Chủ Nhật, 15 tháng 9, 2024

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

 

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc, được thể hiện chủ yếu ở các nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, nhà nước pháp quyền phải bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công giữa các cơ quan trong thực hiện nhiệm vụ.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhân dân là chủ thể quyền lực nhà nước; nhà nước chỉ là tổ chức do dân lập ra để thực hiện quyền lực nhân dân, rằng: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là phân công làm đầy tớ cho dân”(1). Người có sự thấu hiểu về cách thức tổ chức quyền lực nhà nước. Trong quá trình xác lập hình thức chính thể cộng hòa dân chủ nhân dân ở Việt Nam, Người chủ trương thống nhất quyền lực và có sự phân công rõ ràng giữa các cơ quan trong thực hiện quyền lực nhà nước. Đây chính là sự phát triển phù hợp thực tiễn đất nước từ tư tưởng nguồn gốc quyền lực nhà nước từ nhân dân. Xét về bản chất, sự thống nhất trong lợi ích của nhân dân là tiền đề của sự thống nhất quyền lực nhân dân và quyền lực nhà nước, đây cũng là điểm độc đáo chỉ có trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng thống nhất quyền lực nhà nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện rõ qua cách thức cơ cấu quyền lực nhà nước trong hai bản Hiến pháp năm 1946 và 1959.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi quyền lực nhân dân đã được ủy thác cho nhà nước thì quyền lực nhà nước phải thống nhất và có sự phân công minh bạch giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Mặt khác, mục đích của việc phân công quyền lực nhà nước là để kiểm soát quyền lực, bảo đảm tính pháp quyền và phát huy giá trị dân chủ xã hội chủ nghĩa trong thực tiễn, chứ không phải để thỏa hiệp hay chia rẽ quyền lực; do đó, mặc dù có sự phân định nhất định về chức năng, nhiệm vụ, nhưng cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp không hoàn toàn tách biệt nhau, ngược lại có sự “ràng buộc lẫn nhau”, thống nhất với nhau ở mục tiêu chính trị chung là xây dựng một nhà nước bảo đảm quyền làm chủ toàn diện và tất cả vì lợi ích của nhân dân. 

Thứ hai, nhà nước pháp quyền phải là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, sự ra đời của nhà nước phải hợp với lẽ phải, công lý và được tổ chức, hoạt động trên cơ sở hiến pháp và pháp luật. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh luận chứng chặt chẽ cho sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là đúng với lẽ phải và công lý. Đầu tiên, Người vạch trần tội ác của thực dân Pháp, phát xít Nhật đã chà đạp lên những quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam gần một thế kỷ, kế đó, với lý lẽ, lập luận, dẫn chứng sắc bén, Người chứng minh cho nhân loại tiến bộ thấy rằng, sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) là hợp hiến, hợp pháp.

Mặt khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, một nhà nước hợp hiến, hợp pháp là nhà nước được tổ chức và hoạt động dựa trên hiến pháp và pháp luật. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ (ngày 3-9-1945), Người xác định một trong những vấn đề cấp bách là “phải có một hiến pháp dân chủ” và “đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”(2). Theo Người, nhà nước pháp quyền thực sự là của dân, do dân, vì dân thì trước hết bộ máy nhà nước phải phục vụ quyền lợi và lợi ích chính đáng của nhân dân, theo đó, hiến pháp dân chủ phải do cơ quan đại diện của nhân dân lập ra và do nhân dân phúc quyết. Chính vì vậy, Người yêu cầu nhanh chóng tổ chức Tổng tuyển cử theo chế độ phổ thông đầu phiếu để toàn dân được bầu ra cơ quan đại diện của mình, bởi “Do Tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật là Chính phủ của toàn dân”(3).

