Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2024

Quyết tâm xây dựng Đảng vững mạnh, nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là mốc son chói lọi trong lịch sử hào hùng 4.000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam văn hiến và anh hùng, là bước ngoặt lớn trong lịch sử cách mạng nước ta.

Từ ngày có Đảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, các đồng chí Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng qua các thời kỳ, trong đó có đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Đảng đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách, liên tục tiến lên. Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên nhiều kỳ tích, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa nước ta từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội và sánh vai với các cường quốc năm châu.

Với đường lối chính trị đúng đắn, trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp, gắn bó máu thịt với nhân dân và tinh thần đoàn kết quốc tế thủy chung, trong sáng, Đảng đã quy tụ, đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp nhân dân, các phong trào đấu tranh cách mạng, xây dựng lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp, đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”; tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn.

Tổ quốc thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh muôn vàn khó khăn, thách thức, Đảng tiếp tục khẳng định trình độ trí tuệ, bản lĩnh, tính tiên phong, với bản chất khoa học và cách mạng; đã khởi xướng, không ngừng hoàn thiện, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện thành công công cuộc đổi mới, đưa Việt Nam từ nước kém phát triển trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, người dân có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc, uy tín, vị thế trên trường quốc tế ngày càng nâng cao.

Trên cơ sở đánh giá chính xác thế và lực của đất nước, thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức, với quyết tâm chính trị cao hết lòng vì nước, vì dân, Đại hội XIII của Đảng đã hoạch định đường lối phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; đặt ra các mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; khơi dậy mạnh mẽ trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, lòng nhân ái, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Đi được 2/3 chặng đường, đến nay việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII đã đạt được nhiều thành tựu, kết quả có tính bước ngoặt.

Diễn biến tình hình trong những năm gần đây cho thấy, thế giới đang trong thời kỳ thay đổi mang tính thời đại. Từ nay đến năm 2030 là giai đoạn quan trọng nhất để xác định trật tự thế giới mới. Hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế chủ đạo, nhưng cạnh tranh giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, trong đó châu Á - Thái Bình Dương là địa bàn cạnh tranh quyết liệt nhất.

Các thế lực thù địch, phản động chưa bao giờ từ bỏ âm mưu lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; ráo riết tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình” với nhiều phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt, thâm độc; triệt để lợi dụng hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng để thâm nhập nội bộ, thúc đẩy các yếu tố “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hòng làm tan rã Đảng ta, chế độ ta từ bên trong.

Các thách thức an ninh phi truyền thống gây ra nhiều tác động tiêu cực; sự xuất hiện, phát triển của không gian mạng cùng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 với quy mô, tốc độ chưa từng có, đem đến thời đại mới mà quốc gia kém phát triển, đang phát triển có thể tận dụng thời cơ, đi tắt đón đầu, phát triển vượt bậc, vươn lên thành những quốc gia hùng mạnh hoặc bị rơi vào hố sâu tụt hậu nếu không tận dụng được thời cơ.

Để tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, tăng cường tiềm lực, sức mạnh thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược mà Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra; toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần nỗ lực phấn đấu, chung sức đồng lòng, kế thừa, phát huy mạnh mẽ truyền thống vẻ vang và kinh nghiệm quý báu của Đảng ta; phát huy cao nhất tinh thần “tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc”; không ngừng tìm tòi, mở ra triển vọng mới to lớn để phát triển con người và xã hội.

Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội và đường lối đổi mới của Đảng. Kiên định phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần, bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nguồn lực con người là quan trọng nhất.

Đặc biệt coi trọng và không ngừng tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, đại đoàn kết toàn dân tộc, mối liên hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với Nhân dân. Từ Trung ương đến chi bộ, mỗi cán bộ, đảng viên phải ra sức “giữ gìn sự đoàn kết nhất trí trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”[1]; Đảng phải huy động cho được toàn bộ trí tuệ, sức mạnh của toàn dân tộc, sức mạnh thời đại trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Giữ vững độc lập, tự chủ; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế; bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; duy trì môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; tăng cường đóng góp thiết thực của Việt Nam trong duy trì hòa bình trong khu vực và trên thế giới. Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc.

Kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; kiên định lập trường, quan điểm và thực hành nghệ thuật ngoại giao thời đại mới trên cơ sở cốt cách con người Việt Nam “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “hòa hiếu”, “lấy chí nhân thay cường bạo”.

Kiên định lập trường, quan điểm và thực hành “dân là gốc”, “Nhân dân là chủ thể, trung tâm của công cuộc đổi mới”; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; bảo đảm mọi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của đổi mới, phát triển, được sống hạnh phúc trong môi trường an ninh, an toàn, không ai bị bỏ lại phía sau.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; có nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, thực sự chuyên nghiệp, liêm chính, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.

Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng; kiên quyết, kiên trì chống chủ nghĩa cá nhân, chống sự suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, chống tham nhũng, tiêu cực trong Đảng với phương châm “không ngừng”, “không nghỉ”, “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, “bất kể người đó là ai”, “xử lý một vụ, cảnh tỉnh cả vùng, cả lĩnh vực”.

Đồng thời tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về thể chế; tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; tăng cường công khai, minh bạch thông qua chuyển đổi số; mở rộng không gian phát triển; tạo thuận lợi cao nhất cho mọi hoạt động bình thường trong khuôn khổ pháp luật, đóng góp xây dựng đất nước, nâng cao đời sống của Nhân dân của tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp, doanh nhân trong và ngoài nước. Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm soát quyền lực với làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục truyền thống cách mạng, xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh”.

Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước, củng cố tiềm lực quốc gia. Xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện đại, hội nhập. Thúc đẩy mạnh mẽ đầu tư, sản xuất kinh doanh; huy động tối đa nguồn lực xã hội cho sự nghiệp phát triển bền vững đất nước, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Phát triển con người toàn diện; xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước.

Tập trung cao độ các công việc để tổ chức thành công đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XIV của Đảng; tổ chức tốt việc tổng kết 40 năm đổi mới đất nước, kế thừa những thành tựu lý luận quan trọng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được các thế hệ lãnh đạo của Đảng, trong đó có đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đúc kết, đề ra đường lối đúng đắn, đưa đất nước tiếp tục phát triển toàn diện trong thời gian tới.

Chúng ta tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh; kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với truyền thống tốt đẹp, khí phách và tinh hoa của dân tộc, không ngừng tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; với bản lĩnh, kiên định lý tưởng cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên; được Nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ, công cuộc đổi mới đất nước nhất định giành thắng lợi to lớn, Tổ quốc ta ngày càng cường thịnh, Nhân dân ta ngày càng hạnh phúc, ấm no, Đất nước ta ngày càng phát triển phồn vinh, hùng cường, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thành công mục tiêu chiến lược mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra và di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại cũng là ước vọng của toàn dân tộc “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”[2].

(Bài viết của Đại tướng, GS.TS Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.)

 VĨ NHÂN GIẢN DỊ VÔ CÙNG


Tôi lại kể về anh người chiến sĩ

Sau những chiến công là đời thường giản dị

Niềm lớn lao nào cũng đượm nỗi gian truân

Tấm áo đơn sơ bao bọc anh hùng.

Nhoẻn miệng cười cho quên đời khó nhọc

Rồi nắng, rồi mưa phai màu trên mái tóc

Ánh mắt ngoan cường, đôi lúc bỗng trầm ngâm.

Anh vẫn đi về trong đêm tối lặng câm.

Mà nghe tim mình đang tỏa nắng

Từng góc phố ngủ vùi im ắng

Lặng lẽ tình người vẫn sưởi ấm quanh đây.

Từng gia đình đang yên giấc nào hay.

Ngoài trời khuya có ai vừa ngã xuống

Anh nằm nghe con đường đi ngủ muộn

Ngọn đường nào vẫn đợi bước chân quen.



 THƯ CHÚC MỪNG CỦA TỔNG BÍ THƯ BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG NHÂN DÂN CÁCH MẠNG LÀO

Nhân dịp Đồng chí Tô Lâm được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã gửi thư chúc mừng. Báo Nhân Dân xin trân trọng giới thiệu toàn văn Thư chúc mừng:

Đồng chí Tô Lâm kính mến,

Thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, nhân danh cá nhân, tôi vinh dự và nhiệt liệt chúc mừng Đồng chí đã được bầu giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII vào ngày 03/8 vừa qua.

Việc Đồng chí được bầu giữ chức vụ quan trọng này thể hiện sự tin tưởng và đánh giá cao của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đối với năng lực, kinh nghiệm phong phú và những thành tích nổi bật của Đồng chí trong lãnh đạo, chỉ đạo trong thời gian qua.

Tôi tin tưởng chắc chắn rằng, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình và sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam do Đồng chí đứng đầu, nhân dân Việt Nam anh em sẽ tiếp tục giành được nhiều thành tựu to lớn hơn nữa trong sự nghiệp đổi mới, tổ chức triển khai thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, hoàn thành mục tiêu xây dựng nước Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tôi khẳng định sẽ sát cánh cùng với Đồng chí và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam tiếp tục củng cố và vun đắp mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Lào-Việt Nam, Việt Nam-Lào ngày càng phát triển đi vào chiều sâu, hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực nhằm mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước chúng ta, cũng như góp phần phát triển vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Nhân dịp quan trọng và đầy ý nghĩa này, tôi xin chúc Đồng chí dồi dào sức khỏe, hạnh phúc và giành nhiều thành tựu to lớn trong sự nghiệp vinh dự và cao cả của Đồng chí.


 CÂU CHUYỆN BUỒN THỜI CÔNG NGHỆ 

Trong lễ mừng thọ 80 tuổi của cha mình, chị Nh. chụp lại bức ảnh cả đàn cháu cùng cắm mặt vào điện thoại, không hề quan tâm mọi thứ xung quanh, dù là sự kiện tụ họp đại gia đình.

Chị P.T.Nh., quê ở Nghệ An kể tuần rồi, anh em chị tổ chức lễ mừng thọ 80 tuổi cho cha tại một nhà hàng ở Hà Nội.

Hình ảnh chị nhớ mãi trong lễ mừng thọ hôm đó là cảnh 13 đứa trẻ, con chị và con của anh chị em trong nhà cùng dán mặt vào điện thoại.

13 đứa trẻ là anh em họ trong nhà, đứa lớn nhất đang là sinh viên đại học, đứa bé nhất mới hơn một tuổi.

Chị Nh. mô tả, khi bàn tiệc bày ra, những đứa trẻ ăn uống qua loa rồi chóng vánh, lần lượt từng đứa dạt sang khu vực trống ngay cạnh, ngồi bấm điện thoại, chơi game. Đứa này nối đứa kia, chỉ một lúc sau đã mỗi đứa một chiếc điện thoại.

Ngay cả thành viên nhỏ nhất, mới hơn một tuổi ngồi ở ghế ăn trẻ em cũng được… mẹ đặt điện thoại trước mặt cho xem.

Người phụ nữ này cho hay, những đứa trẻ là con mình, cháu mình mê điện thoại đến độ ăn uống vội vàng, sơ sài. Ngay cả khi chúc mừng ông hay lúc chụp ảnh kỷ niệm, bố mẹ cũng rất khó khăn để gọi chúng tham gia hoạt động chung của gia đình.

"Bố mẹ phải kêu gào, nhắc nhở bọn trẻ mới chịu đứng dậy với thái độ miễn cưỡng, hậm hực, thực hiện cho xong việc rồi trở lại với điện thoại ngay. Có đứa còn phản ứng gay gắt khi bị bố mẹ thu điện thoại", chị Nh. nói.

Người mẹ nói thêm, hai con của chị cũng thường xuyên sử dụng điện thoại, máy tính bảng hoặc xem tivi. Đặc biệt là những ngày hè không đến trường, các cháu dùng các thiết bị điện tử với tần suất dày đặc hơn.

Đã không ít lần nhìn con chơi điện thoại, chị bực mình, nổi khùng nổi điên quát tháo con nhưng rồi đâu lại vào đó.

Hai con của chị Nh. đang ở độ tuổi tiểu học, chưa có điện thoại riêng nhưng đã có máy tính bảng riêng, được mua ở thời điểm học online do tác động của dịch bệnh Covid-19.

Chị thừa nhận, vợ chồng đi làm từ sáng đến tối, không có nhiều thời gian và cũng không đủ kiên nhẫn để chơi, trò chuyện hay đưa con đi đây đi đó. Nên hầu như thời gian ở nhà, các con… chơi với điện thoại, tivi.

Nhiều lúc lo lắng trước việc con sử dụng điện thoại nhiều nhưng rồi chị Nh. lại tự an ủi… con mình dùng điện thoại "chưa thấm vào đâu" so với nhiều đứa trẻ khác.

Nhưng những ngày qua, hình ảnh "cả đàn cháu cắm mặt vào điện thoại" trong ngày mừng thọ ông làm chị cảm thấy bất an, hoảng sợ. 

 VĂN HÓA LÀ KHÔNG BẢO TỒN ĐƯỢC?

Nay thấy clip của Lê Cát Trọng Lý trả lời phỏng vấn về việc “bảo tồn văn hóa” mà thấy buồn và thất vọng. Trong clip Lê Cát Trọng Lý cho rằng “văn hóa không thể bảo tồn được, vì không liên quan gì đến đời sống hiện tại”; đồng thời ví “văn hóa chỉ như xác ướp hay những món đồ cổ cũ kỹ không có gì là đẹp, là giá trị”…

Tôi đánh giá thấp, thậm chí phê bình ekip của chương trình khi để một người không hiểu biết về văn hóa lại phát biểu về văn hóa dân tộc, về bảo tồn văn hóa. Bởi Lê Cát Trọng Lý không hiểu rằng văn hóa chính là hồn cốt tinh thần của dân tộc và không hiểu “văn hóa là hồn cốt của dân tộc, văn hoá còn thì dân tộc còn”. Văn hóa giữ vai trò “soi đường cho quốc dân đi”, văn hóa đúng nghĩa là những giá trị tinh túy nhất được chưng cất trở thành những giá trị cao đẹp, đặc sắc nhất, nhân văn và tiến bộ nhất của một dân tộc.

Việt Nam là một đất nước có bề dày truyền thống lịch sử lâu đời với hơn 4000 năm văn hiến , một dân tộc văn hiến, trọng hiền tài mà Lê Cát Trọng lý dám nói bỏ. Chị ta không nhận thức được văn hóa là giá trị sáng tạo tinh hoa, tinh túy; là hồn cốt, sinh khí; là động lực, là sức mạnh tinh thần to lớn của dân tộc.

Không rõ là Lê Cát Trọng Lý không hiểu hay cố tình không hiểu, không thấy rằng có những truyền thống vẫn luôn được Nhân dân được bảo tồn và kêu gọi bảo tồn, ví dụ như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thắp hương ngày Tết… Và khi Lê Cát Trọng Lý nói vậy, dù vô tình, cũng đã xúc phạm đến sở thích, thói quen của nhiều người. Là người của công chúng, phát ngôn như vậy có thể khiến cho một bộ phận công chúng phẫn nộ lên án, nhưng đồng thời cũng có thể làm cho nhiều người hiểu sai về văn hóa truyền thống, từ đó phủ nhận những giá trị di sản của quá khứ. Đây là một điều rất nguy hiểm.

Minh chứng khách quan

 Với 80 năm tuổi đời, gần 57 năm tuổi Đảng, 14 năm trên cương vị Tổng Bí thư, hơn 2 năm trên cương vị Chủ tịch nước, hơn 5 năm trên cương vị Chủ tịch Quốc hội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn cống hiến, nỗ lực vì sự vững mạnh của Đảng, đất nước ngày càng phát triển, cường thịnh. Với nền tảng tri thức cùng sự kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn quá trình đổi mới đất nước, trải qua nhiều cương vị quan trọng do Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, đặc biệt, trong 3 nhiệm kỳ Đại hội Đảng XI, XII, XIII, Tổng Bí thư đã có những cống hiến to lớn, xuất sắc đối với công cuộc đổi mới đất nước, mang lại giá trị cả về phương diện lý luận và thực tiễn.

Trong những đóng góp to lớn của Tổng Bí thư, có thành quả công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Thực tế đã chứng minh trong công cuộc“đốt lò” do Tổng Bí thư khởi xướng và chỉ đạo với nguyên tắc “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, “thà chặt một cành sâu để cho cây xanh tốt” đã góp phần quan trọng làm cho Đảng, hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh. Theo báo cáo do Tổ chức Minh bạch quốc tế công bố đầu năm 2023, Việt Nam là 1 trong 6 quốc gia khu vực châu Á - Thái Bình Dương có tiến bộ nổi trội về phòng, chống tham nhũng, tăng 10 bậc trên bảng xếp hạng 180 quốc gia và vùng lãnh thổ được khảo sát, từ xếp thứ 87 (năm 2021) lên xếp thứ 77 (năm 2022), tăng hơn 30 bậc trong 10 năm. Điều này cho thấy nỗ lực, quyết tâm của Việt Nam trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Không phải như luận điệu các đối tượng xấu tuyên truyền rằng, Tổng Bí thư ra đi thì lò cũng tắt, “công cuộc đốt lò trở thành công cốc” mà từ thành công của công cuộc phòng, chống tham nhũng sẽ tiếp tục được Đảng ta đẩy mạnh. Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ, đẩy lùi vấn nạn này đòi hỏi sự kiên trì, bền bỉ và là công việc chung của mọi tổ chức, mọi tầng lớp nhân dân chứ không phải việc riêng của một, vài người.

Trong Điếu văn đọc tại Lễ truy điệu Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Tô Lâm khẳng định: “Chúng ta thành kính, tôn vinh và biết ơn sâu sắc công lao, cống hiến vô cùng to lớn của đồng chí Nguyễn Phú Trọng đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Ghi nhận những công lao, cống hiến đặc biệt xuất sắc của đồng chí, Đảng, Nhà nước đã trân trọng trao tặng Huân chương Sao vàng, phần thưởng cao quý nhất; nhưng hơn hết, đồng chí mãi mãi thuộc về Tổ quốc và nhân dân… Vĩnh biệt đồng chí, nhà lãnh đạo kết tinh phẩm giá, nhân cách của Đảng, hiện thân của hòa bình, thống nhất và tiến bộ; toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nguyện một lòng thực hiện ước nguyện của đồng chí, khắc cốt ghi tâm lời căn dặn “Nếu là người, hãy là người Cộng sản”, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, kiên định con đường mà Đảng, Bác Hồ và các thế hệ đi trước, trong đó có đồng chí đã lựa chọn”…

Không chỉ trên cương vị người đứng đầu Đảng mà trong đời sống hằng ngày, đồng chí Nguyễn Phú Trọng luôn thể hiện phong cách, lối sống giản dị, mực thước, thực sự gần gũi, cởi mở, ân tình với nhân dân. Nhân dân gọi với cái tên trìu mến “Bác Trọng”, “Bác Tổng Bí thư”. Không chỉ ở đời sống hiện thực mà trên các mạng xã hội vốn trước kia náo động, ồn ào thì những ngày qua, tất cả đều trầm lặng, rất nhiều tài khoản mạng xã hội thể hiện tình cảm bằng thay ảnh đại diện, ảnh bìa bằng hình ảnh Tổng Bí thư, cờ rủ Quốc tang màu đen trắng. Cùng với đó là những bài viết, những kỷ niệm hay những đánh giá thể hiện góc nhìn về tài năng, đức độ của Tổng Bí thư, chia sẻ những bài viết xúc động từ các báo hay mạng xã hội khác. Trong hai ngày Quốc tang, tại 3 điểm viếng theo quy định của Ban Tổ chức, hàng vạn người không quản đường sá, thời tiết đã trật tự xếp thành hàng dài, trong đó rất nhiều người xếp hàng tới nửa đêm để chờ được vào viếng Tổng Bí thư. Hàng vạn người cũng đứng trật tự hai bên đường, tiễn đoàn xe đưa linh cữu Tổng Bí thư về an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội. Những hình ảnh đó, hiện thực đó đã nói lên tất cả về tình cảm, sự tiếc thương của người dân dành cho người đứng đầu Đảng ta như thế nào.

Sự ra đi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng để lại niềm tiếc thương sâu sắc trong chính khách, bạn bè quốc tế. Lãnh đạo các quốc gia, tổ chức quốc tế, các đảng chính trị trên thế giới đã gửi thư, điện, lời chia buồn với Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam. Chiều 20/7, tại Bắc Kinh, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đã đến Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc viếng, chia buồn sâu sắc và ghi sổ tang trước việc đồng chí Nguyễn Phú Trọng từ trần. Đồng chí Tập Cận Bình khẳng định, Trung Quốc luôn ghi nhớ những đóng góp to lớn của đồng chí Nguyễn Phú Trọng trong việc thúc đẩy quan hệ hữu nghị truyền thống "vừa là đồng chí, vừa là anh em" giữa hai nước Việt Nam – Trung Quốc. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc kiên định ủng hộ Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đoàn kết, lãnh đạo nhân dân Việt Nam vững bước trên con đường phát triển của mình.

Trong thư chia buồn của Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin có đoạn: “Đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã hiến dâng cả cuộc đời để phụng sự Tổ quốc. Qua nhiều năm công tác trên các cương vị trọng trách của Nhà nước và Đảng, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã nhận được sự kính trọng sâu sắc của người dân Việt Nam và có uy tín lớn trên trường quốc tế. Nước Nga sẽ nhớ đến Tổng Bí thư như một người bạn thật sự có đóng góp cá nhân to lớn cho việc thiết lập và phát triển quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện giữa Moskva và Hà Nội”. Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres chia sẻ đau thương và mất mát to lớn của nhân dân Việt Nam trước sự ra đi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Tổng Thư ký nhấn mạnh, dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư, Việt Nam tiếp tục con đường phát triển mạnh mẽ trở thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh hàng đầu thế giới và là một đối tác quan trọng của Liên hợp quốc. Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc Dennis Francis ca ngợi Tổng Bí thư là một nhà lãnh đạo tận tụy, đã cống hiến cho Tổ quốc mình trong hơn một thập kỷ qua.

Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden gửi lời chia buồn sâu sắc tới nhân dân Việt Nam và gia đình Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về mất mát to lớn này. Thông điệp của Tổng thống Biden có đoạn viết: “Nhờ tầm nhìn của Ngài Tổng Bí thư, trong chuyến thăm cấp nhà nước năm 2023 của tôi tới Hà Nội, Việt Nam và Hoa Kỳ đã trở thành "Đối tác chiến lược toàn diện", mức độ đối tác cao nhất trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Nhờ tình hữu nghị giữa hai nước chúng ta, người dân Việt Nam và Hoa Kỳ cũng như người dân trên khắp khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương ngày nay được sống trong môi trường an ninh và những cơ hội lớn hơn. Đó là nhờ công lao của Ngài Tổng Bí thư. Đất nước Hoa Kỳ và cá nhân tôi sẽ luôn ghi nhớ, đánh giá cao cam kết của Ngài trong hàn gắn và xây dựng một tương lai vì hòa bình, ổn định và thịnh vượng của khu vực và trên thế giới. Chúng tôi tôn vinh di sản của Ngài Tổng Bí thư và cùng với người dân Việt Nam xin được tỏ lòng tiếc thương sự ra đi của Ngài”.

Bức điện của Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk Yeol có đoạn viết: “Tôi cảm thấy tiếc thương vô hạn trước tin Ngài Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhà lãnh đạo vĩ đại của đất nước Việt Nam từ trần. Thay mặt cho Chính phủ và nhân dân Hàn Quốc, tôi thành kính chia buồn cùng gia quyến và nhân dân Việt Nam đã mất đi một nhà lãnh đạo đáng kính. Những thành tựu và tâm nguyện của Ngài Tổng Bí thư vì sự phát triển rực rỡ của đất nước Việt Nam và nhằm làm sâu sắc quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam và Hàn Quốc sẽ còn mãi trong tâm trí của Nhân dân hai nước”. Bức điện của Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio có đoạn viết: “Tôi vô cùng bàng hoàng và đau buồn khi nhận được tin Ngài Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ trần. Thay mặt Chính phủ và Nhân dân Nhật Bản, tôi xin gửi lời chia buồn sâu sắc nhất tới Chính phủ, Nhân dân Việt Nam cũng như toàn thể gia quyến Ngài Tổng Bí thư”. Đặc biệt, theo thông cáo đăng tải trên nhật báo Granma, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Cuba, Cuba để tang chính thức tưởng niệm Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ 6h ngày 20/7 tới 24h ngày 21/7 (giờ địa phương), trong khi nghi thức Quốc tang sẽ diễn ra trong cả ngày 22/7 để bày tỏ tiếc thương sâu sắc Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng… Về dư luận quốc tế, trên nhiều tờ báo lớn của các quốc gia cũng có những bài viết, hình ảnh ca ngợi công lao của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Đưa ra những luận điệu xuyên tạc, phản cảm, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã phải nhận về sự phản đối, tẩy chay của cộng đồng mạng. Đối với nhiều người, mọi hành động bôi nhọ Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không thể làm hoen ố hình ảnh người Cộng sản chân chính vừa mất mà qua đó cho thấy bộ mặt xấu xa, hành vi ti tiện của những kẻ xảo trá, luôn nhân danh “đấu tranh vì dân chủ, công bằng xã hội”.

Người cao tuổi - Lực lượng quan trọng góp phần phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

 Người cao tuổi có vai trò quan trọng trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đóng góp to lớn vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục quan tâm, thực hiện tốt chính sách đối với người cao tuổi chính là góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, như ước nguyện sinh thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh và khát vọng của dân tộc Việt Nam.

Tổng Bí thư Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gặp gỡ đại biểu Hội Người cao tuổi Việt Nam_Ảnh: TTXVN

Người cao tuổi trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc

Đại đoàn kết toàn dân tộc là di sản vô giá, truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Tinh thần yêu nước, trọng nghĩa, khoan dung, đoàn kết, đùm bọc yêu thương nhau đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn mỗi người dân, trở thành lẽ sống, chất kết dính gắn bó các thành viên trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc giữ vị trí đặc biệt quan trọng, nhất quán và xuyên suốt trong đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta. Đảng luôn xác định “đại đoàn kết toàn dân tộc” là đường lối chiến lược, là cội nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam, có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi của cách mạng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm và luôn đề cao vai trò, sức mạnh của đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết toàn dân tộc là một nội dung cốt lõi, làm nên dấu ấn quan trọng của Người trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đến thành công. Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công” đã trở thành phương châm hành động của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, và thực sự, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc đã được phát huy cao nhất để dân tộc ta đi đến thắng lợi trong các thời kỳ lịch sử.

Năm 1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng, diễn ra từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 5, tại Khuổi Nậm, Pắc Bó, Cao Bằng. Theo đề nghị của Bác, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) để đoàn kết rộng rãi toàn dân tộc đấu tranh cho độc lập, tự do. Một trong những lực lượng đầu tiên Bác nghĩ tới là các phụ lão, trong vai trò đầu tàu, dẫn dắt con cháu trong sự nghiệp cứu nước, xây dựng đất nước hưng thịnh. Người luôn coi người cao tuổi (NCT) là lực lượng quan trọng góp phần tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong “Lời hiệu triệu đoàn kết tất cả các bậc phụ lão” viết năm 1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trách nhiệm của các cụ phụ lão chúng ta đối với nhiệm vụ đất nước thật là trọng đại. Đất nước hưng thịnh do phụ lão gây dựng. Đất nước tồn tại do phụ lão giúp sức. Đất nước bị mất phụ lão cứu. Đất nước suy sụp phụ lão phủ trì”.

Nhất quán với tư tưởng đề cao vai trò của NCT, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng ý nghĩa Hội nghị Diên Hồng thời nhà Trần thành “Truyền thống Diên Hồng” của dân tộc Việt Nam; qua đó, khẳng định vị trí, vai trò của NCT trước những sự kiện liên quan đến vận mệnh của dân tộc. Trong bài viết “Tuổi tác càng cao, lòng yêu nước càng lớn”, đăng trên báo Nhân Dân số ra ngày 1-10-1960, Người chỉ rõ: “Truyền thống “Điện Diên Hồng” là truyền thống yêu nước vẻ vang chung của dân tộc ta và riêng của các cụ phụ lão ta. Mỗi khi có việc quan hệ lớn đến nước nhà nòi giống, thì các cụ không quản tuổi cao sức yếu, liền hăng hái đứng ra gánh vác phần mình và đôn đốc con em làm tròn nhiệm vụ”.

Người cao tuổi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay

Những đóng góp của người cao tuổi trên mọi lĩnh vực trong thời gian qua

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là chủ trương lớn của Đảng ta. Hiện thực hóa chủ trương đó, Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 12-3-2003, của Hội nghị Trung ương 7 khóa IX, “Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, đã chỉ rõ định hướng chính sách đối với NCT: “... xây dựng chính sách chăm sóc sức khỏe, quan tâm hơn đến người cao tuổi về y tế, hưởng thụ văn hóa, nhu cầu được thông tin, phát huy khả năng tham gia đời sống chính trị của đất nước và các hoạt động xã hội, nêu gương tốt, giáo dục lý tưởng và truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ. Thực hiện tốt chính sách đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc người có công với nước. Xây dựng Chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi. Phát huy vai trò Hội Người cao tuổi Việt Nam”.

Qua hơn 20 năm thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW, cả nước hiện có trên 12,5 triệu NCT, hơn 6,5 triệu NCT đang trực tiếp tham gia lao động, sản xuất, trong đó có 400.000 NCT đạt danh hiệu làm kinh tế giỏi; NCT đóng góp hơn 11 triệu ngày công, gần 3.500 tỷ đồng, hiến 25 triệu m2 đất để xây dựng đường giao thông, kênh mương, nhà văn hóa, trường học, cơ sở y tế... góp phần xây dựng nông thôn mới. 64% số hội viên khuyến học là NCT; 660.000 NCT tham gia công tác đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể, tổ hòa giải ở cơ sở; trên 300.000 NCT tham gia các tổ an ninh nhân dân, phòng, chống tội phạm, giữ gìn trật tự ở cơ sở, cung cấp cho lực lượng công an 200.000 nguồn tin có giá trị, giúp đỡ 90.000 người tái hòa nhập cộng đồng. Người cao tuổi phối hợp giải quyết có hiệu quả hàng chục nghìn vụ mâu thuẫn, khiếu kiện trong nội bộ nhân dân. Cả nước có trên 77.000 câu lạc bộ của NCT ở cơ sở với nhiều loại hình hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, thu hút trên 2,5 triệu NCT tham gia. Đặc biệt, Hội đã thành lập 5.500 câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau, thu hút trên 275.000 NCT tham gia. Mô hình câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau được các tổ chức, cộng đồng trong nước, ngoài nước đánh giá cao và đã đoạt giải Nhất “Sáng kiến vì một châu Á già hóa khỏe mạnh”.

Hội Người cao tuổi Việt Nam là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Hội đã không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo, tập hợp và phát triển hội viên; tham gia, đề xuất xây dựng và hoàn thiện thể chế phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, nhất là ở cơ sở; tích cực hưởng ứng Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc. Việc triển khai phong trào thi đua yêu nước “Tuổi cao - Gương sáng” đã động viên hàng vạn NCT ở cơ sở tham gia công tác đảng, chính quyền, các đoàn thể xã hội, góp phần quan trọng xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh. Trong đó, NCT luôn chủ động tham gia đóng góp ý kiến tâm huyết, trung thực, thẳng thắn với tinh thần trách nhiệm cao trong xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội tại cơ sở.

Hội NCT các cấp đã vận động các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp tài trợ hàng vạn suất quà, xây mới hàng nghìn ngôi nhà đại đoàn kết, nhà tình thương, chăm sóc người có công với nước. Hằng năm, thông qua Tháng hành động vì NCT Việt Nam, Hội đã vận động được các nguồn lực xã hội chung tay chăm sóc NCT có hoàn cảnh khó khăn, NCT thuộc hộ nghèo, cận nghèo, NCT là đồng bào dân tộc thiểu số, ở vùng khó khăn, góp phần giảm chênh lệch giàu - nghèo, bất bình đẳng xã hội, tạo đồng thuận xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, từ nhiều năm nay, NCT được chăm sóc ngày càng tốt hơn; hằng năm, có hơn 1,1 triệu NCT được chúc thọ, mừng thọ; trên 3 triệu NCT được lập hồ sơ theo dõi sức khỏe, 4 triệu NCT được khám sức khỏe định kỳ; trên 95% số NCT có thẻ bảo hiểm y tế (nhiều địa phương đã hỗ trợ 100% số NCT).

Từ “Truyền thống Diên Hồng” cho đến các phong trào, mô hình tiêu biểu “Người cao tuổi mẫu mực”, “Tuổi cao - Gương sáng”, “Người cao tuổi tham gia xây dựng nông thôn mới”, “Người cao tuổi tham gia xây dựng dòng họ không có người vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội”, “Ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền”, “Người cao tuổi tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, “Người cao tuổi làm kinh tế giỏi” hiện nay, đã ngày càng khẳng định vai trò, vị trí quan trọng của NCT trong các hoạt động tập hợp lực lượng, góp phần lan tỏa chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo sức mạnh tổng hợp, góp phần xây dựng và phát triển đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh.

Được sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, NCT và tổ chức hội NCT Việt Nam đã và đang có nhiều đóng góp quan trọng vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, đúng như Bác Hồ nói: “Tuổi cao chí khí càng cao”. Người cao tuổi nước ta thực sự là vốn quý của dân tộc, là lực lượng quan trọng của đất nước, là rường cột của gia đình và xã hội Việt Nam. Người cao tuổi của 54 dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam không chỉ là những người lao động cần cù, sáng tạo, góp phần xây dựng hệ giá trị quốc gia, văn hóa, gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam, mà còn là những nhân chứng của lịch sử và rất nhiều người đã trực tiếp góp phần làm nên lịch sử của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, xứng đáng với 18 chữ vàng mà Trung ương Đảng tặng cho NCT Việt Nam: “Tuổi cao chí càng cao, nêu gương sáng vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Một số hạn chế, bất cập trong công tác người cao tuổi hiện nay

Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, giải pháp thực hiện những nội dung của Nghị quyết số 23-NQ/TW đối với NCT ở một số đơn vị còn hạn chế. Nhận thức, tư tưởng của NCT về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc còn chưa đồng đều, có lúc, có nơi chưa nhất quán. Có trường hợp NCT chưa thực sự nêu gương, một số cán bộ hội chưa sâu sát quần chúng nhân dân, chưa phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân; do vậy, chưa xây dựng được niềm tin, uy tín trong nhân dân. Một số chính sách, chế độ đối với NCT còn dàn trải, cào bằng, chưa theo kịp thực tiễn; đời sống một bộ phận NCT còn khó khăn cả về vật chất và tinh thần, thậm chí có trường hợp NCT còn bị bạo hành, ngược đãi, cho nên chưa phát huy đầy đủ tiềm năng, nguồn lực NCT theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Việt Nam là một trong các quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới. Những người từ 60 tuổi trở lên chiếm gần 12% tổng dân số vào năm 2019 và dự báo đến năm 2050, sẽ tăng lên hơn 25%. Đến năm 2036, Việt Nam sẽ bước vào thời kỳ dân số già, chuyển từ xã hội “già hóa” sang xã hội “già”. Đặc biệt, quá trình quá độ từ già hóa dân số đến dân số già của Việt Nam diễn ra chỉ trong vòng 20 năm, trong khi ở các quốc gia phát triển thì quá trình này kéo dài hàng trăm năm.

Trước những khó khăn, hạn chế, thách thức đó, trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cần nâng cao nhận thức, tư tưởng trong các cấp, các ngành, các địa phương: Người cao tuổi là lực lượng chính trị quan trọng, là nguồn lực để phát triển đất nước, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Đồng thời, các cấp, các ngành, các địa phương cần có chủ trương, chính sách, pháp luật và chương trình ứng phó với vấn đề già hóa dân số và phải coi NCT là nguồn lực, trên cơ sở tôn trọng quyền, để tạo động lực trong quá trình phát triển đất nước nhanh, bền vững.

Già làng A Lăng Đàn cùng các cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng A Nông (tỉnh Quảng Nam) vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước_Nguồn: baodantoc.vn

Những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu tiếp tục phát huy vai trò của người cao tuổi trong giai đoạn mới 

Thứ nhất, các cấp hội chủ động xây dựng chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng: “Phát huy trí tuệ, kinh nghiệm sống, lao động, học tập của người cao tuổi trong xã hội, cộng đồng và gia đình... Kính trọng, bảo vệ và chăm sóc người cao tuổi”(4); trên cơ sở đó, phát huy vai trò của NCT một cách phù hợp; khuyến khích NCT tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội. Các cấp hội bám sát các nhiệm vụ trọng tâm, chương trình công tác của Hội, đẩy mạnh thực hiện nghị quyết đại hội đảng bộ địa phương, Nghị quyết Đại hội VI Hội Người cao tuổi Việt Nam. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, góp phần nâng cao nhận thức, tư tưởng về công tác NCT, hoạt động của hội NCT. Nắm bắt kịp thời tư tưởng, đời sống, nguyện vọng của NCT, đặc biệt là NCT có hoàn cảnh khó khăn; phối hợp phòng ngừa, ngăn chặn, không để xảy ra các vụ, việc ngược đãi, bạo hành NCT.

Thứ hai, các cấp hội nâng cao chất lượng công tác tổ chức, cán bộ và phát triển hội viên. Chủ động tham mưu với cấp ủy, chính quyền địa phương trong kiện toàn tổ chức và đội ngũ cán bộ hội; nghiên cứu, đề xuất chính sách, chế độ đối với cán bộ hội ở các cấp. Củng cố, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của tổ chức hội cơ sở; đổi mới nội dung sinh hoạt đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của hội viên và NCT; thu hút ngày càng đông NCT tham gia tổ chức hội và các phong trào do Hội tổ chức, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thứ ba, phát huy mạnh mẽ vai trò của NCT trong tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Nâng cao chất lượng, hiệu quả chương trình phối hợp giữa hội NCT với các bộ, ngành, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân, các địa phương, góp phần phát huy trí tuệ, kinh nghiệm của NCT tham gia xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Thứ tư, đẩy mạnh công tác xã hội hóa, đa dạng nội dung, phương thức, loại hình chăm sóc NCT; phát huy vai trò nòng cốt của Hội trong phong trào “Toàn dân chăm sóc, phát huy vai trò người cao tuổi”, phấn đấu để NCT được sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc trong gia đình và xã hội, củng cố niềm tin vào Đảng, Nhà nước và chế độ, góp phần tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Trong bối cảnh, xu thế mới, để kịp thời ứng phó với quá trình già hóa dân số nhanh ở Việt Nam, tận dụng các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và phấn đấu NCT được hưởng tuổi già trong sự tôn trọng và bảo đảm an sinh xã hội, cần quan tâm một số nội dung sau:

Một là, Trung ương sớm tổng kết Chỉ thị số 59/CT-TW, ngày 27-9-1995, của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa VII, “Về chăm sóc người cao tuổi”, và ban hành chỉ thị mới về bảo vệ, chăm sóc và phát huy vai trò của NCT trong tình hình mới.

Hai là, Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật Người cao tuổi; Chính phủ sớm ban hành chính sách về người cao tuổi Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Ba là, các cơ quan truyền thông đẩy mạnh tuyên truyền về vai trò của NCT và hội NCT; các cấp ủy, chính quyền địa phương cần nâng cao nhận thức, tư tưởng về vị trí, vai trò và sự đóng góp của NCT và tổ chức hội NCT trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam hiện nay

 Trong suốt cuộc đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định đại đoàn kết dân tộc là phương thức, là sức mạnh và là mục tiêu quan trọng nhất của cách mạng Việt Nam. Với tư tưởng ấy, dân tộc Việt Nam đã giành được độc lập và xây dựng đất nước từng bước đạt mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành giá trị văn hóa, giá trị chính trị quý báu của Việt Nam trong thời đại mới.

Bác Hồ với đồng bào các dân tộc Việt Nam (tranh lụa của họa sĩ Trần Minh Thái) _Ảnh: Tư liệu

Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nếu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu của cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, thì đại đoàn kết dân tộc là sức mạnh của cách mạng Việt Nam và tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc là tư tưởng về tập hợp, tổ chức và phát huy sức mạnh của các lực lượng cách mạng trong nước, từ sức mạnh của các lực lượng xã hội, các tổ chức chính trị đến sức mạnh của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, làm nên nguồn lực tổng hợp nhằm hiện thực hóa mục tiêu cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, đoàn kết, trong đó có đại đoàn kết dân tộc, là một nội dung cơ bản, trung tâm của chính trị Việt Nam hiện đại. Người viết: “Tóm lại chính trị là: 1. Đoàn kết. 2. Thanh khiết từ to đến nhỏ”.

Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc được Người xây dựng trên nền tảng đúc rút trí tuệ nhân loại cổ, kim, Đông, Tây về tập hợp và tổ chức lực lượng cách mạng; trên cơ sở tổng kết lịch sử dân tộc Việt Nam, lịch sử cách mạng Việt Nam và nhiều cuộc cách mạng trên thế giới; và nhất là dựa trên những suy tư rất sâu sắc của Người, ở tầm triết học, về bản chất con người, về vị trí và vai trò của con người trong thế giới, phương thức sống và hoạt động của con người..., nói cách khác trên nền tảng nhân sinh quan cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là nhà tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc, mà Người trước hết là “nhà hoạt động chính trị chuyên nghiệp” - như chính Người khẳng định, trong đó tư tưởng và thực hành đại đoàn kết dân tộc, lý luận và thực tiễn đại đoàn kết dân tộc liên hệ chặt chẽ với nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh là linh hồn và là trung tâm dẫn dắt quá trình tập hợp và tổ chức lực lượng cách mạng trong thực tiễn. Tư tưởng đại đoàn kết, trong đó đại đoàn kết dân tộc là vấn đề hàng đầu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh tính đến khi đứng trước những vấn đề lớn mà cách mạng đặt ra. Thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh, với tư tưởng và vai trò thực tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sức mạnh của dân tộc Việt Nam được tập hợp, tổ chức và phát huy cao độ; kết hợp nhuần nhuyễn giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, góp phần làm nên những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc cùng với khối đại đoàn kết dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh dày công xây dựng là một di sản vô cùng quý báu cho Đảng ta và dân tộc ta. Trong bối cảnh hiện nay, khi mục tiêu được Đảng ta đưa ra trong Đại hội XIII của Đảng là: “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại” đang đặt ra mạnh mẽ, thì việc tiếp tục đi sâu nghiên cứu, khai thác, vận dụng một cách sáng tạo những giá trị trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tầm quan trọng của đại đoàn kết dân tộc.

Để giải quyết những vấn đề lớn của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc tổng kết lịch sử. Khi tổng kết lịch sử dân tộc Việt Nam, Người đúc rút một quy luật: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy nay ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi”. Đây là quan điểm rất quan trọng, mang tính nền tảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, theo đó, việc lực lượng lãnh đạo cách mạng chú trọng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, việc các tầng lớp nhân dân tích cực, chủ động tham gia khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đó chính là nhận thức và hành động đúng đắn, phù hợp với quy luật.

Nhìn vào các phong trào yêu nước của các tầng lớp nhân dân Việt Nam suốt nửa cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX và phong trào đấu tranh của nhân dân nhiều nước thuộc địa chống lại chủ nghĩa thực dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rõ, nguyên nhân khiến cho hầu hết các phong trào đó, dù nổ ra với tinh thần anh dũng, sẵn sàng hy sinh của nhân dân, nhưng đều thất bại, là do bị chia rẽ và cô lập, các lực lượng yêu nước không được tập hợp và tổ chức lại thành một khối đoàn kết vững chắc. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng dành thời gian nghiên cứu kinh nghiệm các cuộc cách mạng lớn nổ ra trên thế giới như cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ và cách mạng Nga, từ đó đúc rút ra những chỉ dẫn quan trọng về đại đoàn kết dân tộc. Người còn đi sâu nghiên cứu nhiều tư tưởng, học thuyết của các nhà lãnh đạo chính trị tầm cỡ, như M. Gan-di, Tôn Trung Sơn..., và đặc biệt, đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nhờ vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có được cơ sở lý luận khoa học để luận giải sâu sắc về tầm quan trọng của đại đoàn kết dân tộc, nhận thức đúng đối tượng đại đoàn kết và cách thức tiến hành đại đoàn kết dân tộc.

Trên tất cả những cơ sở đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của đại đoàn kết dân tộc:

Thứ nhất, đại đoàn kết dân tộc là một trong những vấn đề gốc của cách mạng. Nếu giải quyết thành công vấn đề này thì các vấn đề khác cũng sẽ có điều kiện để giải quyết thành công. Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng từ “điểm mẹ” để diễn đạt quan điểm này. Người viết: Đoàn kết là “điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”.

Thứ hai, đại đoàn kết dân tộc là phương thức để tập hợp, tổ chức và phát huy cao độ sức mạnh của toàn thể dân tộc, góp phần quyết định đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “... nhờ sức đại đoàn kết mà cách mệnh thành công... nhờ sức đại đoàn kết mà kháng chiến sẽ thắng lợi”; “Thống nhất nước nhà là con đường sống của nhân dân ta. Đại đoàn kết là một lực lượng tất thắng. Nhờ đại đoàn kết mà cách mạng đã thắng lợi, kháng chiến đã thành công. Nay chúng ta đại đoàn kết thì cuộc đấu tranh chính trị của chúng ta nhất định thắng lợi, nước nhà nhất định thống nhất”.

Thứ ba, đại đoàn kết dân tộc là chiến lược hàng đầu của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong bất cứ giai đoạn nào của cách mạng, đại đoàn kết dân tộc luôn phải được Đảng Cộng sản Việt Nam quan tâm giải quyết trước hết. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, “Trước Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm cho đồng bào các dân tộc hiểu được mấy việc: Một là đoàn kết. Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập. Chỉ đơn giản thế thôi. Bây giờ mục đích tuyên truyền huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là đấu tranh thống nhất nước nhà”. Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng đường lối, chiến lược đại đoàn kết dân tộc và lãnh đạo hệ thống chính trị cùng toàn thể nhân dân tích cực thực hiện đường lối chiến lược đó, làm cho đại đoàn kết dân tộc trở thành một hiện thực đầy sức sống trong cách mạng Việt Nam.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đối tượng đại đoàn kết dân tộc.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân. Trong bài nói chuyên tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên Việt toàn quốc (tháng 1-1969), Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác. Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”. Có thể thấy, ý nghĩa chữ “đại” trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc chính là biên độ của đại đoàn kết được mở rộng tối đa, là đoàn kết với mọi đối tượng có thể đoàn kết được.

Vấn đề đặt ra là, đó là những đối tượng nào?

Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định các đối tượng của đại đoàn kết bằng phương pháp rất khoa học. Theo Người, dân tộc không phải là một “cộng đồng tưởng tượng”(9), mà là một cộng đồng hiện thực của những con người hiện thực. Để nhận diện đúng cộng đồng ấy, Người tiếp cận cộng đồng dân tộc bằng nhiều “lát cắt” khác nhau: giai cấp, dân tộc, tôn giáo, giới tính, lứa tuổi, vùng miền,... Tùy từng “lát cắt” sẽ chia cộng đồng dân tộc thành những lực lượng xã hội khác nhau, với những đặc điểm về nhu cầu, lợi ích, tâm lý, thái độ,... riêng cùng những mối quan hệ đặc thù. Điều cần lưu ý là, Chủ tịch Hồ Chí Minh không tuyệt đối hóa một lát cắt hay quan hệ nào. Trái lại, áp dụng nhiều “lát cắt” để nhìn sâu vào cái bộ phận, nhưng không dừng ở cái bộ phận mà đi tới cái toàn thể, tức là để nhìn đối tượng đại đoàn kết trong tính chỉnh thể, trong tính tổng hòa khách quan vốn có, theo đúng quan điểm của C. Mác: Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Nhận diện một đối tượng đại đoàn kết không phải chỉ trên một phương diện nào đó, chẳng hạn dân tộc hay tôn giáo, mà trong tính tổng hòa đan xen của nó: cùng một đối tượng đại đoàn kết, vừa là con người dân tộc, vừa là con người giai cấp, vừa là con người tôn giáo, vừa là con người lứa tuổi... Cách tiếp cận toàn diện như vậy giúp chủ thể tìm ra những điểm chung để hóa giải các quan hệ khác biệt, mâu thuẫn trong quan hệ giữa các đối tượng đại đoàn kết. Có thể khẳng định, Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích để nhận diện sâu về đối tượng đại đoàn kết trên các phương diện khác nhau và lấy đó làm cơ sở để tổng hợp, để đại đoàn kết là cách tiếp cận độc đáo của Người, vừa khoa học, vừa rất văn hóa, độc đáo, đặc sắc và hiệu quả.

Chủ tịch Hồ Chí Minh không tuyệt đối 

Minh chứng khách quan

Với 80 năm tuổi đời, gần 57 năm tuổi Đảng, 14 năm trên cương vị Tổng Bí thư, hơn 2 năm trên cương vị Chủ tịch nước, hơn 5 năm trên cương vị Chủ tịch Quốc hội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn cống hiến, nỗ lực vì sự vững mạnh của Đảng, đất nước ngày càng phát triển, cường thịnh. Với nền tảng tri thức cùng sự kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn quá trình đổi mới đất nước, trải qua nhiều cương vị quan trọng do Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, đặc biệt, trong 3 nhiệm kỳ Đại hội Đảng XI, XII, XIII, Tổng Bí thư đã có những cống hiến to lớn, xuất sắc đối với công cuộc đổi mới đất nước, mang lại giá trị cả về phương diện lý luận và thực tiễn.

Trong những đóng góp to lớn của Tổng Bí thư, có thành quả công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Thực tế đã chứng minh trong công cuộc“đốt lò” do Tổng Bí thư khởi xướng và chỉ đạo với nguyên tắc “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, “thà chặt một cành sâu để cho cây xanh tốt” đã góp phần quan trọng làm cho Đảng, hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh. Theo báo cáo do Tổ chức Minh bạch quốc tế công bố đầu năm 2023, Việt Nam là 1 trong 6 quốc gia khu vực châu Á - Thái Bình Dương có tiến bộ nổi trội về phòng, chống tham nhũng, tăng 10 bậc trên bảng xếp hạng 180 quốc gia và vùng lãnh thổ được khảo sát, từ xếp thứ 87 (năm 2021) lên xếp thứ 77 (năm 2022), tăng hơn 30 bậc trong 10 năm. Điều này cho thấy nỗ lực, quyết tâm của Việt Nam trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Không phải như luận điệu các đối tượng xấu tuyên truyền rằng, Tổng Bí thư ra đi thì lò cũng tắt, “công cuộc đốt lò trở thành công cốc” mà từ thành công của công cuộc phòng, chống tham nhũng sẽ tiếp tục được Đảng ta đẩy mạnh. Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ, đẩy lùi vấn nạn này đòi hỏi sự kiên trì, bền bỉ và là công việc chung của mọi tổ chức, mọi tầng lớp nhân dân chứ không phải việc riêng của một, vài người.

Trong Điếu văn đọc tại Lễ truy điệu Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Tô Lâm khẳng định: “Chúng ta thành kính, tôn vinh và biết ơn sâu sắc công lao, cống hiến vô cùng to lớn của đồng chí Nguyễn Phú Trọng đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Ghi nhận những công lao, cống hiến đặc biệt xuất sắc của đồng chí, Đảng, Nhà nước đã trân trọng trao tặng Huân chương Sao vàng, phần thưởng cao quý nhất; nhưng hơn hết, đồng chí mãi mãi thuộc về Tổ quốc và nhân dân… Vĩnh biệt đồng chí, nhà lãnh đạo kết tinh phẩm giá, nhân cách của Đảng, hiện thân của hòa bình, thống nhất và tiến bộ; toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nguyện một lòng thực hiện ước nguyện của đồng chí, khắc cốt ghi tâm lời căn dặn “Nếu là người, hãy là người Cộng sản”, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, kiên định con đường mà Đảng, Bác Hồ và các thế hệ đi trước, trong đó có đồng chí đã lựa chọn”…

Không chỉ trên cương vị người đứng đầu Đảng mà trong đời sống hằng ngày, đồng chí Nguyễn Phú Trọng luôn thể hiện phong cách, lối sống giản dị, mực thước, thực sự gần gũi, cởi mở, ân tình với nhân dân. Nhân dân gọi với cái tên trìu mến “Bác Trọng”, “Bác Tổng Bí thư”. Không chỉ ở đời sống hiện thực mà trên các mạng xã hội vốn trước kia náo động, ồn ào thì những ngày qua, tất cả đều trầm lặng, rất nhiều tài khoản mạng xã hội thể hiện tình cảm bằng thay ảnh đại diện, ảnh bìa bằng hình ảnh Tổng Bí thư, cờ rủ Quốc tang màu đen trắng. Cùng với đó là những bài viết, những kỷ niệm hay những đánh giá thể hiện góc nhìn về tài năng, đức độ của Tổng Bí thư, chia sẻ những bài viết xúc động từ các báo hay mạng xã hội khác. Trong hai ngày Quốc tang, tại 3 điểm viếng theo quy định của Ban Tổ chức, hàng vạn người không quản đường sá, thời tiết đã trật tự xếp thành hàng dài, trong đó rất nhiều người xếp hàng tới nửa đêm để chờ được vào viếng Tổng Bí thư. Hàng vạn người cũng đứng trật tự hai bên đường, tiễn đoàn xe đưa linh cữu Tổng Bí thư về an táng tại Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội. Những hình ảnh đó, hiện thực đó đã nói lên tất cả về tình cảm, sự tiếc thương của người dân dành cho người đứng đầu Đảng ta như thế nào.

Sự ra đi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng để lại niềm tiếc thương sâu sắc trong chính khách, bạn bè quốc tế. Lãnh đạo các quốc gia, tổ chức quốc tế, các đảng chính trị trên thế giới đã gửi thư, điện, lời chia buồn với Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam. Chiều 20/7, tại Bắc Kinh, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đã đến Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc viếng, chia buồn sâu sắc và ghi sổ tang trước việc đồng chí Nguyễn Phú Trọng từ trần. Đồng chí Tập Cận Bình khẳng định, Trung Quốc luôn ghi nhớ những đóng góp to lớn của đồng chí Nguyễn Phú Trọng trong việc thúc đẩy quan hệ hữu nghị truyền thống "vừa là đồng chí, vừa là anh em" giữa hai nước Việt Nam – Trung Quốc. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc kiên định ủng hộ Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đoàn kết, lãnh đạo nhân dân Việt Nam vững bước trên con đường phát triển của mình.

Trong thư chia buồn của Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin có đoạn: “Đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã hiến dâng cả cuộc đời để phụng sự Tổ quốc. Qua nhiều năm công tác trên các cương vị trọng trách của Nhà nước và Đảng, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đã nhận được sự kính trọng sâu sắc của người dân Việt Nam và có uy tín lớn trên trường quốc tế. Nước Nga sẽ nhớ đến Tổng Bí thư như một người bạn thật sự có đóng góp cá nhân to lớn cho việc thiết lập và phát triển quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện giữa Moskva và Hà Nội”. Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres chia sẻ đau thương và mất mát to lớn của nhân dân Việt Nam trước sự ra đi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Tổng Thư ký nhấn mạnh, dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư, Việt Nam tiếp tục con đường phát triển mạnh mẽ trở thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh hàng đầu thế giới và là một đối tác quan trọng của Liên hợp quốc. Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc Dennis Francis ca ngợi Tổng Bí thư là một nhà lãnh đạo tận tụy, đã cống hiến cho Tổ quốc mình trong hơn một thập kỷ qua.

Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden gửi lời chia buồn sâu sắc tới nhân dân Việt Nam và gia đình Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về mất mát to lớn này. Thông điệp của Tổng thống Biden có đoạn viết: “Nhờ tầm nhìn của Ngài Tổng Bí thư, trong chuyến thăm cấp nhà nước năm 2023 của tôi tới Hà Nội, Việt Nam và Hoa Kỳ đã trở thành "Đối tác chiến lược toàn diện", mức độ đối tác cao nhất trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Nhờ tình hữu nghị giữa hai nước chúng ta, người dân Việt Nam và Hoa Kỳ cũng như người dân trên khắp khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương ngày nay được sống trong môi trường an ninh và những cơ hội lớn hơn. Đó là nhờ công lao của Ngài Tổng Bí thư. Đất nước Hoa Kỳ và cá nhân tôi sẽ luôn ghi nhớ, đánh giá cao cam kết của Ngài trong hàn gắn và xây dựng một tương lai vì hòa bình, ổn định và thịnh vượng của khu vực và trên thế giới. Chúng tôi tôn vinh di sản của Ngài Tổng Bí thư và cùng với người dân Việt Nam xin được tỏ lòng tiếc thương sự ra đi của Ngài”.

