Thứ Tư, 20 tháng 11, 2024

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: THƯ CỦA ĐẠI TƯỚNG PHAN VĂN GIANG CHÚC MỪNG ĐỘI NGŨ NHÀ GIÁO, CÁN BỘ QUẢN LÝ GIÁO DỤC TRONG QUÂN ĐỘI!

         Thân ái gửi đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục trong Quân đội nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20 tháng 11 năm 2024!

Các đồng chí thân mến!

Nhân dịp kỷ niệm 42 năm ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982 - 20/11/2024), thay mặt Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, tôi thân ái gửi tới các thế hệ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục đã và đang công tác trong Quân đội lời thăm hỏi ân cần và lời chúc mừng tốt đẹp nhất.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm sâu sắc và phát huy vai trò quyết định của đội ngũ nhà giáo trong việc nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị, học viện, nhà trường; các thế hệ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục trong Quân đội luôn thấm nhuần truyền thống của dân tộc và bản chất tốt đẹp, truyền thống vẻ vang của quân đội của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, đoàn kết, đổi mới, sáng tạo, tự lực, tự cường, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; tích cực, chủ động triển khai thực hiện bước đầu có hiệu quả Đề án “Xây dựng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục trong Quân đội giai đoạn 2023 - 2030 và những năm tiếp theo”, lập được nhiều thành tích trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học và quản lý giáo dục, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm học 2023 - 2024, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong Quân đội, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh trong tình hình mới.

Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng ghi nhận, biểu dương, khen ngợi những thành tích của các học viện, nhà trường và đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục trong Quân đội đạt được trong thời gian vừa qua.

Các đồng chí thân mến!

Sự nghiệp xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đang đặt ra yêu cầu phải đổi mới căn bản, toàn diện và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo; các nhà trường Quân đội cần tập trung quán triệt, cụ thể hóa, thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về giáo dục và đào tạo. Tăng cường quản lý, đào tạo, bồi dưỡng, tạo điều kiện thuận lợi để xây dựng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; có phẩm chất đạo đức trong sáng, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm; có trình độ cao, kiến thức tiên tiến, năng lực toàn diện; có cơ cấu hợp lý, đủ về số lượng, bảo đảm sự chuyển tiếp vững chắc giữa các thế hệ, giữa nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; tiếp tục đổi mới công tác giáo dục và đào tạo theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa và vận dụng tốt 3 quan điểm, 8 nguyên tắc, 6 mối kết hợp trong huấn luyện, giáo dục và đào tạo. Tăng cường gắn kết chặt chẽ hơn nữa giữa nhà trường với đơn vị; gắn đào tạo, bồi dưỡng với sử dụng; đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng nhanh, có hiệu quả các thành tựu của khoa học công nghệ vào giảng dạy và nghiên cứu khoa học; thực hiện tốt phương châm “Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”.

Tôi mong rằng, mỗi thầy giáo, cô giáo, mỗi cán bộ quản lý giáo dục trong Quân đội luôn nhận thức sâu sắc niềm vinh dự, tự hào và trách nhiệm lớn lao với sự nghiệp giáo dục và đào tạo trong Quân đội; không ngừng tu dưỡng, rèn luyện; thực sự là tấm gương tiêu biểu, mẫu mực về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tư duy, năng lực, phương pháp công tác; phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao; đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chúc các đồng chí mạnh khoẻ, hạnh phúc và không ngừng tiến bộ.

Chào thân ái và quyết thắng!

Đại tướng PHAN VĂN GIANG./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TRÁCH NHIỆM CỦA THANH NIÊN KHI LÊN ĐƯỜNG BẢO VỆ TỔ QUỐC!

     Thanh niên là lực lượng nòng cốt, là tương lai của đất nước. Mỗi khi Tổ Quốc cần, thanh niên Việt Nam luôn là những người tiên phong, sẵn sàng đối mặt với mọi khó khăn, hiểm nguy để bảo vệ bình yên cho quê hương. Lên đường nhập ngũ và cống hiến cho Tổ Quốc không chỉ là nghĩa vụ, mà còn là trách nhiệm thiêng liêng của mỗi thanh niên!

           Khi thanh niên lên đường bảo vệ Tổ Quốc, trước hết đó là sự thể hiện tinh thần yêu nước. Lòng yêu nước không chỉ là tình yêu với đất đai, non sông mà còn là sự sẵn sàng hy sinh vì sự độc lập, tự do của dân tộc. Thanh niên nhận thức rõ rằng, sự bình yên mà họ đang hưởng thụ là nhờ công lao của các thế hệ đi trước đã hy sinh, đấu tranh. Họ ý thức rõ trách nhiệm của mình để giữ gìn những thành quả đó cho thế hệ tương lai.

           Bên cạnh đó, lên đường bảo vệ Tổ Quốc cũng là cơ hội để thanh niên tôi luyện bản thân. Quá trình rèn luyện trong quân ngũ giúp các bạn trẻ học hỏi thêm nhiều kỹ năng sống, xây dựng phẩm chất kiên cường, ý chí sắt đá và tinh thần đoàn kết. Đó là những điều quý giá, tạo nên bản lĩnh để các bạn có thể vượt qua mọi thử thách trong cuộc sống.

          Trách nhiệm của thanh niên khi lên đường bảo vệ Tổ Quốc còn là trách nhiệm với gia đình và xã hội. Họ không chỉ là niềm tự hào của gia đình mà còn là tấm gương sáng về tinh thần trách nhiệm và lòng dũng cảm cho cộng đồng, cho các thế hệ trẻ noi theo. Những người thanh niên lên đường nhập ngũ đã gác lại những ước mơ riêng, để ưu tiên cho sự bình yên của hàng triệu đồng bào, cho tương lai của đất nước.

          Trách nhiệm của thanh niên khi lên đường bảo vệ Tổ Quốc không dừng lại ở việc hoàn thành nghĩa vụ quân sự, mà còn là trách nhiệm duy trì và phát huy tinh thần yêu nước, sẵn sàng đóng góp cho xã hội sau khi trở về. Họ sẽ là những công dân gương mẫu, tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

          Thanh niên Việt Nam - những người trẻ với trái tim nóng bỏng, luôn sẵn sàng lên đường khi Tổ Quốc gọi tên. Đây không chỉ là trách nhiệm mà còn là niềm tự hào lớn lao, là tiếng gọi của tình yêu Tổ Quốc trong mỗi con người. Và dù ở bất cứ đâu, bất cứ thời điểm nào, thanh niên vẫn luôn kiên định một lòng, gánh vác trách nhiệm thiêng liêng, vì một Việt Nam hòa bình và hạnh phúc./.




Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: BỘ QUỐC PHÒNG THƯỞNG GẤP 8 LẦN LƯƠNG CƠ SỞ CHO QUÂN NHÂN HOÀN THÀNH XUẤT SẮC NHIỆM VỤ!

     Ngày 12/11, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã ban hành Thông tư số 95/2024/TT-BQP, đưa ra các hướng dẫn cụ thể về chế độ tiền thưởng cho các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước do Bộ Quốc phòng quản lý. Thông tư này quy định rõ ràng chế độ thưởng định kỳ hàng năm và thưởng đột xuất, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 25/12/2024. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã ban hành Thông tư số 95/2024/TT-BQP, đưa ra các hướng dẫn cụ thể về chế độ tiền thưởng cho các đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước do Bộ Quốc phòng quản lý!

Theo đó, đối tượng áp dụng của Thông tư gồm: Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng, viên chức quốc phòng và công chức làm việc trong Quân đội (công chức quốc phòng); người làm công tác cơ yếu, người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu tại Ban Cơ yếu Chính phủ và các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan. Theo Thông tư, những đối tượng được đánh giá từ mức độ hoàn thành nhiệm vụ trở lên sẽ nhận tiền thưởng định kỳ hàng năm, với các mức thưởng cụ thể được phân loại theo mức độ hoàn thành nhiệm vụ và sẽ tăng dần từ năm 2024 đến năm 2025.

Theo đó, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đối với năm 2024, mức thưởng là 4 lần mức lương cơ sở, và từ năm 2025 trở đi sẽ nâng lên 8 lần. Hoàn thành tốt nhiệm vụ với năm 2024, các đối tượng này sẽ nhận thưởng bằng 3,5 lần mức lương cơ sở và tăng lên 7 lần mức lương cơ sở từ năm 2025. Hoàn thành nhiệm vụ với năm 2024, mức thưởng là 1,5 lần mức lương cơ sở, và từ năm 2025 trở đi là 3 lần.

