Thứ Ba, 15 tháng 4, 2025

Khoan thư sức dân - Quốc sách dựng nước và giữ nước

 

Tìm hiểu nguyên nhân để có những thành quả ấy, cũng dần dần thấy được căn nguyên sâu xa nhưng hết sức khoa học đã làm nên thành quả dựng nước và giữ nước của cha ông ta. Đó là một quá trình tiếp nối, hoàn thiện, phát triển rất đặc sắc, mới mẻ nghệ thuật dựng nước và giữ nước với nhiều điểm khác thường, đặc biệt mà sách lược “Khoan thư sức dân” là một trong số ấy.

Theo sử cũ và truyền thuyết, vua tổ Hùng Vương thứ nhất dựng nước và các vua Hùng nối đời kế nghiệp đã sớm biết chăm dân, dưỡng dân, dạy dân, kéo dài sự hưng thịnh của triều đại mình. Ngay khi lập Quốc đô ở Phong Châu (nay thuộc Phú Thọ), các vua Hùng đã biết chia nước ra làm các bộ để chăm lo đời sống của dân. Chính vì biết lưu tâm dưỡng sức dân, nhà nước Văn Lang thời đại Hùng Vương là một nhà nước sớm có các thiết chế, tổ chức xã hội khá hoàn thiện, đất nước có quy củ, người dân yên hưởng thái bình. Kẻ thù mà kẻ thù chính yếu là giặc phương Bắc không thể làm gì được trong suốt một thời gian dài.

Về thời đại Hùng Vương, thiết nghĩ, trong thời gian tới, những người làm sử Việt nhất định phải lưu tâm và làm rõ một cách khoa học những thành tựu đạt được của thời đại này. Việc chăm dân, giữ dân để dân hết lòng tín phục là một trong những thành công đặc biệt của thời đại Hùng Vương. Chính vì điều này, nhân dân các dân tộc Việt Nam vẫn đời đời nhớ về công đức của tổ tiên. Hàng năm, đến ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch, toàn dân hướng về ngày Quốc lễ - Giỗ Tổ - cúng tế hết sức trọng thể. Không phải ngẫu nhiên mà 18 đời vua Hùng được truyền nối. Trong nhiều lý do, chắc chắn có một lý do là lòng dân đã tạo thế vững chắc cho thời đại các vua Hùng.

Tiếp đến thời Thục An Dương Vương mà tiêu biểu là Thục Phán lập nước Âu Lạc đã mạnh dạn dời kinh đô về đồng bằng, chọn đất Kẻ Chủ thuộc bộ Vũ Ninh để định đô (nay thuộc Cổ Loa - Đông Anh - Hà Nội) đây cũng là kinh đô đầu tiên của người Việt tại đồng bằng, kề sát trung tâm Hà Nội ngày nay.

Có thể nói, việc định đô ở Cổ Loa cũng là dựa vào tâm nguyện và ý chí của Nhân dân. Chính vì biết dưỡng sức dân, mở đất chăm dân nên việc định đô ở địa hình bằng phẳng rộng lớn, dựa vào các địa thế sông hồ liên hoàn cũng là biểu hiện trí tuệ của Nhân dân là vô hạn mà những người đứng đầu nhà nước Âu Lạc đã biết cách sử dụng. Thành Cổ Loa trải hơn hai nghìn năm lịch sử hiện vẫn đang là một di chỉ văn hóa lịch sử quan trọng, chứng minh bàn tay lao động tài tình của Nhân dân nhà nước Âu Lạc. 

Qua thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất với hai giai đoạn bị Triệu thống trị (179 đến 111 TCN) bị Tây Hán thống trị (111 TCN đến 39 SCN) đến thời Trưng Nữ Vương đã cho thấy do xa rời Nhân dân mà mất nước, đất nước rơi vào đêm trường nô lệ.

Thời Trưng Nữ Vương kéo không dài đã được các nhà nghiên cứu lịch sử phân tích khá thấu đáo nhưng theo chúng tôi, sở dĩ việc lập nước và giữ nước không được lâu bền phần lớn do kẻ thù quá tàn bạo đã gần như giết sạch người dân mà chúng bắt được hoặc những người đứng đầu các bộ lạc bấy giờ chưa cố kết được các tầng lớp Nhân dân để giành lại nước. 