Bức điện của Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk Yeol có đoạn viết: “Tôi cảm thấy tiếc thương vô hạn trước tin Ngài Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhà lãnh đạo vĩ đại của đất nước Việt Nam từ trần. Thay mặt cho Chính phủ và nhân dân Hàn Quốc, tôi thành kính chia buồn cùng gia quyến và nhân dân Việt Nam đã mất đi một nhà lãnh đạo đáng kính. Những thành tựu và tâm nguyện của Ngài Tổng Bí thư vì sự phát triển rực rỡ của đất nước Việt Nam và nhằm làm sâu sắc quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam và Hàn Quốc sẽ còn mãi trong tâm trí của Nhân dân hai nước”. Bức điện của Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio có đoạn viết: “Tôi vô cùng bàng hoàng và đau buồn khi nhận được tin Ngài Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ trần. Thay mặt Chính phủ và Nhân dân Nhật Bản, tôi xin gửi lời chia buồn sâu sắc nhất tới Chính phủ, Nhân dân Việt Nam cũng như toàn thể gia quyến Ngài Tổng Bí thư”. Đặc biệt, theo thông cáo đăng tải trên nhật báo Granma, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Cuba, Cuba để tang chính thức tưởng niệm Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ 6h ngày 20/7 tới 24h ngày 21/7 (giờ địa phương), trong khi nghi thức Quốc tang sẽ diễn ra trong cả ngày 22/7 để bày tỏ tiếc thương sâu sắc Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng… Về dư luận quốc tế, trên nhiều tờ báo lớn của các quốc gia cũng có những bài viết, hình ảnh ca ngợi công lao của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Đưa ra những luận điệu xuyên tạc, phản cảm, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã phải nhận về sự phản đối, tẩy chay của cộng đồng mạng. Đối với nhiều người, mọi hành động bôi nhọ Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không thể làm hoen ố hình ảnh người Cộng sản chân chính vừa mất mà qua đó cho thấy bộ mặt xấu xa, hành vi ti tiện của những kẻ xảo trá, luôn nhân danh “đấu tranh vì dân chủ, công bằng xã hội”.

NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

 Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự sáng tạo độc đáo của Hồ Chí Minh. Người đã thành công trong vận dụng, sáng tạo học thuyết Mác – Lênin về quy luật ra đời của đảng cộng sản: “Chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”.

Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ thống quan điểm và học thuyết khoa học về con đường giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi chế độ áp bức, bóc lột bất công, tiến tới thực hiện sự nghiệp giải phóng con người. Học thuyết này được sáng lập bởi C. Mác, Ph. Ăngghen, sau đó được V.I. Lênin vận dụng và phát triển trong thực tiễn. Trên phạm vi thế giới, chỉ có chủ nghĩa Mác-Lênin phân tích đúng bản chất, phê phán chủ nghĩa tư bản sâu sắc nhất, triệt để nhất.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển của các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”

Tại Đại hội VI (12/1986), Đảng ta nhấn mạnh: “Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh . Đến Đại hội VII (6/1991), Đảng bổ sung điểm mới: “Nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh”; đồng thời khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam và tư tưởng của Người đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và dân tộc ta. Từ đây, chủ nghĩa Mác - Lênin cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh được xác định nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991) được thông qua tại Đại hội VII đã xác định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động”. Đây là bước phát triển lớn trong tư duy, nhận thức và hoạt động thực tiễn của Đảng về việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện thực tiễn của Việt Nam, đồng thời thể hiện rõ quan điểm nhất quán về mặt tư tưởng: chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là bộ phận cơ bản cấu thành hệ tư tưởng, thế giới quan, phương pháp luận của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều này không chỉ bảo đảm sự thống nhất nhận thức trong toàn Đảng mà còn thể hiện rõ lập trường kiên định, ý chí quyết tâm của Đảng trong việc bảo vệ tính khoa học, tính cách mạng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu khủng hoảng, sụp đổ những năm đầu của thập kỷ 90.

Kế thừa tinh thần đó, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta cũng khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Điều này tiếp tục được nhấn mạnh hơn ở Đại hội XII (năm 2016): “Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta”.

Với những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của đổi mới đất nước, tại Đại hội XIII (năm 2021), Đảng ta vẫn tiếp tục khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh là “kim chỉ nam” cho mọi hành động của Đảng. Đại hội XIII đã nêu rõ quan điểm chỉ đạo quá trình đổi mới và phát triển ở Việt Nam. Đó là: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”. Đây được coi là một trong những vấn đề “mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”.

 

Lật tẩy chiêu trò bôi nhọ

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần là một mất mát vô cùng to lớn của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Trong khi nhân dân cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài và nhiều quốc gia, tổ chức trên thế giới dành sự tôn kính, tiếc thương về sự ra đi của người đứng đầu Đảng ta thì các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lại đưa ra những luận điệu sai trái, xuyên tạc.

Thế nhưng với bản chất chống phá Việt Nam, trên các trang mạng xã hội của các thế lực thù địch, phản động, các phần tử cơ hội chính trị lại có những bài viết, hình ảnh, video phản cảm nhằm xuyên tạc, phủ nhận những cống hiến, đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một trong số các tổ chức thường xuyên tung tin sai trái, xuyên tạc là tổ chức phản động, khủng bố Việt Tân. Trên trang mạng xã hội, tổ chức này đưa ra lời lẽ lố bịch rằng “Đảng trưởng của một Đảng độc tài, dù có công cũng chỉ là có công với Đảng của họ, còn đối với đất nước chỉ có tội…”. Trang này còn vu cáo rằng “Triều đại của ông Trọng đã phơi bày tình trạng đấu đá nội bộ gay gắt, không quan tâm đến đời sống người dân”; đưa ra luận điệu lố bịch xuyên tạc Tổng Bí thư “là người cuồng tín chủ nghĩa Mác, Lênin”, “kìm kẹp sự phát triển của đất nước”…

Trên một số trang mạng cá nhân của các đối tượng chống đối đã đưa ra những bình luận hùa theo, phủ nhận thành quả công cuộc phòng, chống tham nhũng dưới sự chỉ đạo của Tổng Bí thư, nói rằng “công cuộc đốt lò thất bại hoàn toàn”, “còn lại điều gì từ công cuộc củi, lửa”, “cụ Tổng đi, lò lửa tắt, nhiều kẻ theo đóm ăn tàn”…

Bên cạnh đó, ngày 21/7/2024, Việt Tân còn tổ chức ra cái gọi là “Diễn đàn ước mơ canh tân” dưới dạng hội luận với chủ đề “Ông Nguyễn Phú Trọng qua đời, tình hình Việt Nam sẽ chuyển biến ra sao”? Hội luận dưới sự chủ trì của Lý Thái Hùng và khách mời là các đối tượng bất mãn, thù địch với Việt Nam như thành viên cái gọi là “Hội anh em dân chủ” Nguyễn Văn Đài. Họ còn xảo biện rằng “công cuộc đốt lò sẽ lụi tàn” khi “người đốt lò vĩ đại đã nằm xuống”, “tất cả chỉ còn công cốc”… Ngoài ra, đối tượng Lê Quốc Quân cũng đăng tải bài viết “Di sản Nguyễn Phú Trọng” với nội dung xuyên tạc, hạ bệ những thành tựu mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đạt được trong nhiều năm qua, nhất là công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, những thành tựu trong lĩnh vực ngoại giao.

Thực tế cho thấy, trước sự mất mát của một nhà lãnh đạo được nhân dân quý trọng, một nhân cách lớn, sự tiếc thương về người bạn chí nghĩa, chí tình được lãnh đạo các nước, các tổ chức quốc tế đánh giá cao thì các thế lực thù địch, phản động càng thể hiện bộ mặt đớn hèn, đáng xấu hổ, phản văn hóa. Mục đích của các đối tượng nhằm bôi xấu, kích động chia rẽ trong nội bộ, gây nên sự phân tâm trong các tầng lớp nhân dân về cuộc đời, sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Từ đó, tạo ra sự lo lắng về vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, phá hoại khối đoàn kết trong Đảng, Nhà nước và nhân dân.