Các trường hợp hưởng lương từ ngân sách nhà nước trong 7 tháng trở lên trong năm sẽ được nhận đủ mức thưởng như quy định. Nếu thời gian hưởng lương dưới 7 tháng, đối tượng sẽ nhận 50% mức thưởng đã nêu. Bên cạnh chế độ thưởng định kỳ, Thông tư 95 cũng quy định cụ thể chế độ thưởng đột xuất cho các cá nhân có thành tích nổi bật ngoài kế hoạch công tác thường xuyên. Các thành tích này thường diễn ra trong những hoàn cảnh bất ngờ, không lường trước và vượt ngoài phạm vi nhiệm vụ được giao. Mức thưởng đột xuất sẽ tuân thủ theo quy chế của Bộ Quốc phòng.

Đặc biệt, đối với những trường hợp đã đạt được các thành tích đặc biệt nhưng không thể thăng quân hàm hoặc nâng lương trước thời hạn vì lý do như đã đạt quân hàm cao nhất hoặc bậc lương cuối cùng, hoặc không còn thời gian công tác để xét thăng bậc lương, Bộ Quốc phòng sẽ xem xét trao thêm một khoản thưởng đặc biệt bằng một tháng tiền lương. Khoản thưởng này được tính theo mức lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội tại thời điểm cá nhân lập thành tích.

Ngoài ra, trong trường hợp cùng thực hiện một nhiệm vụ có nhiều mức thưởng, cá nhân sẽ được nhận mức thưởng cao nhất. Thông tư 95 nêu rõ, chế độ tiền thưởng đột xuất không áp dụng cho các trường hợp được khen thưởng theo Luật Thi đua Khen thưởng với các hình thức như khen thưởng công trạng, khen thưởng phong trào thi đua, khen thưởng quá trình cống hiến, và khen thưởng đối ngoại. Thông tư số 95/2024/TT-BQP sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 25/12/2024. Đối với chế độ tiền thưởng định kỳ hàng năm, các quy định tại Thông tư này sẽ được triển khai từ ngày 1/7/2024./.
Môi trường ST.

ĐỀ XUẤT CHÍNH SÁCH TRỢ CẤP CÁN BỘ KHÔNG ĐỦ TUỔI TÁI CỬ TỰ NGUYỆN NGHỈ HƯU SỚM!

     Bộ Nội vụ đang lấy ý kiến cho Dự thảo Nghị định Quy định chế độ, chính sách với cán bộ không đủ tuổi tái cử, tái bổ nhiệm giữ các chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan nghỉ công tác.

Cán bộ không đủ điều kiện về tuổi tái cử, tái bổ nhiệm có thời gian đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc từ đủ 15 năm trở lên, nếu có đơn tự nguyện xin nghỉ hưu trước tuổi gửi cơ quan quản lý cán bộ thì được hưởng chế độ hưu trí theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội và không bị trừ tỷ lệ lương hưu do việc nghỉ hưu trước tuổi.

Đây là đề xuất của Bộ Nội vụ tại dự thảo Nghị định Quy định chế độ, chính sách đối với cán bộ không đủ tuổi tái cử, tái bổ nhiệm giữ các chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị-xã hội nghỉ công tác.

Dự thảo Nghị định này đang được lấy ý kiến rộng rãi.
Theo dự thảo, các cán bộ thuộc diện trên còn được trợ cấp 3 tháng tiền lương bình quân cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định; được trợ cấp 5 tháng tiền lương bình quân cho tổng số 15 năm đầu công tác, có đóng bảo hiểm xã hội; từ năm 16 trở đi, cứ mỗi năm công tác có đóng bảo hiểm xã hội được trợ cấp 1/2 tháng tiền lương.

Đối với cán bộ xếp lương chức vụ, nếu đã xếp lương bậc 1 của chức danh hiện đảm nhiệm đủ 48 tháng thì được xếp lên bậc 2 của chức danh hiện đảm nhiệm để nghỉ hưu.

Đối với cán bộ xếp lương chuyên môn, nghiệp vụ và hưởng phụ cấp chức vụ lãnh đạo, cán bộ chưa xếp bậc lương cuối cùng ở ngạch hiện giữ và còn thiếu từ 1-12 tháng để được nâng bậc lương thường xuyên theo quy định thì được nâng bậc lương trước thời hạn để nghỉ hưu.

Cán bộ đang hưởng bậc lương cuối cùng hoặc đang hưởng phụ cấp thâm niên vượt khung ở ngạch hiện giữ, đã có bằng tốt nghiệp đại học trở lên thì được nâng ngạch không qua thi lên ngạch trên liền kề để nghỉ hưu.

Dự thảo Nghị định quy định, tiền lương bình quân để tính trợ cấp được xác định bằng bình quân tiền lương tháng thực lĩnh của 5 năm cuối trước khi nghỉ hưu, bao gồm: Mức lương chức vụ hoặc mức lương theo ngạch, bậc; các khoản phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề, mức chênh lệch bảo lưu lương, phụ cấp công tác đảng (nếu có).

Thời gian công tác tính hưởng trợ cấp là tổng thời gian công tác có đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc nhưng chưa hưởng trợ cấp thôi việc hoặc chưa hưởng chế độ bảo hiểm xã hội một lần hoặc chưa hưởng chế độ phục viên, xuất ngũ.

Nếu tổng thời gian tính trợ cấp có tháng lẻ thì được tính tròn theo nguyên tắc, từ 1 tháng đến đủ 6 tháng tính là 1/2 năm và được hưởng trợ cấp bằng mức trợ cấp của 1/2 năm; từ trên 6 tháng đến dưới 12 tháng tính tròn là 1 năm.

Về chế độ, chính sách đối với cán bộ không đủ điều kiện về tuổi tái cử, tái bổ nhiệm được nghỉ công tác chờ đủ tuổi sẽ nghỉ hưu, dự thảo nghị định quy định, cán bộ không đủ điều kiện về tuổi tái cử, tái bổ nhiệm còn dưới 2 năm (24 tháng) công tác sẽ đến tuổi nghỉ hưu theo quy định, nếu không bố trí được vị trí công tác phù hợp và không có nguyện vọng nghỉ hưu trước tuổi thì được nghỉ công tác chờ đủ tuổi sẽ nghỉ hưu.

Trong thời gian nghỉ công tác chờ đủ tuổi sẽ nghỉ hưu, những cán bộ này vẫn thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan nơi công tác và được hưởng nguyên mức lương chức vụ hoặc mức lương theo ngạch, bậc, phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề, mức chênh lệch bảo lưu lương, phụ cấp công tác đảng (nếu có).

Các chế độ khác như chế độ phục vụ, chế độ điện thoại (nếu có) thôi hưởng kể từ tháng liền kề sau tháng có quyết định nghỉ công tác chờ đủ tuổi sẽ nghỉ hưu.

Trường hợp các cán bộ này nếu khi đang công tác thuộc diện được sử dụng thường xuyên xe ôtô con phục vụ công tác, nếu tham gia các cuộc họp, hội nghị hoặc đi khám chữa bệnh thì báo cơ quan nơi công tác để bố trí xe đưa đón.

Trường hợp cơ quan nơi công tác không bố trí được xe đưa đón thì chủ động phương tiện đi lại và được thanh toán theo quy định hiện hành. Cán bộ thuộc diện nghỉ công tác chờ đủ tuổi sẽ nghỉ hưu không tính vào biên chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: LỊCH SỬ NGÀY 20/11: NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA NGÀY HIẾN CHƯƠNG NHÀ GIÁO VIỆT NAM!

         20/11 là ngày Nhà giáo Việt Nam. Tuy nhiên không phải ai cũng biết nguồn gốc lịch sử và ý nghĩa ngày lễ quan trọng này!

Tôn sư trọng đạo là truyền thống đạo lý mang đậm giá trị nhân văn của dân tộc Việt Nam. Ngày 20/11 là ngày Nhà giáo Việt Nam (tên đầy đủ là Ngày lễ Hiến chương Nhà giáo Việt Nam), đây là một trong những ngày lễ kỷ niệm quan trọng nhằm tri ân các thầy cô và những người hoạt động trong ngành giáo dục.

Tuy nhiên, không phải ai cũng biết về lịch sử và ý nghĩa ngày 20/11.