Thứ ba, nhà nước pháp quyền phải quản lý xã hội bằng pháp luật.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, yếu tố cốt lõi của nhà nước pháp quyền là nguyên tắc pháp luật giữ vị trí tối thượng, điều chỉnh hành vi toàn hệ thống chính trị và mọi chủ thể trong xã hội. Trong Bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi đến Hội nghị Véc-xây (năm 1919), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, phải “Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật(4). Tuy nhiên, khác với nhà nước pháp quyền tư sản, pháp luật thể hiện ý chí, quyền lực của giai cấp tư sản; còn pháp luật trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí, nguyện vọng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

Ngay sau khi thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương tiến hành tổng tuyển cử để bầu ra Quốc hội “càng sớm càng tốt”. Ngày 6-1-1946, cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên sau khi đất nước giành độc lập đã bầu ra Quốc hội khóa I, đến ngày 9-11-1946, Quốc hội thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản Hiến pháp năm 1946 có giá trị cốt yếu trong xây dựng một xã hội Việt Nam được điều hành, quản lý bằng pháp luật, quy định các quyền nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản rõ ràng, minh bạch và hợp lý, đồng thời đặt ra những nguyên tắc trong việc tổ chức bộ máy nhà nước; khẳng định và xác lập cơ sở chính trị - pháp lý của một nhà nước độc lập, tạo nền tảng quan trọng trong xây dựng các đạo luật nhằm cụ thể hóa quy định của hiến pháp. Trên cơ sở đó, Quốc hội thảo luận và ban hành một số đạo luật quan trọng để chính quyền các cấp ở địa phương tiến hành tổ chức bộ máy và chăm lo cho đời sống nhân dân.

Trên cương vị là Chủ tịch nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nỗ lực xây dựng nền tảng cho quá trình hình thành và hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cụ thể, trực tiếp chủ trì soạn thảo 2 bản Hiến pháp năm 1946 và năm 1959, ký ban hành 16 đạo luật và 613 sắc lệnh để điều hành đất nước. Để quản lý phát triển xã hội hiệu lực, hiệu quả, trước hết phải có hệ thống pháp luật đúng đắn, phù hợp và đầy đủ; có khả năng, sức mạnh hướng dẫn, thực thi, chi phối, kiểm soát mọi tổ chức nhằm bảo đảm bộ máy công quyền hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Mặt khác, Hiến pháp, pháp luật đặt ra là để bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân, nên nhiệm vụ then chốt là tuyên truyền để nhân dân có thể hiểu, tự giác thực hiện, chấp hành đầy đủ, Người cho rằng, phải “làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm(5). Tại Hội nghị thảo luận về Luật Hôn nhân và gia đình (năm 1959), Người chỉ rõ: “công bố đạo luật này chưa phải đã là mọi việc đều xong, mà còn phải tuyên truyền giáo dục lâu dài mới thực hiện được tốt(6); đồng thời “Các đại biểu Hội đồng nhân dân và các cán bộ phải phổ biến Hiến pháp một cách kỹ lưỡng và rộng khắp trong nhân dân và gương mẫu thực hành Hiến pháp và luật lệ”(7),...

Cùng với đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị chủ thể thực thi pháp luật phải bảo đảm sự công tâm, nghiêm minh và mọi người dân đều bình đẳng trước pháp luật; yêu cầu đội ngũ cán bộ chủ động nêu gương trong thực thi pháp luật, “Phục tùng nghiêm chỉnh kỷ luật của Đảng. Gương mẫu chấp hành pháp luật của Nhà nước và kỷ luật của các đoàn thể cách mạng của quần chúng mà mình tham gia”(8); ngược lại, nếu cán bộ, đảng viên không làm tròn trách nhiệm, vi phạm pháp luật thì nhà nước “phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”(9). Người cũng thẳng thắn chỉ ra và phê bình cán bộ lợi dụng quyền thế vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền tự do dân chủ, lợi ích của nhân dân, lấy đó làm bài học nhãn tiền cho toàn Đảng.

Thứ tư, nhà nước pháp quyền có sự thống nhất giữa đạo đức và pháp luật.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật; tuy nhiên, luật pháp chỉ phát huy hiệu quả tối đa đối với xã hội khi phản ánh những giá trị đạo đức cao đẹp. Người cho rằng: “vấn đề tư pháp, cũng như mọi vấn đề khác, trong lúc này, là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức”(10). Sự thống nhất giữa đạo đức và pháp luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền không chỉ thể hiện ở chỗ đạo đức là cơ sở quy định nội dung cũng như tạo nên sức mạnh của pháp luật, mà còn ở việc kết hợp giáo dục đạo đức với tính răn đe của pháp luật trong điều chỉnh hành vi con người, hướng đến những giá trị chân - thiện - mỹ.

Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong muốn xác lập nền văn hóa chính trị chứa đựng giá trị nhân văn cao đẹp, phục vụ công cuộc xây dựng đất nước “được hoàn toàn độc lập”, nhân dân “được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(11). Tư tưởng Hồ Chí Minh có sự kết hợp, thống nhất nhuần nhuyễn giữa yếu tố chính trị và đạo đức, thể hiện ở lý tưởng vì Tổ quốc tươi đẹp và thực tiễn hiện thực hóa lý tưởng đó mà bản thân Người là tấm gương sáng. Người viết: “Từ Chủ tịch Chính phủ cho đến người chạy giấy, người quét dọn trong một cơ quan nhỏ, đều là những người ăn lương của dân, làm việc cho dân, phải được dân tin cậy”(12); theo đó đội ngũ cán bộ, đảng viên muốn tổ chức quần chúng nhân dân thi hành chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, thì “từ việc làm, lời nói cho đến cách ăn ở, phải thế nào cho dân tin, dân phục, dân yêu(13) và “Phải tôn kính dân, phải làm cho dân tin, phải làm gương cho dân. Muốn cho dân phục phải được dân tin, muốn cho dân tin phải thanh khiết”(14).

Điều đặc biệt hơn là, tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh chứa đựng yếu tố pháp quyền nhân nghĩa sâu sắc, pháp luật không phải là công cụ để trừng trị, mà là để bảo vệ và thực hiện quyền và lợi ích của con người. Trong nhiệm vụ kết hợp giáo dục đạo đức với sử dụng sức mạnh của pháp luật thì Người vẫn ưu tiên và quan tâm trên hết việc bồi dưỡng, tu dưỡng đạo đức, luôn nhắc nhở đội ngũ cán bộ phải nêu cao tinh thần làm gương, và tất nhiên làm gương không xong thì dùng pháp luật xử lý. Đây là quan điểm cho thấy tính nhân văn, nhân ái, bởi quan trọng nhất vẫn là nền tảng ý thức pháp luật, đạo đức trong đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước và nhân dân, chứ không cứng nhắc dùng pháp luật xử lý.

Thứ năm, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất, toàn diện của đảng cộng sản.

Có thể nói, đây là điểm khác biệt giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nhà nước pháp quyền ở các nước tư bản phương Tây. Thực tiễn lịch sử chứng minh rằng, chính sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định sự thành công của công cuộc giải phóng dân tộc, đồng thời giành được nhiều thắng lợi trong chống lại kẻ thù xâm lược cũng như xây dựng đất nước. Cách mạng Tháng Tám (năm 1945) thành công, đập tan ách đô hộ của thực dân Pháp và chế độ phong kiến, mang đến độc lập, tự do cho đất nước ta, xác lập vị thế người làm chủ vận mệnh nước nhà của nhân dân, đây là sự kiện “đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”(15). Theo đó, vai trò lãnh đạo và trọng trách của Đảng được khẳng định trong Hiến pháp - luật cơ bản của Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất(16).

Cùng với đó, chính tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không thể thoát ly khỏi sự lãnh đạo của đảng cộng sản đối với nhà nước nói chung và tổ chức quyền lực nhà nước nói riêng. Nghiên cứu về cách mạng Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy, “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”(17). Khi đưa ra những lý thuyết về tổ chức quyền lực nhà nước, các nhà tư tưởng nổi tiếng thời cách mạng tư sản, như Mông-tét-xki-ơ hay J. Rút-xô chưa giải quyết triệt để vấn đề mối quan hệ giữa chính đảng cầm quyền và nhà nước; tiếp đó, học thuyết Mác-xít và lãnh tụ V.I. Lê-nin đề cập, đi sâu phân tích mối quan hệ giữa nhà nước và đảng cộng sản, song còn tập trung chủ yếu ở những nội dung lý luận, vĩ mô. Trong khi đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người trực tiếp sáng lập, rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, nên có cơ sở thực tiễn để phát triển quan điểm về sự lãnh đạo của đảng cộng sản đối với việc tổ chức quyền lực nhà nước, bảo đảm mục tiêu quản lý phát triển xã hội theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét