng và sự hữu ích của văn hóa đọc Đoàn viên thanh niên cần tiếp tục đẩy mạnh và nhân rộng văn hóa đọc sẽ là một trong những mục tiêu chính của công tác Đoàn trong những năm tới./.

DÂN HỌ BIẾT CẢ ĐẤY

 

Đó là câu nói của một anh lái xe taxi công nghệ chia sẻ trên đường chở tôi về nhà, sau khi chứng kiến những hình ảnh rất xúc động về dòng người xếp hàng dài đến tận nửa đêm, kiên nhẫn chờ đợi được vào kính viếng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Nhà Tang lễ quốc gia - số 5 Trần Thánh Tông, thành phố Hà Nội, tại Hội trường Thống Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh và tại quê nhà của Tổng Bí thư - thôn Lại Đà, xã Đông Hội, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.

Đặc biệt là, khi Linh xa đi từ Nhà Tang lễ về Nghĩa trang Mai Dịch, dù nắng nóng, nhưng rất đông người dân, có cả những cụ già và em nhỏ, những người tàn tật, nhiều người đi từ các tỉnh xa… đã đến sớm, hòa vào dòng người đứng lặng yên hai bên đường; nhiều người mang di ảnh, hoa để tỏ lòng thành kính, tri ân công lao, đóng góp to lớn, suốt đời phấn đấu, hy sinh vì nước, vì dân của Tổng Bí thư, ngưỡng mộ trí tuệ, tấm gương đạo đức, phong cách giản dị, lối sống thanh bạch của Tổng Bí thư và gia đình. Những giọt nước mắt, những cái chắp tay và giây phút mặc niệm hết sức thành kính của hàng triệu trái tim tiễn đưa Tổng Bí thư về với đất mẹ.

Có lẽ khó có “mệnh lệnh hành chính” nào có thể “chỉ đạo” được sự thành kính của người dân, ngoài “mệnh lệnh của trái tim”, thôi thúc họ đến bày tỏ tình cảm đối với những Người mà họ cảm nhận được, linh cảm được, thấu hiểu được về tâm nguyện và những cống hiến đặc biệt lớn lao cho Tổ quốc, Dân tộc và Nhân dân - trong đó có Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng của chúng ta. Tấm gương về trí tuệ, đạo đức cách mạng sáng ngời, mẫu mực của những Người tận hiến vì nước, vì dân có sức lay động, lan tỏa mạnh mẽ, đã tạo ra “mệnh lệnh” tự nhiên, đánh thức lương tri và thôi thúc người dân có thể đợi nhiều giờ trong đêm khuya, giữa nắng nóng hay mưa gió, chỉ để tỏ bày tấm lòng của mình đối với một Người đã “mãi mãi thuộc về Tổ quốc và nhân dân”.

Anh lái xe còn nói thêm nhiều câu nữa, chẳng hạn như: “Dân họ tinh lắm”, “Lòng dân họ không bao giờ nhầm đâu anh nhỉ?”, “Họ biết cả đấy anh ơi”... Những câu nói của anh chàng lái xe, dù tuổi đời còn rất trẻ, cứ văng vẳng bên tai tôi, khiến tôi phải lặng đi, rơi vào dòng suy tư của chính mình. Đúng là, “dân họ tinh lắm”, “họ biết cả đấy”, họ biết những người thương dân, gần dân, suốt đời hy sinh, phấn đấu vì hạnh phúc của nhân dân và họ cũng biết cả đấy, dù có giấu giếm, che đậy bằng cách nào, những người dù nói thì rất hay, nhưng trên thực tế, chỉ chăm chăm lo thu vén lợi ích cho bản thân, gia đình hòng “vinh thân phì gia”.

Đúng như sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Nhân dân ta có hàng chục triệu người, có hàng mấy chục triệu tai mắt, tay, chân. Nếu biết dựa vào nhân dân thì việc gì cũng xong”. Người còn nhắc nhở đội ngũ cán bộ, đảng viên rất thấm thía rằng: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức”.  

Sự ra đi của Tổng Bí thư dường như đánh thức lương tâm trong mỗi người, gợi cho chúng ta những phút giây tự suy ngẫm về đạo đức, bổn phận của mình đối với những người xung quanh, đối với tập thể, với Tổ quốc và dân tộc, để học tập và noi theo tấm gương về tài năng, trí tuệ, đạo đức và phong cách mẫu mực của Ông. Tổng Bí thư đã yên nghỉ mãi mãi, nhưng tên tuổi của Ông sẽ lưu danh vào sử sách của dân tộc, là niềm tự hào của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta; di sản và tấm gương đạo đức cách mạng mẫu mực của Ông sẽ mãi tỏa sáng, như Đại thi hào Nguyễn Du từng viết: “Thác là thể phách, còn là tinh anh”.

Đặc biệt là, đối với những cán bộ, đảng viên đang nắm giữ những chức trách, cương vị trong hệ thống chính trị, tin chắc rằng, những hình ảnh về dòng người tiễn biệt Tổng Bí thư đầy xúc động sẽ góp phần đánh thức lương tri và trách nhiệm, để “tự soi, tự răn, tự sửa”, khát khao hoàn thiện bản thân hơn, để không phải hổ thẹn với Người đã khuất và với chính lương tâm của mình, như lời Tổng Bí thư vẫn thường căn dặn, đối với con người, thì “Danh dự mới là điều thiêng liêng, cao quý nhất!”./.

St


Nhận diện, đấu tranh với chiêu trò “nhân danh nhân dân” để chống phá Đảng và Nhà nước ta của các thế lực thù địch

 Nhân dân đóng vai trò quyết định đối với sự thành công của quá trình giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tuy nhiên, trên thực tế, một số đối tượng đã dùng chiêu trò “nhân danh nhân dân” để chống phá Đảng, Nhà nước, chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa mà toàn Đảng, toàn dân ta đã và đang dày công xây dựng. Vì thế, việc nhận diện và có giải pháp hiệu quả để đấu tranh phòng, chống những âm mưu, thủ đoạn thâm độc này nhằm bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một yêu cầu cấp thiết hiện nay.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về vai trò, vị trí chính trị của nhân dân

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nhân dân là cộng đồng xã hội nhất định được gắn kết bởi lợi ích chung, là quần chúng đông đảo những người bị trị so với thiểu số giai cấp thống trị. Theo V.I. Lê-nin, “quần chúng là đa số, và hơn thế nữa, chẳng những chỉ là đa số công nhân, mà là đa số tất cả những người bị bóc lột”(1). Nhấn mạnh tính giai cấp khi đề cập đến khái niệm “nhân dân”, V.I. Lê-nin khẳng định: “Khi dùng danh từ nhân dân, Mác không thông qua danh từ ấy xóa mờ tất cả sự khác biệt về giai cấp…”(2). Xét theo quan điểm đó, động lực cách mạng chính là nhân dân, với nghĩa là cộng đồng người thuộc về giai cấp bị áp bức, bóc lột và cần phải được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột. Nhân dân là chủ thể sáng tạo lịch sử, sáng tạo ra mọi của cải vật chất và những giá trị tinh thần, đồng thời là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.

Kế thừa và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về nhân dân, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nội hàm “nhân dân” được Người nhấn mạnh tính dân tộc khi định nghĩa: “Nhân dân là bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những phần tử yêu nước khác”(3). Đó là tập hợp gắn kết đa số người khác nhau về dân tộc, tôn giáo, giới tính, giai tầng, địa vị… trong xã hội, song thống nhất thành một cộng đồng chung là toàn thể dân tộc Việt Nam. Người khẳng định địa vị chính trị của nhân dân: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”(4) và nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của nhân dân trong thực hiện sứ mệnh cách mạng: “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”(5). Để phát huy sức mạnh vĩ đại của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định vai trò to lớn của Đảng với tư cách là người tổ chức lãnh đạo nhân dân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình: “Lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là rất to lớn, là vô cùng vô tận. Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc chắn thắng lợi”(6), và “Cách mạng thắng lợi rồi, quần chúng vẫn cần có Đảng lãnh đạo”(7).

Trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình xây dựng, trưởng thành và lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định rõ vai trò và địa vị chính trị của nhân dân, luôn quán triệt quan điểm dân là gốc của nước, là cơ sở của mọi thắng lợi, là lực lượng tạo ra mọi của cải vật chất, tinh thần; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Khẳng định và đề cao “vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(8), trải qua các thời kỳ cách mạng, đặc biệt trong gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát huy tối đa tính tích cực chính trị - xã hội, quyền và trách nhiệm của nhân dân trong tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xác định rõ địa vị pháp lý của nhân dân: “Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam”(9); “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”(10), và hiến định: “Công dân có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc. Phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất”(11).

Chủ trương của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước đã thể hiện đầy đủ các đặc điểm của phạm trù “nhân dân”: (1) Nhân dân Việt Nam là người Việt Nam, xét về cả phương diện pháp lý và văn hóa xã hội là một chủ thể thống nhất của 54 tộc người, bao gồm người Việt Nam đang sống trên đất nước Việt Nam và ở nước ngoài; (2) Nhân dân Việt Nam đã lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam làm người lãnh đạo trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Nhân dân Việt Nam là những người Việt Nam yêu nước, cùng chung ý chí xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước nhằm hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Nhận diện các chiêu trò “nhân danh nhân dân” để chống phá Đảng và Nhà nước

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã núp dưới chiêu bài “nhân danh nhân dân” để thực hiện các hành vi chống phá Đảng, Nhà nước, xâm phạm những quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, hòng chia rẽ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với dân. Hành vi “nhân danh nhân dân” của họ có một số biểu hiện:

Một là, lợi dụng hoặc núp dưới danh nghĩa “nhân dân” để thực hiện nhiều âm mưu, thủ đoạn tấn công, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng thông qua việc tuyên truyền xuyên tạc Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; xuyên tạc lịch sử dân tộc, lịch sử Đảng, lịch sử cách mạng, lịch sử vùng đất; bôi nhọ cá nhân lãnh tụ, lãnh đạo cao cấp của Đảng. Lợi dụng những sai lầm, khuyết điểm của một bộ phận cán bộ, đảng viên; đặc biệt là lợi dụng cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng, những vụ, việc cán bộ, đảng viên bị kỷ luật do liên quan đến các vụ án tham nhũng, tiêu cực,… Thời gian qua, các đối tượng chống phá đã quy kết rằng tham nhũng là tình trạng phổ biến, là hệ quả của chế độ nhất nguyên chính trị, một đảng duy nhất cầm quyền (?!). Bên cạnh đó, ra sức tán dương sự hào nhoáng của chủ nghĩa tư bản; đồng thời hạ thấp, xuyên tạc những thành tựu mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đạt được trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, từ đó “nhân danh nhân dân” đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, thực hiện xã hội dân sự và cho rằng chỉ có như vậy mới sửa chữa được những “khuyết tật” của chủ nghĩa xã hội (?!)

Hai là, lợi dụng sự phát triển của internet và các phương tiện truyền thông xã hội, các thế lực thù địch “nhân danh nhân dân” lập ra nhiều trang web, tài khoản mạng xã hội,… rồi thông qua đó, lấy danh nghĩa là các “chuyên gia phân tích chính trị”, các nhóm theo đuổi nhân quyền, dân chủ,… tung ra nhiều giọng điệu xuyên tạc, nhiều thông tin giả, khai thác triệt để các thủ thuật bóp méo sự thật,… nhằm đánh lạc hướng người dân, nhất là giới trẻ, để công kích Đảng, Nhà nước và chế độ ta. Từ một vài sự việc, “điểm nóng” nhỏ lẻ, họ tìm cách tô vẽ, thổi phồng, dùng các thủ đoạn kích động tâm lý để lôi kéo sự đồng cảm của một số người thiếu thông tin, thiếu hiểu biết, tạo thành các hội, nhóm tự xưng là “đại diện nhân dân”, lấy danh nghĩa “người dân” để kích động biểu tình, lên tiếng đấu tranh đòi dân chủ, nhân quyền, qua đó chống phá các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Song song với đó, họ còn lập ra các tổ chức, diễn đàn núp dưới danh nghĩa “nhân dân” để nêu ra các “yêu sách”, “kiến nghị” đối với Đảng và Nhà nước trong giải quyết các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh, môi trường,… thực chất là để tự nâng mình lên, đồng thời hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Hành vi “nhân danh nhân dân” của họ không chỉ gây nhiễu loạn thông tin mà còn tạo ra sự sự hoang mang, hoài nghi, ảnh hưởng đến mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân.

Ba là, tìm mọi cách để o bế các đối tượng bị bắt, bị pháp luật xử tội do chống phá Đảng, Nhà nước. Những kẻ “nhân danh nhân dân” thường tung ra luận điệu cho rằng những đối tượng này là những “nhà hoạt động dân chủ”, “nhà hoạt động xã hội” "có trách nhiệm" với Tổ quốc, là những "người dũng cảm", dám nói lên tiếng nói của nhân dân "bị xử oan" (?!). Từ đó, họ tìm mọi cách móc nối với các cá nhân, tổ chức lưu vong chống phá Đảng và Nhà nước ở trong và ngoài nước, “nhân danh nhân dân” đòi “công lý”, đòi trả tự do cho những đối tượng phạm pháp. Mặt khác, khi một số đối tượng có dấu hiệu phạm pháp tìm đường lẩn trốn ra nước ngoài bị lực lượng chức năng của ta ngăn chặn, những kẻ “nhân danh nhân dân” đã sử dụng nhiều phương tiện truyền thông, chủ yếu là các phương tiện truyền thông xã hội, để kêu gọi sự bênh vực, can thiệp, bảo lãnh từ các tổ chức nhân quyền quốc tế.

Bốn là, nhiều đối tượng nhận viện trợ của các nhóm phản động, các thế lực thù địch để thành lập các tổ chức xúi giục biểu tình, kiện tụng, đòi giải quyết những vụ, việc “nóng”, dù không liên quan đến quyền lợi trực tiếp của họ. “Nhân danh nhân dân” tạo lập nhiều tổ chức bất hợp pháp, lôi kéo nhiều người (trong đó có một số trí thức, văn nghệ sĩ…) có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị không vững vàng, gây dựng họ thành lực lượng chống đối cực đoan với Đảng và Nhà nước ta. Từ những vấn đề chưa có kết luận chính thức của Đảng và Nhà nước (như những vấn đề nhạy cảm trong quan hệ quốc tế, tình hình Biển Đông,…), các đối tượng tạo dựng tin đồn, dư luận xã hội cho rằng chính quyền giải quyết mập mờ, có dấu hiệu làm tổn hại lợi ích quốc gia - dân tộc (?!). Lợi dụng danh nghĩa “nhân dân”, họ lôi kéo, kích động những phần tử cực đoan, người thiếu thông tin chính thống, thiếu hiểu biết thực hiện những cuộc biểu tình, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, cải tổ Nhà nước.

Năm là, lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc, các đối tượng “nhân danh nhân dân” tìm mọi cách tấn công, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc bằng cách lợi dụng tình hình khó khăn ở một số khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa để kích động người dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, đòi “ly khai”. Hoặc lợi dụng niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo để mua chuộc một bộ phận chức sắc, tín đồ tôn giáo, tập hợp lực lượng, sử dụng chiêu bài đòi “tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền cho người dân tộc thiểu số”; nhân danh “đồng bào dân tộc thiểu số”, “đồng bào tôn giáo” đòi tự trị, tiến tới thành lập tôn giáo riêng và nhà nước riêng (?!).

Một số giải pháp đấu tranh chống chiêu trò "nhân danh nhân dân" để chống phá Đảng và Nhà nước

Những chiêu trò trên cho thấy, nhiều đối tượng đã lấy “nhân dân” làm tấm bình phong, lợi dụng “nhân dân” để tiến hành các hành vi xuyên tạc, bóp méo sự thật nhằm thực hiện các âm mưu, thủ đoạn thâm độc phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, chống phá Đảng và Nhà nước ta. Chúng cố ý không tôn trọng thực tế khách quan là chính nhân dân, dân tộc Việt Nam đã lựa chọn con đường đi đúng đắn cho mình; Đảng và Nhà nước Việt Nam là người con do nhân dân Việt Nam sinh ra, nhờ nhân dân mà trưởng thành, vì nhân dân mà phục vụ. Nhân dân Việt Nam không chấp nhận bất cứ kẻ nào nhân danh mình, thay mình thực hiện sứ mệnh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Không thể tồn tại một thế lực nào tự cho mình cái quyền “đại diện nhân dân” để đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, vai trò quản lý của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta có trách nhiệm bảo vệ danh dự, uy tín và lợi ích chính đáng của nhân dân và kiên quyết xử lý nghiêm minh tất cả những kẻ có mưu đồ “nhân danh nhân dân” để chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và đang dày công gây dựng.

Trong bối cảnh hiện nay, để phòng, chống, đập tan âm mưu, thủ đoạn “nhân danh nhân dân” chống phá Đảng và Nhà nước của các thế lực thù địch, phản động, cần tập trung thực hiện đồng bộ một số giải pháp chủ yếu:

Một là, quán triệt quan điểm “dân là gốc”; làm sâu sắc thêm mối quan hệ giữa “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” trong tiến trình đổi mới và phát triển đất nước. Kiên trì thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(12) trên cơ sở đẩy mạnh công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Kiên quyết đấu tranh loại trừ mọi biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, tránh "tạo cớ" để các thế lực thù địch, phản động khai thác, lợi dụng, xuyên tạc bản chất của chế độ, làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Hai là, tập trung phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Đồng thời, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập của mọi người dân; bảo đảm hài hòa và hợp lý hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội ngay trong từng bước đi, từng chính sách phát triển. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường; tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách để khơi dậy và phát huy tối đa mọi tiềm năng, nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Hiệu quả kinh tế - xã hội chính là thước đo xác thực và thuyết phục nhất lòng tin của người dân đối với chủ thể cầm quyền.

Ba là, chú trọng thực hành văn hóa chính trị, nhất là văn hóa trong Đảng, văn hóa công sở và đạo đức công vụ, văn hóa dân chủ, văn hóa công dân. Đẩy mạnh nghiên cứu, xác định và xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào về truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ; làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực, mọi quan hệ của đời sống xã hội, thực sự trở thành động lực, là nguồn lực nội sinh và nền tảng cho sự phát triển đất nước nhanh, bền vững.

Bốn là, việc giải quyết và xử lý hiện tượng “nhân danh nhân dân” để chống phá Đảng và Nhà nước cần dựa trên các nguyên tắc về nhân dân của Đảng, trên cơ sở kế thừa và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân. Đó là cơ sở để nhận diện đúng và vạch trần bộ mặt thật của những đối tượng “nhân danh nhân dân”, núp dưới “chiêu bài nhân dân” để thực hiện những hành vi, mưu đồ đen tối chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đối với những cá nhân, tổ chức "nhân danh nhân dân" để đi ngược lại ý chí chung của toàn Đảng, toàn dân, đi ngược lại lợi ích quốc gia - dân tộc thì Nhà nước cần kiên quyết xử lý nghiêm trên cơ sở thượng tôn pháp luật, nhằm phòng, chống, ngăn chặn, loại trừ có hiệu quả tất cả những âm mưu chống phá thâm độc./.

 

Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới tự phê bình và phê bình. Người coi tự phê bình và phê bình là “vũ khí rất cần thiết và sắc bén, nó giúp chúng ta sửa chữa sai lầm và phát triển ưu điểm", là “thang thuốc” tốt nhất để chữa trị các “chứng bệnh” do chủ nghĩa cá nhân gây ra. Người thường dạy: “Dao có mài, mới sắc. Vàng có thui, mới trong. Nước có lọc, mới sạch. Người có tự phê bình, mới tiến bộ. Đảng cũng thế”.

Tư tưởng, tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình

Vấn đề tự phê bình và phê bình là một cống hiến quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bảo vệ và phát triển lý luận Mác - Lê-nin; là nét đặc sắc trong tư tưởng của Người về xây dựng Đảng cách mạng; là vũ khí lý luận sắc bén đấu tranh chống lại chủ nghĩa cơ hội, xét lại và các tiêu cực trong xã hội; với văn phong giản dị, trong sáng chúng ta thấy toát lên bản chất nhân văn mác-xít, “chủ nghĩa nhân đạo hiện thực”.

Trong “Hồ Chí Minh toàn tập”, Người đã có 67 lần dùng thuật ngữ “phê bình và tự phê bình” và có tới 90 lần dùng thuật ngữ “tự phê bình và phê bình”. Qua các bài viết này, Người đã chỉ rõ về sự cần thiết, mục đích, đối tượng, phương pháp và những phương châm có tính nguyên tắc trong thực hành tự phê bình và phê bình. Theo Hồ Chí Minh, sự phát triển của Đảng bao hàm trong đó sự tự đổi mới, tự chỉnh đốn khắc phục những khuyết điểm, nhược điểm để ngày càng tiến bộ về mọi mặt, đáp ứng với yêu cầu phát triển của cách mạng “một đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một đảng hỏng”, vì thế tự phê bình và phê bình được Người xác định là “quy luật phát triển của Đảng”. Đối với sự trưởng thành, tiến bộ của mỗi cán bộ, đảng viên cũng vậy: “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong Đảng sẽ không có bệnh mà Đảng sẽ mạnh khỏe vô cùng”. Đó chính là ý nghĩa của tự phê bình và phê bình - một quy luật phát triển, một nguyên tắc của công tác xây dựng Đảng.

Người vạch rõ: “Mục đích phê bình. Cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ”. Người cũng khẳng định: Tự phê bình và phê bình nhằm đạt mục đích giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức đảng nhận rõ ưu điểm để phát huy, nhận rõ khuyết điểm để khắc phục. Nói cách khác, tự phê bình và phê bình là giúp cho cán bộ, đảng viên, tổ chức của Đảng ngày càng tiến bộ, tạo nên sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng, tạo nên sức mạnh to lớn của Đảng, củng cố niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng.

Hồ Chí Minh chỉ rõ đối tượng của tự phê bình và phê bình là: Phê bình những suy nghĩ và việc làm sai trái chứ không phải phê người. Một quan điểm rất sâu sắc về tự phê bình và phê bình, mà không phải cho đến nay ai cũng hiểu và làm đúng. Như vậy, đối tượng trực tiếp của tự phê bình và phê bình trong công tác xây dựng Đảng là những nhận thức, hành vi và hoạt động không đúng trong xây dựng Đảng của từng đảng viên, của các tổ chức đảng. Theo Hồ Chí Minh, phê bình là gột rửa “cái bụi bẩn bên ngoài” của con người, không cho nó làm “ô nhiễm” con người, như là dùng khăn mặt và xà phòng để rửa cái nhơ bẩn bám vào con người chứ không phải như cắt bỏ một phần thân thể con người. Đây thực sự là một tư tưởng rất nhân văn, nhân đạo, vừa thúc đẩy sự phát triển hoàn thiện con người, vừa tránh cho con người rơi vào cái “tôi” vị kỷ, trả đũa, tranh giành, ghen ghét, đố kỵ và không bị nhỏ nhen.

Quan điểm xuyên suốt của Hồ Chí Minh trong tự phê bình và phê bình là trên tinh thần vì nước, vì dân, “dĩ công vi thượng”, xuất phát từ tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Bởi nếu không xuất phát từ tình đồng chí thương yêu lẫn nhau thì dù có tự phê bình và phê bình đến mấy, hiệu quả cũng chẳng được là bao, thậm chí có khi còn làm tổn hại đến sự đoàn kết của Đảng. Để phát huy cao nhất “vũ khí” tự phê bình và phê bình thì không chỉ nắm vững mục đích, phương hướng, trọng tâm mà còn phải có một thái độ đúng đắn, phương pháp khoa học khi sử dụng nó mới đạt được hiệu quả.

Thứ nhất: Phải “khéo” kết hợp giữa tự phê bình và phê bình. Tư tưởng “khéo sử dụng vũ khí tự phê bình và phê bình” trong Đảng của Hồ Chí Minh là nghệ thuật ứng xử giữa con người với con người trong quan hệ xã hội; là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tình và lý trong truyền thống văn hóa Việt Nam. Đây là quan điểm vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật cách mạng trong cả thái độ và phương pháp tiến hành.

Thứ hai: Tự phê bình và phê bình phải tiến hành nghiêm túc, thường xuyên, phải nói đầy đủ cả hai mặt ưu điểm và khuyết điểm. Người căn dặn: “Phê bình mình cũng như phê bình người phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Đồng thời chớ dùng lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc… Những người bị phê bình thì phải vui lòng nhận xét để sửa đổi, không nên vì bị phê bình mà nản chí, hoặc oán ghét”.

Thứ ba: Tự phê bình và phê bình chỉ thực sự có kết quả khi có sự lãnh đạo sáng suốt của cấp trên, đồng thời phát động được quần chúng và cấp dưới hưởng ứng một cách chân thành và xây dựng.

Thái độ, phương pháp đối với tự phê bình và phê bình trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sự thống nhất biện chứng giữa “lý lẽ phân minh, nghĩa tình đầy đủ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời về tự phê bình và phê bình. Người không bao giờ tự cho mình đứng ngoài những sai lầm khuyết điểm của Đảng và Chính phủ mà thường nhận lỗi về mình. Trên cương vị là Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã cùng Đảng lãnh đạo nhân dân ta làm được không ít việc, đưa đất nước vượt qua bao hiểm nguy, Người vẫn thật thà viết bài: “Tự phê bình”, đăng trên Báo Cứu quốc (28-1-1946), nêu nhiều việc lớn chưa làm được như: Các nước chưa công nhận nền độc lập của Việt Nam, kháng chiến ở Nam bộ chưa thắng lợi, tệ tham nhũng chưa được quét sạch… Từ đó, Người kết luận: những sự thành công là nhờ đồng bào cố gắng. Những khuyết điểm trên là lỗi tại tôi. Người đời không phải thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết điểm. Chúng ta không sợ có khuyết điểm, nhưng chỉ sợ không biết kiên quyết sửa chữa nó đi. Từ nay, tôi mong đồng bào ra sức giúp tôi sửa chữa những khuyết điểm đó.

Năm 1956, khi phát hiện ra sai lầm trong Cải cách ruộng đất, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiêm túc, thẳng thắn, công khai tự phê bình và phê bình nhận lỗi với nhân dân là “đã quan liêu, không sát thực tế, chỉ xem báo cáo, tin vào người báo cáo” và: Vì ta thiếu dân chủ nên nghe ít, thấy ít, bây giờ ta phải dân chủ. Tôi nhận trách nhiệm trong lúc sóng gió này. Tất cả Trung ương phải nghe, thấy, nghĩ, làm như thế. Bài học đau xót này sẽ thúc đẩy chúng ta. Cuối cùng, Người kết luận: Khuyết điểm của tôi đã ảnh hưởng đến sai lầm của cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức. Đó thực sự là tấm gương sáng ngời của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự phê bình, phê bình.

Những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả tự phê bình và phê bình trong Đảng hiện nay

Thực tiễn hơn 80 năm xây dựng và lãnh đạo của Đảng đã khẳng định vai trò to lớn của việc thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình trong giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Tuy nhiên, trong thời gian qua, việc tự phê bình và phê bình trong Đảng có lúc, có nơi chưa được xem trọng, tính tự giác tự phê bình và phê bình giảm sút rõ rệt, một bộ phận tổ chức đảng và đảng viên thực hiện tự phê bình và phê bình yếu, kém, chỉ mang tính hình thức, tính chiến đấu không cao, dĩ hòa vi quý... Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ: Năng lực và sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp; công tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nề nếp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu. Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI, tiếp tục chỉ ra: “Các nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi vừa bị buông lỏng trong thực hiện, vừa chưa được quy định cụ thể để làm cơ sở cho công tác kiểm tra, giám sát”. Do vậy, việc học tập tư tưởng, tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình là thực sự cấp thiết để xây dựng, chỉnh đốn Đảng, củng cố chính quyền, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, vững mạnh. Trong thời gian tới, để nâng cao chất lượng, hiệu quả tự phê bình và phê bình trong Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần phải thực thi nghiêm túc những biện pháp cụ thể cả về phía tổ chức đảng và từng cán bộ, đảng viên.

Một là, không ngừng bồi dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống. Nâng cao nhận thức cho cấp ủy và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Đảng về mục đích, ý nghĩa, nội dung, phương pháp, chất lượng trong tự phê bình và phê bình theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó mới phát huy được tính tự giác của mọi cán bộ, đảng viên trong chi bộ. Không ngừng đổi mới nội dung, hình thức để nâng cao chất lượng giáo dục, làm cho cán bộ, đảng viên thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình; nhận thức rõ sự cần thiết, mục đích, nội dung, phương pháp tự phê bình và phê bình. Gắn nội dung tự phê bình và phê bình với việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.

Hai là, tự phê bình và phê bình phải trên cơ sở lập trường quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước, mở rộng thông tin, phát huy dân chủ. Kết hợp tự phê bình trong Đảng với phát huy phê bình của nhân dân. Đề cao tính tự giác, không khí dân chủ, cởi mở trên cơ sở cái tâm trong sáng, trên tinh thần đồng chí thương yêu lẫn nhau, vì sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, để các đảng viên trong chi bộ, cũng như quần chúng phê bình cán bộ, đảng viên một cách thẳng thắn, đầy đủ.

Ba là, tự phê bình và phê bình cần gắn với việc thực hiện nhiệm vụ cách mạng trong từng giai đoạn. Hồ Chí Minh cho rằng, tự phê bình và phê bình phải “liên hệ với công tác thực tế của mình, để nâng cao tư tưởng, ý thức tổ chức và kỷ luật, đồng thời đẩy mạnh công tác tiến bộ hơn nữa”. Tăng cường kỷ luật, ngăn chặn những hành vi lợi dụng tự phê bình và phê bình để trả thù cá nhân, gây rối, làm mất sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.

Bốn là, làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm về nâng cao chất lượng trong tự phê bình và phê bình trong Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Cấp ủy các cấp cần có nghị quyết lãnh đạo sát, đúng đối với công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết hoạt động công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là hoạt động tự phê bình và phê bình; đánh giá đúng thực trạng chất lượng tự phê bình và phê bình, từ đó có biện pháp hướng dẫn, chỉ đạo, rút kinh nghiệm kịp thời, trong tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên trong các tổ chức Đảng./.

ST.


Tiếp tục tư tưởng, quan điểm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực

  Để bày tỏ lòng tri ân sâu sắc và quyết tâm thực hiện thắng lợi ước nguyện của Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về kiên quyết, kiên trì chống chủ nghĩa cá nhân, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, Phó Trưởng ban Thường trực Ban chỉ đạo Cải cách tư pháp Trung ương Phan Đình Trạc có bài viết: "Quán triệt sâu sắc tư tưởng, quan điểm của Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Tiếp tục đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh".

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, dù ở bất cứ cương vị, lĩnh vực công tác nào, từ khi còn là một cán bộ trẻ cho đến khi giữ cương vị lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn đau đáu, trăn trở với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Đặc biệt, với trọng trách là Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, quyết liệt, với nhiều quan điểm, chủ trương hết sức quan trọng, có tính lý luận và thực tiễn sâu sắc, thể hiện tầm nhìn, bản lĩnh, trí tuệ, nhân văn, nhân ái, đầy sức thuyết phục của người đứng đầu Đảng ta.

Với sự lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết, kiên trì, không ngừng, không nghỉ, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, nghiêm minh nhưng rất nhân văn và sự mẫu mực về đạo đức cách mạng, sự nhất quán giữa nói và làm, làm đi đôi với nói của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã được tiến hành rất quyết liệt, bài bản, toàn diện, đi vào chiều sâu, đạt nhiều kết quả rất quan trọng, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội, để lại dấu ấn sâu đậm trong cán bộ, đảng viên, nhân dân và bạn bè quốc tế.

Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo đặc biệt xuất sắc, tiêu biểu về phẩm chất, tài năng, trí tuệ, bản lĩnh của người chiến sỹ cộng sản kiên trung, suốt đời vì nước, vì dân đã vĩnh biệt chúng ta, nhưng những tư tưởng, quan điểm của đồng chí Tổng Bí thư mãi mãi là "kim chỉ nam" cho hành động của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Hơn bao giờ hết, các cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta cần quán triệt sâu sắc tư tưởng, quan điểm chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, tiếp tục đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh.

* Tham nhũng là "khuyết tật bẩm sinh của quyền lực"; đấu tranh phòng chống tham nhũng tiêu cực là việc làm cần thiết, tất yếu, là xu thế không thể đảo ngược; phải tiến hành thường xuyên, kiên quyết, kiên trì, không ngừng, không nghỉ, với quyết tâm cao, hành động cụ thể, quyết liệt và "nếu ai cảm thấy nhụt chí thì dẹp sang một bên cho người khác làm".

Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú, tư duy lý luận sắc bén, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ tham nhũng là "khuyết tật bẩm sinh của quyền lực", nó diễn ra trong nội bộ chúng ta, do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện; phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là cuộc đấu tranh ngay trong chính bản thân mỗi con người, trong cơ quan, tổ chức, đơn vị, địa phương mình, liên quan đến lợi ích vật chất, tiền tài, chức vụ, danh dự, uy tín của tổ chức và cá nhân con người; đụng chạm đến những người có chức, có quyền.

Đảng, Nhà nước ta đã thấy sớm và đã chỉ đạo làm nhiều lần, làm quyết liệt, nhưng còn nhiều việc phải làm và còn phải làm lâu dài, quyết liệt hơn nữa, với quyết tâm cao hơn nữa, bền bỉ, kiên trì, không thể nóng vội. Đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu không được chủ quan, nóng vội, nhưng cũng không được né tránh, cầm chừng, mà phải tiến hành thường xuyên, liên tục, kiên quyết, kiên trì, không ngừng, không nghỉ, không được chững lại, hay chùng xuống trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Ngay cả khi đã thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, Đồng chí cũng lưu ý: Ban Chỉ đạo không phải là "một chiếc đũa thần" có thể xoay chuyển ngay được tình hình. Từ đó, đồng chí Tổng Bí thư thường xuyên nhắc nhở chúng ta phải nhận thức sâu sắc về nguy cơ, tác hại của tham nhũng, nó làm tê liệt sức chiến đấu, tổn thương thanh danh, xói mòn uy tín của Đảng, làm biến chất Đảng, không chỉ làm mất tiền, mất của, mà còn mất người, mất chế độ. Do đó, đồng chí Tổng Bí thư khẳng định: "đấu tranh phòng, chống tham nhũng là một việc làm cần thiết, tất yếu; một xu thế không thể đảo ngược", khó mấy cũng phải tìm mọi cách để làm, làm cho bằng được, làm đến cùng, "nếu ai cảm thấy nhụt chí thì dẹp sang một bên cho người khác làm".

Đồng chí Tổng Bí thư tin tưởng rằng, nếu tất cả chúng ta, từ trên xuống dưới, đều có quyết tâm lớn, có sự thống nhất cao, có biện pháp thực hiện quyết liệt, khả thi, chỉ đạo chặt chẽ với một phương pháp tư duy đúng đắn, tỉnh táo, bình tĩnh, không cực đoan, không để các thế lực xấu lợi dụng, xuyên tạc, kích động, phá hoại, thì tham nhũng, tiêu cực nhất định sẽ được ngăn chặn và từng bước đẩy lùi. Và khi "Lò đã nóng lên rồi thì củi tươi vào đây cũng phải cháy".

* Suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống - nguyên nhân cơ bản của tham nhũng; phải gắn phòng, chống tham nhũng với phòng, chống tiêu cực; gắn phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, phát triển kinh tế - xã hội.

Cùng với nhận diện bản chất và tác hại của tham nhũng, đồng chí Tổng Bí thư cũng chỉ rõ các nguyên nhân khách quan, chủ quan nảy sinh tham nhũng và khẳng định chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan, do lỗi của chúng ta. Trong đó đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh, nguyên nhân cơ bản, trực tiếp của tham nhũng là do suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; suy đến cùng là do không vượt qua được chủ nghĩa cá nhân.

Đây mới là cái gốc, cái nguy hiểm nhất dẫn đến tham nhũng; ngược lại tham nhũng tác động làm cho tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trầm trọng hơn. Vì vậy, phải gắn phòng, chống tham nhũng với phòng, chống tiêu cực, mà trọng tâm là phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; nếu chỉ phòng, chống tham nhũng về tiền bạc, tài sản thôi thì chưa đủ; tiền bạc, tài sản có thể thu hồi được, nhưng nếu suy thoái về đạo đức, tư tưởng là mất tất cả; phòng, chống tiêu cực tức là trị tận gốc của tham nhũng.

Đồng thời, Tổng Bí thư yêu cầu, phải gắn phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, phát triển kinh tế - xã hội; không phải đóng cửa để chỉnh đốn Đảng; vấn đề căn cơ trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là phòng ngừa từ sớm, từ xa, mà trọng tâm là xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đặc biệt là phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên; phải đặc biệt quan tâm, chú trọng công tác cán bộ.

* Nhất quán phương châm không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai; rất nghiêm khắc nhưng cũng rất nhân văn, trị bệnh cứu người.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, V.I.Lênin đã chỉ rõ phải "trừng trị một cách không thương xót, kể cả việc đem xử bắn" những đảng viên cộng sản tham nhũng, thậm chí phải "trừng phạt nặng hơn gấp ba lần" những người ngoài đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã y án tử hình đối với Đại tá, Cục trưởng Cục Quân nhu Trần Dụ Châu là một điển hình về tính nghiêm minh trong xử lý tham nhũng.

Quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và kinh nghiệm quốc tế, đồng chí Tổng Bí thư khẳng định: Mục đích của việc xử lý tham nhũng, tiêu cực là để trị bệnh cứu người, kỷ luật một vài người để cứu muôn người, cảnh báo, răn đe, giáo dục, phòng ngừa là chính.

Từ đó đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu phải kiên quyết xử lý nghiêm khắc những hành vi tham nhũng, tiêu cực, nhưng phải có lý, có tình, nhân văn, nhân ái, với nguyên tắc: Mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức ở bất cứ cương vị công tác nào sai phạm phải có hình thức xử lý kịp thời, nghiêm minh và công khai, làm nghiêm từ trên xuống dưới, không có vùng cấm, không có vùng trống, không có ngoại lệ, không có đặc quyền, bất kể người đó là ai, không chịu sức ép của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào; có vụ việc thì phải xác minh làm rõ; tích cực, khẩn trương, rõ đến đâu xử lý đến đó, có dấu hiệu tội phạm thì phải khởi tố điều tra và đã kết luận có tội thì phải truy tố, xét xử theo quy định của pháp luật; vụ việc chưa đến mức xử lý hình sự thì xử lý kỷ luật nghiêm minh theo quy định của Đảng, Nhà nước, đoàn thể.

Quá trình xử lý phải tiến hành đồng bộ giữa xử lý kỷ luật của Đảng với kỷ luật hành chính của Nhà nước, kỷ luật của đoàn thể và xử lý hình sự; kỷ luật của Đảng thực hiện trước, tạo tiền đề để xử lý kỷ luật hành chính, đoàn thể và xử lý hình sự; kỷ luật của Đảng nghiêm hơn xử lý theo pháp luật. Không chỉ xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng, mà còn xử lý nghiêm cả những người dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực; người lợi dụng chống tham nhũng, tiêu cực để xuyên tạc, kích động, chia rẽ, chống phá Đảng, Nhà nước.

Đồng thời, trong chỉ đạo xử lý tham nhũng, tiêu cực, đồng chí Tổng Bí thư luôn yêu cầu việc xử lý phải nghiêm minh, nhưng cũng rất nhân văn: Phải phát hiện từ sớm, xử lý từ đầu, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn; phải lấy giáo dục, răn đe, phòng ngừa làm chính, kết hợp giữa trừng trị với khoan hồng; trong xử lý phải quán triệt đúng đắn các quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể, phân hóa giữa người sai phạm vì động cơ cá nhân, vụ lợi với người sai phạm không có động cơ cá nhân, vụ lợi; phải truy tố, xét xử vắng mặt những kẻ phạm tội đang bỏ trốn theo pháp luật; việc xử lý nghiêm khắc nhiều cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao sai phạm là điều không ai mong muốn, thậm chí rất đau xót, rất đau lòng, nhưng vì sự nghiệp chung, vì sự nghiêm minh của kỷ luật Đảng, thượng tôn pháp luật của Nhà nước, sự trong sạch, vững mạnh và uy tín của Đảng, Nhà nước và ý nguyện của Nhân dân, chúng ta phải làm, và kiên quyết làm.

Đây là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng; được các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan chức năng quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc, mang lại hiệu quả rõ rệt trong thực tế, tạo bước đột phá mới, là điểm sáng, dấu ấn nổi bật trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực thời gian qua.

* Gắn phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với kiểm soát quyền lực, "nhốt" quyền lực vào trong "lồng" thể chế.

Quyền lực luôn luôn có nguy cơ bị "tha hoá", tham nhũng là "khuyết tật bẩm sinh của quyền lực". Do vậy, quan điểm chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư là phải kiểm soát có hiệu quả việc thực thi quyền lực, để đảm bảo quyền lực được vận hành công khai, minh bạch, đúng đắn, theo đúng nguyên tắc: Mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế, phải được ràng buộc bằng trách nhiệm, quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền hạn càng cao trách nhiệm càng lớn; lợi dụng, lạm dụng quyền lực phải bị truy cứu trách nhiệm và xử lý nghiêm minh.

Đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu: Cán bộ lãnh đạo các cấp phải ghi nhớ, bất cứ ai cũng không có quyền lực tuyệt đối ngoài pháp luật; bất kỳ ai sử dụng quyền lực đều phải phục vụ nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân và tự giác chịu sự giám sát của nhân dân. Công qũy là của công, cho nên một xu, một hào cũng không được chi dùng bừa bãi; công quyền là vì dân cho nên không được mảy may vì riêng tư; phải thật sự chí công vô tư, công tư phân minh, công trước tư sau, vì công mà quên tư; mọi việc đều xuất phát từ dân, vì dân. Tuyệt đối không được lạm dụng, lợi dụng quyền lực, không được cậy có quyền, uốn thẳng thành cong. Đối với người được giao chức vụ, quyền hạn phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, thường xuyên tự soi, tự sửa.

Về phía cơ quan, tổ chức, phải quan tâm siết chặt kỷ cương, dùng kỷ luật nghiêm minh và giám sát nghiêm khắc để cán bộ, đảng viên biết giữ gìn, nhớ điều cấm, giữ giới hạn; phải tăng cường giám sát, kiểm soát có hiệu quả việc thực thi quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn; trong công tác cán bộ và các lĩnh vực chuyên môn sâu, khép kín, bí mật thì càng phải chú trọng kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực, nhất là kiểm tra, giám sát từ bên ngoài; đồng thời, phải công khai quy trình sử dụng, thực thi quyền lực theo pháp luật để cán bộ, Nhân dân giám sát. Từ đó, đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu phải khẩn trương hoàn thiện và thực hiện nghiêm các cơ chế về kiểm soát quyền lực; phải thiết lập cho được cơ chế để Nhân dân giám sát, kiểm soát quyền lực thật sự có hiệu lực, hiệu quả; phải "nhốt" quyền lực vào trong "lồng" cơ chế.

* Kiểm soát quyền lực, thực hành liêm chính và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trước hết phải được tiến hành nghiêm túc, có hiệu quả ngay trong các cơ quan phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Các cơ quan có chức năng phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là những cơ quan được giao nhiều quyền lực, hoạt động có nhiều đặc thù, tính chất phức tạp, bí mật; thường xuyên đối mặt với những tiêu cực trong xã hội, khiến cán bộ, công chức dễ bị sa ngã, mua chuộc. Vì thế, đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu hơn ai hết, các cơ quan chức năng phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và đội ngũ cán bộ làm công tác này phải liêm, phải sạch; không thể "Chân mình còn lấm bê bê/ Lại cầm bó đuốc đi rê chân người".

Do vậy, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trước hết phải được tiến hành nghiêm túc, có hiệu quả ngay trong các cơ quan phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Đối với đội ngũ cán bộ làm công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, đồng chí Tổng Bí thư đặt ra những đòi hỏi cao hơn về trách nhiệm, bản lĩnh, với lời dặn vô cùng thấm thía và hết sức sâu sắc: "Phải có trái tim sục sôi bầu nhiệt huyết cách mạng, sẵn sàng hành động vì nước, vì dân; có cái đầu đầy bản lĩnh và trí tuệ để khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng; có đôi chân vững chắc và bàn tay sạch để đứng vững, đứng thẳng và khước từ mọi sự cám dỗ tầm thường, giữ danh dự của người cán bộ…; "còn Đảng thì còn mình", xứng danh là "thanh bảo kiếm" sắc bén, "lá chắn" thép vững chắc của Đảng, Nhà nước và Nhân dân".

Ngay cả đối với các đồng chí thành viên Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, đồng chí Tổng Bí thư cũng yêu cầu phải đề cao trách nhiệm, là những tấm gương thật sự mẫu mực, quyết liệt đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, có đủ bản lĩnh, phẩm chất, trình độ, để xứng đáng với niềm tin, tình cảm và nguyện vọng của Nhân dân; nếu ai vướng vào tham nhũng, tiêu cực thì "Tôi" (Đảng, Nhà nước) sẽ xử lý trước.

* Thực hiện nhất quán cơ chế "bốn không" trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực: "không thể", "không dám", "không muốn", "không cần" tham nhũng, tiêu cực.

Để thực hiện mục tiêu ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, đồng chí Tổng Bí thư chỉ đạo: Phải xây dựng cho được một cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để "không thể" tham nhũng, tiêu cực; một cơ chế răn đe, trừng trị nghiêm khắc để "không dám" tham nhũng, tiêu cực; và một cơ chế bảo đảm để "không muốn", "không cần" tham nhũng, tiêu cực. Đây vừa là quan điểm, phương châm mang tính tổng thể trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, đồng thời cũng là một trong những bài học kinh nghiệm quý được đồng chí Tổng Bí thư đúc rút qua hơn 10 năm trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Để thực hiện có hiệu quả phương châm "bốn không", theo đồng chí Tổng Bí thư, phải hoàn thiện thể chế trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị phải rất chặt chẽ, không sơ hở, bất cập, để "không thể tham nhũng, tiêu cực"; phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng, tiêu cực, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, để "không dám tham nhũng, tiêu cực"; xây dựng văn hóa liêm chính, không tham nhũng, tiêu cực trở thành nếp sống trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân, để "không muốn tham nhũng, tiêu cực"; thực hiện chế độ, chính sách đãi ngộ phù hợp với cống hiến và tài năng của cán bộ, công chức, viên chức, để "không cần tham nhũng, tiêu cực".

* Huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị, dựa vào dân, xây dựng "thế trận lòng dân" vững chắc trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Trong quá trình hoạt động, lãnh đạo cách mạng, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn quán triệt sâu sắc bài học lịch sử vô giá "dân là gốc"; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ với Nhân dân, biết lắng nghe ý kiến nhân dân, dựa vào nhân dân. Thực tiễn cho thấy, không có gì mà nhân dân không biết, không có gì có thể qua mắt được Nhân dân; chỉ có phát huy đầy đủ sức mạnh của nhân dân mới có thể đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, tạo thành một "phong trào, xu thế" không thể đảo ngược.

Do vậy, đồng chí Tổng Bí thư nhiều lần nhấn mạnh: Sức mạnh và động lực to lớn của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là sự đồng tình, ủng hộ, hưởng ứng, tham gia tích cực của nhân dân và cả hệ thống chính trị, báo chí, mà nòng cốt là các cơ quan có chức năng phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, như nội chính, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Nếu không dựa vào dân thì cuộc chiến chống tham nhũng khó có thể thành công. Đồng chí Tổng Bí thư đã dẫn lại những lời chỉ dạy quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh để nhắc nhở các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên ghi nhớ sâu sắc và triển khai thực hiện: "Phải biết dựa vào dân, lắng nghe dân, cái gì mà quần chúng nhân dân hoan nghênh, ủng hộ thì chúng ta phải quyết tâm làm và làm cho bằng được; ngược lại, cái gì nhân dân không đồng tình, thậm chí căm ghét, phản đối thì chúng ta phải cương quyết ngăn ngừa, uốn nắn và xử lý nghiêm các sai phạm"; "phải làm cho quần chúng khinh ghét tệ tham ô, lãng phí, quan liêu; biến hàng vạn, hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí, quan liêu còn chỗ ẩn nấp". Đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu phải xây dựng "thế trận lòng dân" vững chắc trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

* Từng bước mở rộng phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ra khu vực ngoài nhà nước và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng.

Tham nhũng, tiêu cực không chỉ xảy ra trong khu vực nhà nước, mà còn có sự giúp sức, hỗ trợ đắc lực của các đối tượng hoạt động ngoài khu vực nhà nước. Mặt khác, tội phạm tham nhũng có tính quốc tế, là vấn nạn của các quốc gia. Vì thế, đồng chí Tổng Bí thư yêu cầu phải triển khai có hiệu quả hoạt động phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở khu vực ngoài nhà nước, đồng thời tăng cường hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng; các giải pháp phòng, chống tham nhũng, tiêu cực phải phù hợp với truyền thống văn hóa của Dân tộc, với nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Đẩy mạnh đàm phán, ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp, các thỏa thuận về hợp tác đấu tranh phòng, chống tội phạm với các nước; phối hợp chặt chẽ với cơ quan tư pháp của các nước, các tổ chức quốc tế để truy bắt, dẫn độ số đối tượng phạm tội tham nhũng lẩn trốn, chuyển giao tài liệu, chứng cứ và thu hồi tài sản tham nhũng tẩu tán ra nước ngoài. Tích cực tham gia các sáng kiến, diễn đàn quốc tế, nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm với các quốc gia và các tổ chức quốc tế trong phòng, chống tham nhũng.

Nội luật hoá và thực thi Công ước của Liên hợp quốc về Chống tham nhũng theo đúng lộ trình, phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Thường xuyên tổng kết, đúc rút kinh nghiệm, không ngừng đổi mới tư duy, hoàn thiện lý luận về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Việt Nam.

* Phối hợp chặt chẽ, "đúng vai, thuộc bài", "trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt".

Một trong những bài học kinh nghiệm mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đúc rút từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là phải chú trọng nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò nòng cốt và sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ, nhịp nhàng, kịp thời, hiệu quả của các cơ quan có chức năng phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Trong quá trình hoạt động, nếu phát hiện vi phạm có dấu hiệu tội phạm thì các cơ quan chức năng chuyển ngay hồ sơ vụ việc đến cơ quan điều tra có thẩm quyền để điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật; nếu vi phạm liên quan đến cán bộ diện cấp ủy quản lý thì báo cáo với Thường trực cấp ủy đó, đồng thời chuyển hồ sơ, tài liệu cho ủy ban kiểm tra cùng cấp để xử lý theo quy định của Đảng. Đồng chí yêu cầu, trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tuyệt đối không được "quyền anh quyền tôi", "cua cậy càng, cá cậy vây"; phải "đúng vai, thuộc bài"; "trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt".

Để đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất từ Trung ương đến địa phương, đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ đạo nghiên cứu, trình Ban Chấp hành Trung ương quyết định thành lập Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh. Nhờ đó, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở địa phương, cơ sở đã có sự chuyển biến rõ nét, từng bước khắc phục hiệu quả tình trạng "trên nóng, dưới lạnh", khẳng định chủ trương đúng đắn, kịp thời của Trung ương, của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Với 80 năm tuổi đời, gần 60 năm hoạt động cách mạng phong phú, bền bỉ, Giáo sư, Tiến sĩ, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với trí tuệ uyên bác, sắc sảo đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta hệ thống tư tưởng và lý luận quý giá về con đường cách mạng Việt Nam trong thời đại mới. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị chiếm vị trí đặc biệt quan trọng đối với đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nguyện đoàn kết, thống nhất, chung sức, đồng lòng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, tiếp tục đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước ta thật sự trong sạch, vững mạnh; thực hiện thành công mục tiêu xây dựng nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc mà đồng chí Tổng Bí thư trọn đời ấp ủ, phấn đấu hy sinh./.