Vào tháng 01/1946, tại Paris, một tổ chức quốc tế các nhà giáo tiến bộ đã ra đời với tên gọi là FISE (Fédération Internationale Syndicale des Enseignants - Liên hiệp Quốc tế các Công đoàn Giáo dục).

Năm 1949 tại Hội nghị quốc tế Vacsava, FISE đã xây dựng bản Hiến chương các nhà giáo gồm 15 chương. Nội dung hiến chương tập trung vào việc đấu tranh chống lại hệ thống giáo dục tư bản, phong kiến; xây dựng một nền giáo dục tiến bộ, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các nhà giáo. 

Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, Công đoàn Giáo dục Việt Nam liên kết với FISE để tố cáo âm mưu xâm lược của đế quốc đối với nhân dân ta, đồng thời giới thiệu thành tích của nền giáo dục cách mạng.

Vào mùa xuân năm 1953, dưới sự hướng dẫn của Thứ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Nguyễn Khánh Toàn, Công đoàn Giáo dục Việt Nam đã tham gia hội nghị FISE tại Viên (Áo) và trở thành thành viên của tổ chức này.

Từ ngày 26 đến 30/8/1957, tại Thủ đô Vacsava, hội nghị FISE với sự tham gia của 57 quốc gia, trong đó có Việt Nam, đã quyết định chọn ngày 20 tháng 11 làm Ngày Quốc tế Hiến chương các nhà giáo. 

Lần đầu tiên, vào ngày 20/11/1958, ngày "Quốc tế Hiến chương các nhà giáo" được tổ chức trên khắp miền Bắc nước ta. Ngày 28/9/1982, theo nghị định của ngành Giáo dục, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Quyết định số 167 - HĐBT về ngày Nhà giáo Việt Nam, chính thức xác định ngày 20/11 là ngày Nhà giáo Việt Nam.

Từ đó đến nay, ngày này trở thành ngày truyền thống của ngành giáo dục để tôn vinh và tri ân những người làm công tác trồng người. Đây cũng là dịp để học trò bày tỏ lòng biết ơn đến thầy cô của mình bằng các bó hoa hay các lá thư mang lời hay ý đẹp.

Ngoài ra, đây cũng là thời gian ban ngành giáo dục nhìn lại và đánh giá hiệu quả của các hoạt động giáo dục và lập phương hướng cho các cải tiến trong dạy và học./.


Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: MÃI MÃI TỰ HÀO VỀ QUÂN ĐỘI ANH HÙNG CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM!

     Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội. Tại lễ kỷ niệm 20 năm Ngày thành lập QĐND Việt Nam (22/12/1944 - 22/12/1964), Người đã nói: “Quân đội ta là Quân đội anh hùng của dân tộc anh hùng”.

Ngược dòng lịch sử, cách đây 80 năm, thực hiện Chỉ thị của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 22/12/1944, tại khu rừng giữa tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập gồm 34 chiến sĩ. Thực hiện Chỉ thị của Đảng: “Trận đầu nhất định phải thắng lợi”, vào hồi 17 giờ, ngày 25/12/1944 (chỉ 3 ngày sau khi thành lập), các chiến sĩ của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã mưu trí, táo bạo, bất ngờ đánh chiếm đồn Phai Khắt và 7 giờ sáng ngày 26/12/1944, Đội đã đánh chiếm Đồn Nà Ngần.

Chưa đầy 1 năm sau, chiến công nối tiếp chiến công, Quân đội ta đã cùng với toàn dân vượt qua khó khăn, gian khổ, tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa trong cả nước, đưa Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến thắng lợi hoàn toàn, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.

Tiếp đó, trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Quân đội ta đã cùng nhân dân cả nước tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, liên tiếp giành chiến thắng trong các chiến dịch lớn như: Việt Bắc (Thu Đông năm 1947), Biên giới (năm 1950), Hòa Bình (năm 1951), Tây Bắc (năm 1952), Thượng Lào (năm 1953), mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ (năm 1954) “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ, mở ra một giai đoạn cách mạng mới, đưa miền Bắc tiến lên CNXH, làm hậu phương vững chắc để tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, dù phải đương đầu với đội quân cường bạo nhất thế giới, Quân đội ta đã cùng với toàn dân vừa bảo vệ vững chắc hậu phương lớn miền Bắc, vừa chiến đấu dũng cảm, liên tục chiến thắng trên các chiến trường miền Nam như: Ấp Bắc, Bình Giã, Đồng Xoài, Ba Gia, Núi Thành, Vạn Tường, Plây-me..., rồi thắng lợi lớn trong các chiến dịch: Mậu Thân (năm 1968), Đường 9 - Nam Lào (năm 1971), Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không (năm 1972), tiếp đó là đại thắng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước đưa cả nước đi lên CNXH. Như vậy, quân đội ta đã làm nên những kỳ tích hào hùng của thời đại Hồ Chí Minh.

Từ năm 1975 đến nay, Quân đội ta không những là lực lượng nòng cốt cùng toàn dân giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, mà còn bảo vệ vững chắc Đảng, Nhà nước, nhân dân, bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng và chế độ XHCN, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Đồng thời, Quân đội cũng luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, đập tan mọi thủ đoạn, mọi âm mưu và hành động xâm phạm chủ quyền biên giới, biển, đảo của Tổ quốc. Các cán bộ, chiến sĩ Quân đội đã cùng với toàn dân tích cực xây dựng nông thôn mới, góp phần quan trọng vào việc củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dưng "thế trận lòng dân". Quân đội còn là lực lượng chính, xung kích đi đầu trong phòng, chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ; thực hiện tốt việc hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, góp phần cùng toàn dân nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Trong gần 80 năm qua, dù phải đương đầu với những thủ đoạn, âm mưu xảo quyệt của kẻ thù, dù phải trải qua nhiều hy sinh, gian khổ nhưng Quân đội ta luôn giữ vững phẩm chất "Bộ đội Cụ Hồ", tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, nhân dân, luôn sáng tạo, chủ động, mưu trí, dũng cảm, luôn phát huy cao độ tinh thần quyết chiến, quyết thắng, liên tiếp lập nên những chiến công hiển hách, đúng như Bác Hồ đã khen ngợi: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì CNXH, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

Trong thời kỳ cách mạng mới, để tiếp tục xứng đáng là Quân đội anh hùng của dân tộc anh hùng, để tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang của QĐND Việt Nam, theo định hướng của Đại hội lần thứ XIII của Đảng, toàn quân coi trọng việc xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp, nâng cao sức mạnh chiến đấu của Quân đội; giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội. Đồng thời, chăm lo xây dựng đảng bộ các cấp trong Quân đội trong sạch, vững mạnh; kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch...

Cùng với đó, tập trung xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, làm nòng cốt cùng toàn dân hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chú trọng đổi mới và nâng cao chất lượng huấn luyện, chất lượng diễn tập để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong mọi tình huống. Mặt khác, tạo ra sự chuyển biến toàn diện, vững chắc về việc chấp hành pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Quân đội, tích cực giúp đỡ nhân dân trong mọi hoàn cảnh, tô thắm phẩm chất tốt đẹp của "Bộ đội Cụ Hồ" trong thời kỳ mới./.

Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: ĐỀ XUẤT CÔNG CHỨC NGHỈ HƯU TRƯỚC TUỔI GIỮ NGUYÊN LƯƠNG HƯU!

     Bộ Nội vụ đề xuất cán bộ không đủ điều kiện về tuổi tái cử, tái bổ nhiệm nghỉ hưu trước tuổi không bị trừ tỉ lệ lương hưu do việc nghỉ hưu trước tuổi!

Bộ Nội vụ đang lấy ý kiến dự thảo Nghị định quy định chế độ, chính sách đối với cán bộ không đủ tuổi tái cử, tái bổ nhiệm giữ các chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ (trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội) nghỉ công tác.

Theo đó, dự thảo nghị định quy định chế độ, chính sách đối với cán bộ không đủ điều kiện về tuổi tái cử, tái bổ nhiệm nghỉ hưu trước tuổi.

Cán bộ không đủ tuổi tái cử, tái bổ nhiệm có thời gian đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc đủ 15 năm trở lên, nếu có đơn tự nguyện xin nghỉ hưu trước tuổi gửi cơ quan quản lý cán bộ thì được hưởng chế độ hưu trí theo quy định của pháp luật về BHXH và được hưởng thêm các chế độ khác, gồm:

- Không bị trừ tỉ lệ lương hưu do việc nghỉ hưu trước tuổi; được trợ cấp 3 tháng tiền lương bình quân cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi so với tuổi nghỉ hưu quy định.

- Ngoài ra, còn được trợ cấp 5 tháng tiền lương bình quân cho tổng số 15 năm đầu công tác, có đóng BHXH; từ năm 16 trở đi, cứ mỗi năm công tác có đóng BHXH được trợ cấp 1/2 tháng tiền lương.

- Đối với cán bộ xếp lương chức vụ, nếu đã xếp lương bậc 1 của chức danh hiện đảm nhiệm đủ 48 tháng thì được xếp lên bậc 2 của chức danh hiện đảm nhiệm để nghỉ hưu.

- Đối với cán bộ xếp lương chuyên môn, nghiệp vụ và hưởng phụ cấp chức vụ lãnh đạo: Cán bộ chưa xếp bậc lương cuối cùng ở ngạch hiện giữ và còn thiếu từ 1 đến 12 tháng để được nâng bậc lương thường xuyên theo quy định thì được nâng bậc lương trước thời hạn để nghỉ hưu.

- Cán bộ đang hưởng bậc lương cuối cùng hoặc đang hưởng phụ cấp thâm niên vượt khung ở ngạch hiện giữ, đã có bằng tốt nghiệp đại học trở lên thì được nâng ngạch không qua thi lên ngạch trên liền kề để nghỉ hưu.

Tiền lương bình quân để tính trợ cấp được xác định bằng bình quân tiền lương tháng thực lĩnh của 5 năm cuối trước khi nghỉ hưu, bao gồm: Mức lương chức vụ hoặc mức lương theo ngạch, bậc; các khoản phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề, mức chênh lệch bảo lưu lương, phụ cấp công tác Đảng (nếu có)./.
Môi trường ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: KHIÊM NHƯỜNG MỘT PHÂN, TÔN QUÝ VẠN PHẦN!

     Có một số người khi được giao quản lý một nguồn lực nào đó của cơ quan, thay vì hiểu rằng bổn phận của mình là giúp cơ quan bảo quản, vận hành và khai thác tốt nguồn lực tài sản, thì họ lại “tự tung tự tác”, tự cho mình quyền hạn như là chủ nhân thực sự của nguồn tài sản đó. Thế nên, thay vì khiêm nhường làm việc với đúng chức trách được giao thì họ lại tỏ ra có “quyền sinh quyền sát”, thực hiện nhiệm vụ nhưng lại như “ban phát” quyền lợi, “gia ân” cho người khác. Và đương nhiên những người được lòng hay thân thiết với họ sẽ được ưu ái nhiều hơn, trong khi những người khác sẽ gặp không ít trở ngại mặc dù đó cũng là quyền được thụ hưởng chính đáng của họ.

Câu chuyện này nghe có vẻ rất vô lý, nhưng lại là sự thực hiện hữu ở không ít công sở và được biểu hiện dưới nhiều hình thức đa dạng khác nhau.

Khi đến giao dịch ở một cơ quan nào đó, nhiều người không khỏi ngán ngẩm khi phải qua “cửa ải” đầu tiên là “ông” bảo vệ. Với nhiệm vụ “trấn giữ biên cương”, với tính chất đặc thù và phức tạp, bởi chỉ sơ sẩy một chút là có thể dẫn đến những hậu quả khôn lường, người bảo vệ phải kỹ lưỡng rà xét tất cả mọi người ra vào cơ quan mỗi ngày. Chuyện chẳng có gì đáng đưa ra bàn ở đây, nếu như bên cạnh những người bảo vệ có tâm, luôn “cần mẫn” thực hiện đầy đủ chức phận của mình với sự khiêm tốn, đúng mực, thì có những người nghĩ mình có quyền hành không giới hạn nên hạch sách tất cả mọi người, không chừa một ai, với một thái độ trịnh thượng, cửa quyền, thậm chí có lúc còn có biểu hiện thiếu văn hóa. Những người “không biết mình là ai” như vậy tuy chỉ là thiểu số, nhưng lại có ảnh hưởng không nhỏ tới không khí và tinh thần làm việc chung, vi phạm đạo đức công vụ, là những “con sâu làm rầu nồi canh” trong môi trường văn hóa công sở.

“Khiêm nhường một phân, tôn quý vạn phần”!
Nghịch lý là, trong khi đa số người đứng đầu cơ quan rất chuẩn mực, gần gũi, khiêm nhường, thì một vài thành viên có chức trách, nhiệm vụ khiêm tốn lại hay tự cho mình là quan trọng, có thái độ hách dịch vượt khỏi chức trách cho phép. Cổ nhân từng đúc kết: “Sông sâu tĩnh lặng, lúa chín cúi đầu”… Thực tế, tài giỏi là yếu tố khiến người khác nể nang nhưng khiêm nhường mới là đức tính khiến người ta trở nên cao quý. Khiêm nhường là cái gốc của “sức mạnh mềm”, vì thế, con người càng khiêm nhường bao nhiêu càng được trân quý bấy nhiêu.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là mẫu mực của đức khiêm nhường, đồng thời Người rất quan tâm giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên về đức khiêm nhường. Người phê bình thái độ của một số cán bộ “cậy thế mình ở trong ban này ban nọ, rồi ngang tàng phóng túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân”. Người căn dặn: “Cán bộ đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật... Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”.

Học tập và làm theo đức tính khiêm nhường của Bác chính là xây dựng cho mình một bản lĩnh, trí tuệ, tình yêu thương với đồng nghiệp, đồng chí, với quần chúng, bạn bè; là đức khiêm tốn, sự cầu thị tiến bộ, ý chí quyết tâm vươn lên hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng là người “đầy tớ” trung thành và tận tụy của nhân dân. Mỗi một cá nhân trong một tập thể đều có vai trò như “một cánh én nhỏ” để “làm nên mùa xuân”, do đó, dù ở vị trí, cương vị nào cũng cần làm tròn bổn phận của mình với một thái độ gương mẫu, chính trực và khiêm nhường./.
Môi trường ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: BẢO TÀNG LỊCH SỬ QUÂN SỰ RA MẮT TRÊN NÊN TẢNG SỐ!

         Bảo tàng Lịch sử Quân sự được đưa lên nền tảng số, giúp người dân ở xa có thể trải nghiệm online.
Trong đó, người dùng có thể chọn các khu vực muốn xem từ cổng vào cho tới các khu vực trưng bày và sử dụng chuột hoặc màn hình cảm ứng để xoay 360 độ. Ở mỗi khu vực, các mũi tên chỉ hướng sẽ xuất hiện để người dùng chọn hướng tham quan, tương tự trải nghiệm khi đi tham quan bảo tàng thực.
Người dùng cũng có thể bấm vào hiện vật để xem thông tin chú giải. Theo nhóm phát triển, họ đã tái hiện được khoảng 50 vị trí trong bảo tàng, cùng hơn 700 hiện vật. Ngoài ra, điểm đặc biệt khi đưa lên nền tảng số là các vị trí cũng như hiện vật được liệt kê dưới dạng danh sách, để người dùng có thể truy cập nhanh khu vực muốn tham quan.
Dự án Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam có quy mô lớn với tổng vốn đầu tư 2.500 tỷ đồng, trải rộng trên 74ha. Điểm nhấn kiến trúc là Tháp Chiến thắng cao 45m, tượng trưng cho năm 1945 - năm đất nước giành độc lập. Bảo tàng không chỉ trưng bày lịch sử chiến tranh mà còn tạo không gian trải nghiệm về cuộc đấu tranh của Quân đội nhân dân Việt Nam. Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam miễn phí vé tham quan từ nay đến hết năm 2024./.
Theo QĐND 
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: CÔNG TÁC ĐẢNG, CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ LUÔN LÀ “LINH HỒN VÀ MẠCH SỐNG” CỦA QUÂN ĐỘI!

     Đại tướng Phan Văn Giang nêu rõ, thực tiễn sinh động về những trang sử oanh liệt, hào hùng của Quân đội cũng là cột mốc đánh dấu thành tựu to lớn của công tác Đảng, công tác chính trị, qua đó khẳng định vị trí, vai trò rất quan trọng của Tổng cục Chính trị trong suốt tiến trình lịch sử xây dựng, trưởng thành, chiến thắng của Quân đội ta!

Chiều 18/11, tại Hà Nội, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học “Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam - 80 năm vững bước dưới cờ Đảng (22/12/1944 - 22/12/2024)”.

Dự Hội thảo có các Ủy viên Bộ Chính trị: Đại tướng Phan Văn Giang, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Nguyễn Trọng Nghĩa, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương; Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Thắng, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương; các đồng chí nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, lãnh đạo Bộ Quốc phòng.

Thượng tướng Trịnh Văn Quyết, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam nhấn mạnh, Hội thảo là một trong những hoạt động cụ thể, thiết thực chào mừng kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân, 80 năm Ngày truyền thống Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.

Hội thảo nhằm tiếp tục khẳng định, làm sâu sắc hơn quá trình ra đời, trưởng thành, phát triển và những đóng góp to lớn của Tổng cục Chính trị với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và của Quân đội nhân dân Việt Nam; tiếp tục phát triển lý luận, vận dụng vào thực tiễn để nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác Đảng, công tác chính trị, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội trong tình hình mới; nâng cao nhận thức của toàn dân, toàn quân về chức năng, nhiệm vụ, vai trò của Tổng cục Chính trị và công tác Đảng, công tác chính trị trong các nhiệm vụ nhằm bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam...

Phát biểu tại Hội thảo, Đại tướng Phan Văn Giang nêu rõ, thực tiễn sinh động về những trang sử oanh liệt, hào hùng của Quân đội cũng là cột mốc đánh dấu thành tựu to lớn của công tác Đảng, công tác chính trị, qua đó khẳng định vị trí, vai trò rất quan trọng của Tổng cục Chính trị trong suốt tiến trình lịch sử xây dựng, trưởng thành, chiến thắng của Quân đội ta. Với những thành tích đặc biệt xuất sắc, cống hiến to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của Quân đội, Tổng cục Chính trị đã xây đắp nên truyền thống vẻ vang: "Trung thành, kiên định; gương mẫu, tiêu biểu; nguyên tắc, dân chủ; chủ động, sáng tạo; nhạy bén, sắc sảo; đoàn kết, thống nhất; quyết chiến quyết thắng"; được Đảng, Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý.

“Hội thảo là dịp để chúng ta tiếp tục nghiên cứu một cách hệ thống, sâu sắc, toàn diện hơn về quá trình ra đời, trưởng thành, phát triển và những đóng góp to lớn của Tổng cục Chính trị..., rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu từ khói lửa chiến tranh, làm nhiệm vụ quốc tế cao cả và thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc; không ngừng bổ sung, phát triển lý luận, cung cấp luận cứ khoa học, xác đáng, làm cơ sở để Tổng cục Chính trị tham mưu, giúp Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đề xuất với Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, chính sách xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn phát triển mới của đất nước”, Đại tướng Phan Văn Giang khẳng định.

Tại Hội thảo, bằng quan điểm, phương pháp luận khoa học cùng với tầm nhìn, tư duy đổi mới, sáng tạo và thực tiễn phong phú, các đại biểu đã làm sâu sắc hơn giá trị truyền thống quý báu của Tổng cục Chính trị; tổng kết, khái quát những bài học kinh nghiệm có giá trị trong công tác phối hợp giữa Tổng cục Chính trị với các cơ quan của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể ở Trung ương và địa phương trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nhất là xây dựng tiềm lực chính trị - tinh thần và "thế trận lòng dân" vững chắc.

Phát biểu kết luận, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Nguyễn Xuân Thắng nhấn mạnh, các đại biểu đã đóng góp nhiều ý kiến tâm huyết, tiếp tục khẳng định những đóng góp to lớn của Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam qua 80 năm xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành, vững bước dưới cờ Đảng.

Không ngừng trưởng thành, lớn mạnh, hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, Tổng cục Chính trị luôn xứng đáng là cơ quan tham mưu chiến lược của Đảng về công tác Đảng, công tác chính trị trong Quân đội, là cơ quan giữ vai trò nòng cốt trong nghiên cứu, tham mưu, đề xuất để xây dựng và hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội trong từng giai đoạn cách mạng, không ngừng giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội.

Thông qua hoạt động thực tiễn sinh động, Tổng cục Chính trị lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân triển khai thực hiện hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ của Quân đội, với phương châm: “Ở đâu có bộ đội - ở đó có hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị” và bảo đảm công tác Đảng, công tác chính trị luôn là “linh hồn và mạch sống” của Quân đội ta./.
Yêu nước ST.

SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC


Thời gian gần đây, tuy không phải là dịp kỷ niệm ngày 30-4, nhưng câu chuyện về hòa hợp và hòa giải dân tộc lại nóng lên trên mạng xã hội và một số trang báo hải ngoại. Một lần nữa, mục tiêu cao cả của chủ trương hòa hợp dân tộc lại bị không ít người bóp méo, xuyên tạc gắn với tư tưởng hận thù cùng những ý đồ chính trị đen tối…

Mượn chuyện hòa hợp, gây thêm… chia rẽ

“Cái bẫy hòa hợp, hòa giải dân tộc” là tiêu đề một bài báo được đăng trên kênh truyền hình SBTN hải ngoại với nội dung thiếu thiện chí, kích động rằng, cộng sản Việt Nam chỉ mượn chuyện hòa giải cho những mục tiêu chính trị nhất thời. Cộng sản và dân tộc như nước với lửa, không thể có hòa hợp dân tộc nếu còn chế độ cộng sản (!).

Trong một chương trình trên Đài Châu Á tự do, Cù Huy Hà Vũ tiếp tục đưa ra nhiều lập luận vòng vo, lái câu chuyện hòa hợp dân tộc sang những vấn đề không liên quan, như: Hòa hợp dân tộc không dừng ở hòa hợp giữa hai bên “thắng cuộc” và thua cuộc sau ngày 30-4-1975 mà còn là hòa hợp giữa những người bất đồng chính kiến, những nhà dân chủ với chính quyền hiện nay. Vũ kêu gọi chỉ có thể hòa hợp được nếu chọn chế độ đa nguyên chính trị. Vũ chỉ trích Đảng Cộng sản “toàn trị” nên chỉ khi nào “chế độ cộng sản sụp đổ, người Việt mới có hòa hợp hòa giải”.

Cũng chung luận điệu ấy, kênh truyền hình Người Việt TV hải ngoại nhiều lần đưa quan điểm của cái gọi là Tập hợp Dân chủ đa nguyên kêu gọi muốn hòa giải thì phải “phục hồi danh dự cho những người trong chế độ Việt Nam cộng hòa”, phải thừa nhận đó là cuộc “nội chiến” và phải coi việc xóa bỏ chế độ cộng sản là một “mệnh lệnh của lương tâm, là tương lai của dân tộc”. Họ cũng kêu gọi Việt Nam nên áp dụng các “mô hình” hòa giải như ở cuộc nội chiến của nước Mỹ hay việc xóa bỏ bức tường Berlin…

Những quan điểm nêu trên, xét cho cùng đều không thể hiện thiện chí hòa hợp, hòa giải dân tộc mà chỉ thể hiện sự hằn học, kích động hận thù, gây thêm chia rẽ, xuyên tạc, bóp méo chủ trương nhân văn, đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta.

Chủ trương nhất quán ngày càng lan tỏa

“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo”. Hai câu thơ của Nguyễn Trãi đã phần nào đúc kết truyền thống khoan dung, hòa hiếu của dân tộc ta, ngay cả với kẻ thù xâm lược chứ chưa nói đến đồng bào lầm lỗi. Ngay sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mới ra đời, trong khi phải lo đối phó với thù trong, giặc ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm nhân văn: “Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón vắn, ngón dài, nhưng ngắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng, đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc, cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc”. Hơn 10 năm sau, Người một lần nữa khẳng định: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”.

Bắt nguồn từ đạo lý truyền thống của dân tộc và tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương hòa hợp, hòa giải dân tộc suốt mấy chục năm qua luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm. Dù ít nhiều có những thăng trầm, hạn chế nhưng đó luôn là tư tưởng nhất quán và ngày càng được thực hiện tốt hơn. Ngay cả khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước chưa kết thúc, giữa đất lửa Vĩnh Linh, Quảng Trị, khi nghe câu hỏi: “Sau khi Việt Nam đánh thắng đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước, việc gì là lớn nhất?”, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã trả lời: "Vấn đề lớn nhất sau chiến tranh cần phải làm, đó là hòa hợp dân tộc!".

Từ năm 2003, Hội nghị Trung ương 7 (khóa IX) của Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng như: Nghị quyết số 23-NQ/TW (2003) “Về phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, Nghị quyết số 24-NQ/TW “Về công tác dân tộc”, Nghị quyết số 36-NQ/TW (2004) của Bộ Chính trị (khóa IX) “Về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài”. Trong Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị đã khẳng định: “Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. Mọi người Việt Nam, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc xuất thân, địa vị xã hội, lý do ra nước ngoài, mong muốn góp phần thực hiện mục tiêu trên đều được tập hợp trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.

Sau nhiều đại hội, Đảng ta đều đề ra những chủ trương nhất quán về đại đoàn kết, hòa hợp dân tộc. Nghị quyết Đại hội của Đảng một lần nữa khẳng định: “Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước”.

Nhìn lại 20 năm thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW, chúng ta vui mừng nhận thấy, chủ trương đại đoàn kết, hòa hợp dân tộc ngày càng lan tỏa sâu rộng. Ở trong nước hiện nay, đồng bào thuộc mọi thành phần xã hội, kể cả những người trong chế độ cũ đều không bị phân biệt đối xử, bình đẳng trong lao động, kiến tạo cuộc sống. Ngay cả nhiều nhạc sĩ, ca sĩ từng xác định ở một thái cực khó có thể hòa hợp, như nhạc sĩ Phạm Duy, ca sĩ Khánh Ly, Chế Linh… gần đây cũng được tạo điều kiện về nước biểu diễn, không hề bị phân biệt, kỳ thị.

Một vấn đề từng được coi là “nhạy cảm” như Nghĩa trang Bình An của quân đội Sài Gòn cũ nay cũng được dân sự hóa, mọi người thăm viếng, chăm sóc mộ phần. Ngày 27-4-2014, một đoàn kiều bào đã được tổ chức đến viếng Nghĩa trang Liệt sĩ Bình Dương và Nghĩa trang nhân dân Bình An (nghĩa trang quân đội Biên Hòa thời Việt Nam cộng hòa). Tại đây, một lãnh đạo Bộ Ngoại giao đã chỉ vào tấm bia mộ cũ mang tên hạ sĩ Hà Hữu Lộc và nói: “Bia mộ vẫn còn nguyên phiên hiệu, đơn vị… Những ngôi mộ thế này xây từ ngày xưa có ai phá đâu. Chân lý ở đâu, sự thật ở chỗ nào khi các anh cứ hô hào, kêu gọi chống cộng, nói rằng cộng sản không làm gì cho nghĩa trang. Nếu đất nước không có đại đoàn kết thì những ngôi mộ kia có còn những tấm bia nguyên vẹn như vậy không?”.

Với đồng bào ở nước ngoài, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách tạo điều kiện ngày càng thuận lợi hơn cho họ trên các lĩnh vực: Xuất nhập cảnh, cư trú, hồi hương, quốc tịch, hộ tịch, về đầu tư kinh doanh; về quyền được mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam… Một dẫn chứng sinh động ghi nhận nỗ lực của Đảng, Nhà nước ta phải kể đến việc ông Nguyễn Cao Kỳ, nguyên Phó tổng thống của chính quyền Sài Gòn sau khi về Việt Nam đã có phát biểu: “Người ta nói trăm nghe không bằng một thấy nên tất nhiên về nước thì có dịp kiểm chứng lại mọi điều một cách cụ thể, rõ ràng và chi tiết hơn. Tôi rất mừng là đất nước đổi mới nhiều”; “Tôi sẽ nói về sự tiến triển, không khí và tình hình của đất nước để cho họ thấy, từ đó thuyết phục những người chưa hiểu: Đã đến lúc phải hòa hợp, hòa giải giữa anh em với nhau để xây dựng đất nước chứ ngoái cổ lại nhìn dĩ vãng rồi hận thù, chua chát, cay đắng thì đâu có được. Nhưng mà chắc chắn là không thể thuyết phục hết được vì vẫn còn một số người - một bộ phận rất nhỏ - cả đời chỉ nghĩ cho cá nhân họ thôi, nhiều khi họ phát nói năng lung tung, để ý làm gì. Tôi nghĩ chuyện chính vẫn là quyền lợi đất nước”. Chứng kiến sự đổi thay của đất nước và những chủ trương, chính sách về hòa hợp, hòa giải của Đảng và Nhà nước Việt Nam, ông Nguyễn Cao Kỳ đã công nhận rằng những người cộng sản Việt Nam hiện đang làm rất tốt và làm tốt hơn các ông.

Hòa hợp không có nghĩa là xóa nhòa lịch sử và đảo ngược chân lý

Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói “bàn tay còn có ngón vắn ngón dài” và Đảng ta từng chủ trương “tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia-dân tộc”, hòa hợp dân tộc phải trên cơ sở tôn trọng sự khác biệt, không định kiến, phân biệt đối xử nhưng không có nghĩa là xóa nhòa lịch sử và đảo ngược chân lý. Những vấn đề khác biệt như ý thức hệ, quan điểm chính trị thì cần sự tôn trọng, mà không thể đòi hòa hợp theo kiểu “phải công nhận chế độ Sài Gòn”, “phải phục hồi danh dự cho những người trong chế độ cũ”, “phải xóa bỏ Đảng Cộng sản thì mới có sự hòa hợp”.

Về vấn đề này, nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết từng có nhận xét sâu sắc: “Có những người chứng kiến sự hy sinh của dân tộc quá lớn, họ cứng như thép, không dễ xoay chuyển được... Nếu nhìn vào những mất mát, hy sinh to lớn, xét về nguyên tắc là không thể nhân nhượng, bỏ qua được. Nhưng xét về tình dân tộc, nghĩa đồng bào, đã 45năm rồi, thì trong quan hệ có thể cởi mở, mềm dẻo, đối xử nhẹ nhàng”.

Ông Nguyễn Cao Kỳ cũng từng khẳng định: “Một chính quyền độc đảng mang đến sự ổn định và kỷ luật thì cần thiết cho Việt Nam để ra khỏi sự nghèo khổ… Tôi cho rằng thật là sai lầm khi một số người, đặc biệt là số người Việt ở Mỹ ngày nay đòi hỏi Việt Nam phải chấp nhận và thực hiện một nền dân chủ họ đang hưởng ở Mỹ. Quan niệm của tôi là, đó là một sự sai lầm. Nền dân chủ đó không thích hợp với Việt Nam trong tình thế hiện nay”.

Với những nhận thức nêu trên, có lẽ chúng ta đã có được mẫu số chung cho câu chuyện đại đoàn kết, hòa hợp dân tộc. Đó chính là mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, đó là sự ổn định để phát triển. Và như thế, những quan điểm định kiến, hẹp hòi, kích động thù hận, khơi sâu thêm chia rẽ như những viên sỏi nhỏ sẽ nhanh chóng chìm trong biển cả bao la của sự hòa hợp, của tình yêu quê hương đất nước luôn lan tỏa và đồng cảm trong trái tim mỗi người dân mang dòng máu con Lạc, cháu Hồng!

NGUYỄN ĐÌNH THỤC - MỘT TRONG NHỮNG ĐẠI GIA LINH CẨU LỪA ĐẢO GIÁO DÂN VÀ PHẢN QUỐC CỦA GIÁO PHẬN VINH!

 

Khi nhắc đến bà Nguyễn Thị Khanh (hay còn gọi là bà Hoan) sinh năm 1929 trú tại xóm 4 xã Nghi Thuận, huyện Nghi Lộc thì ai cũng biết đây là một đại gia vùng thôn quê, là mẹ đẻ của Linh cẩu Nguyễn Đình ThụcSau một thời gian ngắn, được Toà Giám mục Giáo phận Vinh và Giáo mục phản động Nguyễn Thái Hợp bật đèn xanh để tham gia vào tổ chức phản động khủng bố Việt Tân dưới cái vỏ bọc là linh mục "rao giảng tin mừng" để chống phá cách mạng cùng Trần Đình Lai, Đặng Hữu Nam....Trong tài khoản cá nhân của Nguyễn Đình Thục đã có hàng chục tỷ đồng, sắm 01 ôtô Toyota 7 chỗ sang trọng trị giá 1,5 tỷ đồng mang BKS 37A. 277.24; cho anh em, họ hàng vay 5 tỷ đồng, xây biệt thự và mua xe hộp cho bồ và nuôi con ăn học hết 6 tỷ đồng, luôn sắm cho mình những loại điện thoại di động đắt tiền.

Tại xóm 4 xã Nghi Thuận, huyện Nghi Lộc, Nghệ An, Thục đã xây 01 căn biệt thự kiểu Thái rộng 200 mét vuông đầy đủ tiện nghi trị giá 3 tỷ đồng trên diện tích 1.000 mét vuông đất cho bà Khanh (mẹ đẻ) được xây tường bao quanh rất đẹp như là biệt phủ. Trong khi đó, xuất thân của Thục là một gia đình thuần nông nghèo có 06 anh em đều là nông dân trên địa phương. Vậy tiền ở đâu ra mà Thục giàu nhanh thế?

Chúng ta hẳn còn nhớ, trong các cuộc kích động tụ tập giáo dân để đi gây rối ANCT dưới chiêu bài bảo vệ môi trường, phản đối Formosa, Thục sẵn sàng chi tiền thuê taxi cho giáo dân, 200.000/người/ngày nếu đi xe máy, 1 triệu đồng/người/ngày nếu đi bằng ô tô. Phải chăng Thục là đại gia sẵn sàng chi hàng tỷ đồng khi chỉ là một linh mục đơn thuần ăn lộc Chúa? Nhưng điều khốn nạn là Thục quịt luôn tiền của giáo dân sau khi đi về, ai bị gì cũng mặc coi như không biết. Khi hô hào con chiên chặn quốc lộ, đòi người như một lũ côn đồ, thấy có dấu hiệu nguy hiểm, Thục lên xe sang dông tuốt về nấp kín trong nhà thờ để mặc các con chiên ngu đần của mình ngơ ngác, phó thác sinh mệnh của mình giữa các phương tiện giao thông!

Từ bài viết này, chúng ta có thể thấy Giáo phận Vinh đã suy đồi đạo và vô liêm sỹ đến như thế nào? Giáo mục Nguyễn Thái Hợp, linh cẩu Đặng Hữu Nam, linh cẩu Trần Đình Lai...và một số linh cẩu khác giàu có đến cỡ nào khi đã bán rẻ nhân phẩm cho ngoại bang để chống phá quê hương, Tổ quốc mình.

Bên cạnh đó, các nhà thờ luôn bắt ép giáo dân nghèo đóng góp để xây dựng nhà thờ, nuôi cha, lễ lạt,...mà biết đâu rằng những mồ hôi nước mắt của họ đã bị bọn linh cẩu tư lợi cá nhân, ăn chơi phè phỡn, gái gú bồ bịch như ai

ĐỒNG BÀO CÔNG GIÁO ƠI HÃY MAU MAU TỈNH NGỘ!Nếu bạn nào thắc mắc về các thông tin nói trên thì có thể về quê hương thằng Thục để kiểm chứng!

- Mong các bạn chia sẻ bài viết này rộng rãi để nhân dân nói chung và bà con Công giáo nói riêng nhận biết bộ mặt thật của bọn đội lốt Đức Kitô để bán rẻ Tổ quốc, phản bội dân tộc!

YÊU NƯỚC PHẢI BẰNG HÀNH ĐỘNG

  

Yêu nước là phẩm chất cao quý, đồng thời là vấn đề cốt lõi của mỗi quốc, gia, dân tộc cũng như là đức tính cao đẹp trong mỗi con người, thành viên của quốc gia, dân tộc. Đối với dân tộc Việt Nam, yêu nước là truyền thống ngàn đời của dân tộc, truyền thống đó được xây dựng bằng xương, máu của biết bao thế hệ con rồng, cháu tiên, từ thuở khai thiên lập địa cho đến thời kỳ mới, thời kỳ Đảng cầm quyền với Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân và vì dân. Một chế độ, một Nhà nước đã được chứng minh, đã được khẳng định tính ưu việt với các chế độ xã hội khác. Chế độ ta, nhà nước ta được tổ chức ra không ngoài mục đích nào khác là xây dựng nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để thực hiện được mục tiêu đó, cần phải có sự chung tay, góp sức, của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, chứ không phải việc riêng của một hai người và phải bằng những công việc, hành động cụ thể chứ không phải chỉ bằng những khẩu hiệu, hô hào, những lời nói suông, sáo rỗng, giáo điều…Thế nhưng thời gian qua, đã có không ít những người dân, thậm chí là những cán bộ, đảng viên của Đảng, những người được nuôi dưỡng, chăm sóc, rèn luyện, đứng trước những vấn đề của dân tộc, của đất nước lại thể hiện sự thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm, thậm chí hô hào, cổ xúy cho những điều sai trái để chống đối Đảng, chống đối chế độ, bôi nhọ danh dự, uy tín của lãnh đạo Đảng, Nhà nước. 

Những kẻ chỉ biết hưởng thụ, chỉ biết lên án mà thiếu niềm tin, thiếu trách nhiệm trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo vệ chế độ hãy tự nhìn nhận lại, tự suy nghĩ, tự xem xét lại, xem Đảng, Nhà nước, chế độ đã phải làm những gì để có được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi người như ngày hôm nay, trong đó có bản thân và gia đình của chính mình. Do đó hãy tự suy nghĩ lại và hành động đúng đắn, bằng những việc làm cụ thể, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chứ đừng mải mê chạy theo những điều sai trái, vô vị./.

 

Gắp lửa bỏ tay người

 

      “Gắp lửa bỏ tay người” là câu thành ngữ trong dân gian thường hay dùng để chỉ thủ đoạn của những kẻ sảo trá, độc ác, gian manh. Chính chúng là nguyên nhân gây ra những tội ác man rợ, nhưng lại vu khống, đổ tội cho người khác, phủi sạch trách nhiệm của mình trước bàn dân thiên hạ. Mánh lới của chúng thật là thâm hiểm, dã man; mọi người luôn căm ghét chúng.

      Những kẻ “gắp lửa bỏ tay người” gần đây xuất hiện nhiều như nấm sau mưa trên các mạng xã hội, như loài cỏ dại mọc hoang mà tốc độ lây lan đến mức nguy hiểm. Thủ đoạn của chúng là đổ lỗi, quy trách nhiệm cho Đảng Cộng sản Việt Nam về tất cả những hạn chế, khuyết điểm trong quá trình phát triển đất nước; phủ nhận sạch trơn những thành tựu mà chúng ta đã đạt được. Chúng dựng đứng rằng do chế độ “độc tài đảng trị” mà “đất nước mới ra nông nỗi này”

   Thật đúng là gắp lửa bỏ tay người. Sự phát triển của đất nước, của dân tộc ta trong những năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng là điều mà mọi người dân đều cảm nhận được, thế giới đã công nhận.Tuy còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng đó là quy luật chung của các nền kinh tế khi chuyển sang kinh tế thị trường. Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ các nguy cơ, thách thức đó và đang ra sức khắc phục, đưa đất nước phát triển trong điều kiện mới. 

      Những thủ đoạn “gắp lửa bỏ tay người” của những người có dã tâm xấu dù có che đậy thế nào cũng sẽ bị nhận ra. Cán bộ, đảng viên và Nhân dân cần hết sức đề phòng kẻo mắc lừa chúng./.

SỰ THẬT KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN


 Chủ tịch Hồ Chí Minh được tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá Liên hợp quốc (Unesco) vinh danh là Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá Thế giới của Việt Nam. Thế nhưng, vì những động cơ xấu xa, đen tối, nhằm thực hiện chiến lược “Diễn biến hoà bình”, có những kẻ đã cố tình xuyên tạc, bôi nhọ lãnh tụ Hồ Chí Minh. Điều đó chỉ càng làm cho “Sự thật không thể phủ nhận” và sự lạc lõng của các thế lực thù địch mà thôi.

Mỗi dân tộc dù lớn hay nhỏ, phát triển hay đang phát triển đều có những danh nhân tiêu biểu, thể hiện tập trung những giá trị của dân tộc mình. Niềm vinh dự và cũng là điều may mắn, hạnh phúc cho dân tộc ta đã sinh ra một người con vĩ đại ở vào thời kỳ mà lịch sử, và cách mạng Việt Nam đang đòi hỏi. Người con vĩ đại đó là Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

Kế thừa chủ nghĩa yêu nước, những tài năng thiên bẩm từ các bậc tiền bối và gia đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu hiện rực rỡ về trí tuệ Việt Nam. Ngay ở tuổi vị thành niên, Nguyễn Sinh Cung đã sớm hiểu rằng con đường cứu nước của dân tộc ta phải hướng theo những trào lưu cách mạng, tiến bộ của nhân loại. Có lần trả lời phỏng vấn của một nhà thơ Nga, tên gọi lúc bất giờ là Nguyễn Ái Quốc đã nói: “Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái… và thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy… Tôi quyết định tìm cách đi ra nước ngoài”(1). Người còn nói: Sau khi xem xét nước Pháp và các nước khác, tôi sẽ về để giúp đồng bào mình.

Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu các cuộc cách mạng tiêu biểu của nhân loại, trong đó có cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ và cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Đi theo con đường của Chủ nghĩa Mác – Lê-nin, nhưng Nguyễn Ái Quốc là một nhà mác-xít sáng tạo. Người đã từng nghiên cứu nhiều tư tưởng tiến bộ của nhân loại và khảng định cần phải vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh lịch sử của các quốc gia phương Đông. Trong Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản, Người viết: “Cuộc đấu tranh giai cấp (ở Việt Nam) không diễn ra giống như ở các nước phương Tây… Xem xét lại Chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông. Đó chính là nhiệm vụ mà các Xô-viết đảm nhiệm”(2).

Sự thật không thể phủ nhận, đường lối cách mạng của Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo ngay từ khi thành lập, qua các chặng đường cách mạng cho đến nay là sự sáng tạo đặc sắc về lý luận mác-xít. Bản Tuyên ngôn Độc lập do Người biên soạn và tuyên bố trước quốc dân đồng bào ngày 02/9/1945 đã tích hợp những tư tưởng cách mạng của Đảng và dân tộc ta.

Trong bản Tuyên ngôn Độc lập, Người đã trích dẫn bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ, năm 1776; Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp, năm 1789 và Người nói, đó là “những lời bất hủ”, là “những lẽ phải không ai chối cãi được”. Từ đó Người đi đến kết luận: “Suy rộng ra,… tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Với Hồ Chí Minh, quyền con người của các dân tộc bị áp bức phải lấy độc lập dân tộc là tiền đề. Đồng thời độc lập dân tộc phải gắn liền với việc tôn trọng và bảo đảm quyền con người. Với Người, “Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(3). Có thể nói, Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tuyên ngôn “kép” – Tuyên ngôn độc lập, đồng thời là tuyên ngôn nhân quyền của Việt Nam cũng như của các dân tộc thuộc địa. Bằng trí tuệ thiên tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển, làm sáng tỏ mối quan hệ giữa độc lập dân tộc với quyền con người – một vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản của nhân loại trong thời đại ngày nay.

Đối với dân tộc ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là người cầm lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua bao thác ghềnh, mà Người còn là kiến trúc sư thiên tài kiến tạo chế độ xã hội, Nhà nước và Quân đội ta theo những tiêu chí của một xã hội văn minh. Không có một đảng chính trị nào, một cuộc cách mạng nào như cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Ngay sau khi giành được chính quyền, Đảng cách mạng trong điều kiện thù trong giặc ngoài đã ngay lập tức thiết lập thể chế dân chủ trao quyền lực cho nhân dân. Chỉ trong vòng chưa đầy một năm (từ tháng 8/1945 đến tháng 01/1946) dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một Nhà nước hiện đại dựa trên hiến pháp và chế độ dân chủ cộng hoà, cùng với hệ thống chính quyền từ Trung ương đến địa phương (bao gồm Quốc hội, Chính phủ, Toà án, Quân đội, Công an… đến Mặt trận Dân tộc thống nhất và các đoàn thể chính trị, xã hội…) được thiết lập và đi vào hoạt động. Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đường lối kháng chiến, kiến quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế, tạo ra sức mạnh vô địch đưa hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược đến thắng lợi hoàn toàn, giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc.

Thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ” năm 1966, khi đế quốc Mỹ điên cuồng mở cuộc chiến tranh phá hoại ra miền Bắc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước kiên quyết đồng lòng đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Trong Lời kêu gọi này, Hồ Chí Minh đã nêu lên một chân lý lớn của dân tộc ta và cũng là một chân lý của thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”(4). Đây không phải là lần đầu tiên, duy nhất Chủ tịch Hồ Chí Minh nói đến hai giá trị này. Người từng nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”(5)… Mỗi một dân tộc có nhiều giá trị về vật chất và tinh thần, song “Độc lập và Tự do” là giá trị cơ bản, là tiền đề cho các giá trị khác. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng và trước những thách thức trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay, tư tưởng “Không có gì quý độc lập, tự do” vẫn còn nguyên giá trị.

Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là một biểu tượng trong sáng, cao thượng về nhân cách con người của dân tộc Việt Nam. Là lãnh tụ của cuộc cách mạng, của những cuộc kháng chiến đầy hy sinh, gian khổ chống lại những kẻ thù hung bạo nhất thời đại…, nhưng điều đó không làm Người mất đi lòng tin vào mỗi con người. Khoan dung, tôn trọng sự khác biệt, giàu lòng thương người, tin vào tinh thần yêu nước và lương tri của mọi người dân Việt Nam là một trong những nét đặc biệt trong tư duy chính trị, trong cách ứng xử của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đối với những người lầm đường, lạc lối, Người nói: “Năm ngón tay cũng có ngón ngắn ngón dài. Nhưng ngắn dài đều hợp lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này, người thế khác… Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ, ta phải nhận rằng, đã là con Lạc cháu Hồng, thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường ta phải lấy tình thân ái mà cảm hoá họ…”(6).

Đối với sự hy sinh của chiến sĩ ta và tử nạn của binh sĩ Pháp, Người nói: “Tôi nghiêng mình trước linh hồn những chiến sĩ và đồng bào Việt nam,… Tôi cũng ngậm ngùi thương xót cho những người Pháp đã tử vong. Than ôi, trước lòng bác ái, thì máu Pháp hay máu Việt cũng đều là máu, người Pháp hay người Việt cũng đều là người”(7).

Có thể nói, lý tưởng cách mạng, nói rộng hơn là triết lý sống của Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu hiện tập trung nhân cách cao thượng và trong sáng của dân tộc ta. Trong tài liệu đào tạo lý luận Mác – Lê-nin cho lớp cán bộ trẻ ở Quảng Châu, Trung Quốc (tác phẩm “Đường Kách mệnh”, xuất bản năm 1927), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt lên hàng đầu “Tư cách một người cách mệnh”, trong đó Người đòi hỏi người cách mạng: “Tự mình phải giữ chủ nghĩa cho vững”, đặc biệt là “Ít lòng tham muốn về vật chất”(8). Chủ tịch Hồ Chí Minh khi xem xét cán bộ phải lấy “đạo đức cách mạng là gốc”, là điều kiện, là tiền đề cho các phẩm chất khác.

Khi xuất bản sách “Người tốt, việc tốt” Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người”, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất thiết hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến, ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”(9). Như vậy, với Chủ tịch Hồ Chí Minhnhững giá trị cao đẹp của mỗi cá nhân, của đảng cầm quyền, thậm chí ngay cả một dân tộc cũng có thể thay đổi trong đánh giá của nhân dân, của cộng đồng quốc tế, nếu mỗi người, mỗi đảng cầm quyền, thậm chí mỗi dân tộc không biết tự bảo vệ và phát triển những giá trị đó.

Triết lý sống của Hồ Chí Minh, không phải là khổ hạnh, càng không phải là diệt dục, mà đó là một quan niệm sống hài hoà, giản dị, khiêm nhường, thanh cao về tinh thần và vật chất. Đầu năm 1946, sau cuộc tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà và Hồ Chí Minh trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà. Các nhà báo nước ngoài đặc biệt quan tâm đế tiểu sử và cả những quan niệm sống của Hồ Chí Minh. Người đã trả lời ngắn gọn, súc tích và đầy đủ câu hỏi của các nhà báo, rằng: “Tôi tuyệt nhiên không ham công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch nước là vì đồng bào uỷ thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui…”(10).

Sau khi Lê-nin lãnh tụ Cách mạng Tháng Mười Nga từ trần năm 1924, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết: “Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính sự coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao đến các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người không gì ngăn cản nổi”(11). Những điều Chủ tịch Hồ Chí Minh viết về Lê-nin năm 1924, cũng chính là điều mà ngày nay chúng ta nói về Người. Vì vậy các thế lực thù địch trong và ngoài nước có dùng mọi biện pháp chiến lược “Diễn biến hoà bình”, hòng bôi nhọ lãnh tụ Hồ Chí Minh thì “Sự thật không thể phủ nhận” càng làm cho dân tộc Việt Nam tin yêu, kính trọng Hồ Chí Minh hơn bao giờ hết./.