Tiếp đó là thời kỳ Bắc thuộc lần thứ hai kéo dài 5 thế kỷ: Đông Hán thống trị từ năm 43 đến năm 220; Ngô thống trị từ năm 220 đến năm 280; Tấn, Tống, Tề, Lương thống trị từ năm 280 đến 544. Đây có thể gọi là thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử dân tộc mà điểm sáng duy nhất là khởi nghĩa giành độc lập của Triệu Thị Trinh với câu nói nổi tiếng: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô nệ chứ không thèm cúi đầu, khom lưng làm tì thiếp người!” Cuộc khởi nghĩa của Triệu Thị Trinh đã cho thấy sức dân là vô tận và chỉ khi được Nhân dân ủng hộ thì các cuộc khởi nghĩa mới có thể giành được thắng lợi.

Tiếp đến là thời tiền Lý do Lý Bí sáng lập năm 544 gồm ba đời vua tồn tại trong 58 năm trước khi lại rơi vào ách đô hộ của giặc phương Bắc. 

Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ ba kéo dài trên 300 năm (603-907) dưới ách đô hộ của nhà Tùy và nhà Đường. Trong thời kỳ này, các cuộc khởi nghĩa vẫn liên tiếp nổ ra và nhiều lần nước ta đã giành được độc lập. Tiêu biểu là ông vua đen Mai Hắc Đế - Mai Thúc Loan (721-726); Bố cái Đại vương Phùng Hưng (766-789); Dương Thanh (819-820). 

Tiếp đó là thời Khúc, Dương tự chủ (905-937). Nguyên nhân để giành được nền tự chủ cũng chính là lòng dân đã quật khởi vùng lên đánh đổ giặc đô hộ phương Bắc. Ngay khi cùng với Nhân dân giành quyền tự chủ, Khúc Thừa Dụ, một hào trưởng vùng Hồng Châu (nay thuộc Hải Dương) vốn được nhân dân tin yêu mến phục đã sớm tổ chức bộ máy chính quyền trên tinh thần tôn trọng và phát huy sức dân, giảm nhiều sưu thuế cho dân chúng. Chính vì được lòng dân, nhà Đường đã phải xuống chiếu công nhận Khúc Thừa Dụ làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, tức là thừa nhận cho người Việt làm chủ đất Việt.

Thời Ngô Vương Quyền (939-967), trước khi đại phá quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, từng mắng địch một câu nổi tiếng: “…Hoằng Thao là một đứa trẻ khờ dại, đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi mệt, lại nghe Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta lấy sức còn khỏe địch với quân mỏi mệt, tất phá được. Nhưng bọn chúng có lợi ở chiến thuyền, nếu ta không phòng bị trước thì thế được thua chưa biết ra sao. Nếu đem cọc lớn vạt nhọn đầu, bịt sắt đóng ngầm ở cửa biển, thuyền của bọn chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào ra thoát”. Chỉ có là người xuất thân từ Nhân dân, đồng cam cộng khổ với nhân dân, thuộc từng lạch sông cửa biển mới có thể điềm tĩnh, tự tin mà thắng giặc phương Bắc như thế.

Tiếp đến thời Đinh (968-980), thời Tiền Lê (980-1009) tuy ngắn ngủi nhưng đã để lại dấu ấn không thể phai mờ trong lịch sử dân tộc, nhưng phải đến thời Lý, vấn đề mở nước, hưng dân mới phát triển rực rỡ trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội…

Thời Lý có thể được coi là một thời đại cực thịnh của Đại Việt, thời kỳ Nho, Phật, Lão đồng nguyên, trong đó đạo Phật là Quốc giáo. Ngay sau khi lên ngôi, Lý Công Uẩn đã hạ chiếu tha bổng sưu thuế trong nhiều năm. Trong gần 18 năm cầm quyền đã 3 lần tha, giảm sưu thuế cho nhân dân. Đây có lẽ là một trong những vị vua hiền sáng nhất dân tộc Việt. Ông cũng là người quyết định dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Chính vì luôn chăm lo đến  đời sống của Nhân dân nên Quốc gia Đại Việt thời Lý luôn có biên cương vững chắc, quốc thổ thống nhất, có võ công, có văn hiến, kinh tế, đặc biệt là các nghề nông trang phát triển rực rỡ. Lý Công Uẩn vừa khai sinh triều Lý, vừa đưa thế nước vươn cao khiến các nước lân bang, đặc biệt là giặc phương Bắc phải nể trọng, hãi sợ.

Bước sang vương triều Trần, một vương triều có võ công hiển hách của dân tộc Việt: Đến nay nước sông tuy chảy hoài/ Mà nhục quân thù khôn rửa nổi (Bạch Đằng Giang phú - Trương Hán Siêu). Để có được những võ công ấy thì việc dưỡng sức dân, đồng cam cộng khổ với nhân dân luôn là kế sách hàng đầu. Người đứng đầu cho tư tưởng này chính là Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn. Chính ông có câu nói nổi tiếng cũng là tư tưởng xuyên suốt cuộc đời ông, triều đại nhà Trần mà các triều đại ở những giai đoạn tiến bộ sau đó đều tiếp thu trong công cuộc dựng nước và giữ nước.

Tài năng kiệt xuất của Hưng Đạo vương chính là việc nhận thức rõ nhân dân mới là nguồn sức mạnh giữ nước, nguồn sức mạnh vô địch, nguồn sức mạnh mà không một kẻ thù tàn bạo nào có thể khuất phục. Ông luôn chăm lo sức dân ngay từ thời bình cũng như trong thời chiến. Chủ trương sâu sắc của ông mà đỉnh cao là tư tưởng: “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc mới là thượng sách giữ nước”. Tư tưởng khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc trong nghệ thuật dựng nước và giữ nước chính là quốc sách của cha ông ta từ xưa vậy.  

Thứ Hai, 14 tháng 4, 2025

Đại thắng mùa xuân 1975: Đỉnh cao của nghệ thuật quân sự Việt Nam

 

Cách đây 50 năm, với cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa xuân 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, quân và dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thắng lợi oanh liệt đó đã tạo ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đưa cả nước bước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Đại thắng mùa Xuân 1975 là chiến công chói lọi trong nửa cuối thế kỷ 20 của quân và dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là tài sản vô giá của dân tộc, để lại cho chúng ta những bài học quý báu trên nhiều phương diện. Bài học quyết định, mang tính bao trùm, đó là đường lối lãnh đạo đúng đắn và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó của Đảng ta; trong đó, trực tiếp là đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo của Đảng.

Đánh giá đúng tình hình, nắm vững thời cơ chiến lược.

Đây là thành công nổi bật của Đảng ta về nghệ thuật chỉ đạo chiến lược trong chiến tranh giải phóng và cũng là nét đặc sắc về nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Trải qua mấy chục năm chiến đấu chống giặc Mỹ xâm lược, ta càng đánh càng mạnh, liên tiếp đánh bại các chiến lược chiến tranh, những cố gắng quân sự cao nhất của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris, buộc quân Mỹ và quân các nước đồng minh rút khỏi miền Nam Việt Nam. Đến cuối năm 1974, Đảng ta nhận định: địch không thể đương đầu nổi với lực lượng cách mạng đã mạnh hẳn lên cả về chính trị và quân sự; từ đó, đi đến kết luận: nhân dân ta, dân tộc ta đang đứng trước thời cơ lịch sử để giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Để thực hiện mục tiêu chiến lược, Đảng ta cùng quân, dân cả nước đã hạ quyết tâm chiến lược, mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy quy mô lớn trên toàn chiến trường miền Nam. Để bảo đảm chắc thắng cho cuộc Tổng tiến công chiến lược, Đảng ta đã tính toán, cân nhắc và chuẩn bị hết sức chu đáo; trong đó có việc hệ trọng là tính tới khả năng Mỹ quay lại can thiệp với mức độ và hình thức khác nhau để có sự chủ động đối phó, với quyết tâm cao nhất cả về tinh thần và lực lượng bảo đảm đủ điều kiện giành thắng lợi, kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nhìn lại toàn bộ cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975, chúng ta thấy rõ: nghệ thuật lãnh đạo chiến tranh cách mạng và chỉ đạo chiến lược hết sức tài tình, sắc bén, táo bạo và đầy sức sáng tạo của Đảng ta, cùng với nền khoa học, nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam đặc sắc, phong phú, phát triển đến đỉnh cao.

Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp.

Đại thắng mùa Xuân 1975 là kết cục tất yếu của cả quá trình chiến đấu anh dũng, bền bỉ của đồng bào và chiến sĩ cả nước. Trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, với đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, Đảng ta đã động viên và phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân; đó là: sức mạnh của hậu phương lớn miền Bắc vừa chiến đấu, xây dựng, vừa chi viện đắc lực sức người, sức của cho miền Nam, kết hợp với sức mạnh của đồng bào và chiến sĩ miền Nam trực tiếp trên tuyến đầu đánh Mỹ và thắng Mỹ. Đảng ta đã kiên định và vận dụng sáng tạo quan điểm về con đường cách mạng miền Nam phải là con đường cách mạng bạo lực, với hai lực lượng cơ bản: lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang; kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao; kết hợp khởi nghĩa với chiến tranh cách mạng; đánh địch bằng 3 mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh vận; trên cả 3 vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn đồng bằng và thành thị; kết hợp chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy…

Cuộc tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975 là đỉnh cao của sự kết hợp giữa tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công để đánh bại và làm tan rã toàn bộ lực lượng địch, kết thúc chiến tranh trong thời gian ngắn, có lợi nhất. Nó thể hiện nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh và tài thao lược quân sự sắc bén, sáng tạo, táo bạo mà đúng đắn của Đảng ta. Sự kết hợp giữa tiến công quân sự của bộ đội chủ lực và nổi dậy của quần chúng được thực hiện hết sức chặt chẽ, hiệu quả, trong suốt cuộc tổng tiến công chiến lược.

Kế thừa truyền thống quân sự của dân tộc

Truyền thống quân sự dân tộc được Đảng ta kế thừa, vận dụng sáng tạo trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và phát triển từng bước trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đặc biệt đạt đến đỉnh cao trong cuộc tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975. Đó là nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân Việt Nam hết sức độc đáo, sáng tạo. Nó được vận dụng trong cuộc tổng tiến công chiến lược với những nội dung chủ yếu là: nghệ thuật lựa chọn hướng, mục tiêu tiến công đúng đắn, thời cơ tiến công thích hợp; nghệ thuật tổ chức xây dựng lực lượng và cơ động, tập trung lực lượng kịp thời; nghệ thuật xác định phương pháp tác chiến, hình thức tác chiến phù hợp; nghệ thuật lợi dụng, khai thác triệt để sai lầm của địch, hạn chế điểm mạnh, khoét sâu điểm yếu của chúng; thực hành tiến công mãnh liệt, thần tốc, táo bạo, bất ngờ để tiêu diệt từng bộ phận lớn quân địch, tiến tới tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân địch...

Trong cuộc tổng tiến công chiến lược mùa Xuân 1975, ta tiếp tục đánh địch ở cả rừng núi, đồng bằng và thành thị; trong đó, chọn hướng rừng núi để mở đầu, sau đó phát triển xuống đồng bằng nhưng hướng và mục tiêu của các cuộc tiến công đều là thành thị và cuối cùng đánh chiếm thủ đô của địch cũng là thành thị. Nét đặc sắc của việc chọn hướng, mục tiêu và thời cơ tiến công được thể hiện ở cả phạm vi chiến lược, chiến dịch và chiến thuật; trong đó, tựu trung, chúng ta đều nhằm vào những nơi điểm yếu của địch để đánh bại chúng.

Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, để bảo đảm chắc thắng, hoàn thành quyết tâm chiến lược đã xác định, chúng ta đã huy động lực lượng, cơ sở vật chất, kỹ thuật rất lớn. Chúng ta đã tập trung lực lượng mạnh, có ưu thế hơn hẳn địch về các chỉ số so sánh: tổng quân số, xe tăng, pháo binh,... với sức cơ động cao; nhờ đó, ta đã duy trì được sức mạnh chiến đấu, tốc độ tiến công, hiệu suất chiến đấu cao, thực hiện tốt phương châm: “Thần tốc, táo bạo, bất ngờ” mà Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã chỉ thị để đánh thắng hoàn toàn quân địch trong thời gian ngắn. Những đòn tiến công mãnh liệt của bộ đội chủ lực, kết hợp chặt chẽ với sự tiến công và nổi dậy mạnh mẽ của LLVT địa phương và quần chúng trên các địa bàn, đã tạo nên sức mạnh vô cùng lớn để đánh bại ngụy quân, đập tan ngụy quyền là nét độc đáo, đầy sức sáng tạo của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.

Với đại thắng mùa xuân 1975 - một kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc đã được mở ra - kỷ nguyên đất nước độc lập, thống nhất và tiến lên CNXH. 49 năm đã trôi qua kể từ thắng lợi vẻ vang đó, đất nước Việt Nam độc lập, thống nhất đã tiến những bước dài chưa từng có trong lịch sử, giành những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới. Hào khí Xuân 1975 đã và mãi mãi cổ vũ các thế hệ người Việt Nam quyết tâm gìn giữ nền độc lập thống nhất - thành quả mà các thế hệ cha anh đã đổ biết bao xương máu mới giành được. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu mà đại thắng mùa Xuân 1975 là bản hùng ca tuyệt diệu vẫn đang có ý nghĩa sâu sắc động viên toàn thể dân tộc Việt Nam hôm nay vững bước trên con đường xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

BẢN SẮC “NGOẠI GIAO CÂY TRE” VIỆT NAM

 

Sau 38 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, trong đó có nhiều đóng góp quan trọng của nền đối ngoại, ngoại giao mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”.

Ngoại giao “cây tre Việt Nam” được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lần đầu tiên đề cập tại Hội nghị ngoại giao lần thứ 29 năm 2016. Đến Hội nghị đối ngoại toàn quốc vào tháng 12-2021, đồng chí Tổng Bí thư đã khái quát nội hàm cơ bản của nền đối ngoại, ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam” là “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam. Đây là sự tổng kết và khái quát hóa cao nội dung cốt lõi, xuyên suốt đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta cũng như bản sắc độc đáo của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam được phát triển trên nền tảng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy bản sắc, cội nguồn văn hóa và truyền thống dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại.

Hình tượng “cây tre Việt Nam” đã phản ánh sinh động, nhưng rất giản dị, dễ hiểu về những nội dung cốt lõi và xuyên suốt đường lối đối ngoại của Đảng ta cũng như bản sắc độc đáo của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam. “Gốc vững” là nguyên tắc vì lợi ích quốc gia - dân tộc để phục vụ, là đường lối đối ngoại độc lập - tự chủ, lấy thực lực làm gốc, lấy đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế để tạo thế, lập thời; lấy phương pháp luận Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng soi đường, chỉ lối. “Thân chắc” là những phương pháp tạo nên sức mạnh, trong đó sức mạnh đoàn kết là nhân tố sống còn; đại đoàn kết trong nước là căn bản, đoàn kết quốc tế là nhân tố bổ trợ hết sức quan trọng. Sức mạnh của đối ngoại toàn diện có được dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại... Sức mạnh của Việt Nam còn thể hiện ở tính chính danh, chính nghĩa, phương cách ứng xử nhân văn, có trước có sau, cách hành xử thượng tôn pháp luật và phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại. “Cành uyển chuyển” là phong cách, nghệ thuật ứng xử linh hoạt, vận dụng nguyên tắc “dĩ bất biến ứng vạn biến”, đặc biệt trong các hoàn cảnh khó khăn, có sự mâu thuẫn giữa những xu thế khác nhau, giữa đòi hỏi phải hài hòa cái chung và cái riêng, nhằm giữ vững bản sắc, giá trị đất nước và bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam phù hợp với những giá trị chung của nhân loại. Đó là cách ứng xử “biết mình, biết người”, “biết thời, biết thế”, “biết dừng, biết biến” của tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh.

Thực tiễn đã chứng minh, đường lối đối ngoại, ngoại giao mang bản sắc “cây tre Việt Nam” đã đạt nhiều thành tựu quan trọng, giúp tạo lối, mở đường, từng bước phá thế bao vây, cấm vận, khơi thông quan hệ, mở ra cục diện mới thuận lợi cho công cuộc bảo vệ và phát triển đất nước, nâng cao thế và lực của Việt Nam.

Từ một nước bị bao vây, cấm vận, đến nay, nước ta đã có quan hệ ngoại giao với hơn 190 quốc gia, trong đó có các đối tác chiến lược toàn diện, đối tác chiến lược và đối tác toàn diện. Cùng với đó, khuôn khổ quan hệ với nhiều đối tác quan trọng đã được nâng lên tầm cao mới, tin cậy chính trị với nhiều nước được củng cố vững chắc, hợp tác ngày càng mở rộng, thực chất và hiệu quả; vị thế, uy tín và tiếng nói của Việt Nam được khẳng định nổi bật tại nhiều diễn đàn, cơ chế đa phương quan trọng như ASEAN, Liên hợp quốc, Tiểu vùng Mê Công, Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Đại hội đồng Liên nghị viện ASEAN (AIPA)... Trước biến động phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta đã xử lý đúng đắn quan hệ với các đối tác trên cơ sở kiên định nguyên tắc, linh hoạt sách lược và ứng xử; nhờ đó, vừa thúc đẩy hợp tác để cùng phát triển, vừa bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Cùng với việc được bạn bè quốc tế tín nhiệm, bầu Việt Nam gánh vác nhiều trọng trách quốc tế quan trọng, Việt Nam đã đề xuất nhiều sáng kiến, giải pháp thúc đẩy hợp tác, đóng góp có trách nhiệm vào các vấn đề chung của thế giới như phòng, chống dịch bệnh, thiên tai, biến đổi khí hậu, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, gìn giữ hòa bình...

Có thể khẳng định, trong bối cảnh thế giới tiếp tục trải qua những biến động lớn, đứng trước bước ngoặt chuyển dịch nhanh hơn sang cục diện mới, đa cực, đa trung tâm, đa tầng nấc, “cây tre Việt Nam” vẫn giữ vững thế ổn định và vươn lên. Bản sắc ngoại giao “cây tre Việt Nam” đã được phát huy và thể hiện rõ trong từng hoạt động đối ngoại cũng như trong ứng xử có lý, có tình với từng đối tác và tại từng cơ chế, diễn đàn đa phương. Qua đó, chúng ta đã khẳng định một Việt Nam bản lĩnh, chân thành, thủy chung, tin cậy và có trách nhiệm, đồng thời, giữ vững tổng thể cục diện đối ngoại thuận lợi cho phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh thế giới có nhiều yếu tố bất ổn, bất định. Chưa bao giờ vị thế, uy tín và hình ảnh nước Việt Nam độc lập, tự chủ, phát triển năng động, thân thiện, yêu chuộng hòa bình, nhân văn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực và có trách nhiệm lại nổi bật trên trường quốc tế như hiện nay.

Nhìn tổng thể, trong 38 năm qua, trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam” đã góp phần quan trọng vào thành tựu chung có ý nghĩa lịch sử của đất nước, theo đó, “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Trước những biến chuyển lớn của thời đại, phát huy thế và lực mới của đất nước, bám sát đường lối đối ngoại của Đảng, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, đúng đắn của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, lãnh đạo Đảng và Nhà nước, nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam chắc chắn sẽ càng thể hiện rõ bản sắc “cây tre Việt Nam”: “vững ở gốc, chắc ở thân, uyển chuyển ở cành”, như tin tưởng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, bảo vệ và phát huy mạnh mẽ lợi ích quốc gia - dân tộc, vì một nước Việt Nam XHCN hùng cường, để vinh quang đời đời thuộc về dân tộc Việt Nam văn hiến và anh hùng.

 

THỰC TIỄN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM PHẢN BÁC NHỮNG LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI, XUYÊN TẠC

 

Những luận điệu sai trái, bôi đen hiện thực

Trên các trang tin của những hội nhóm, tổ chức phản động còn tiến hành “tọa đàm, hội luận”, khoe thành quả về các hoạt động vận động, lên tiếng, thúc giục, kêu gọi các tổ chức, cá nhân có tiếng nói gây sức ép lên chính quyền Mỹ từ chối công nhận quy chế nền KTTT ở Việt Nam. VOA tiếng Việt rêu rao “Hàng chục nhà lập pháp Mỹ trong những lần khác nhau đã gửi thư lên Bộ trưởng Thương mại Gina Raimondo để yêu cầu bộ này không cấp quy chế thị trường cho Việt Nam”; BBC Tiếng Việt thì vu cáo “Nguyên nhân Mỹ từ chối nâng cấp Việt Nam lên nền KTTT do nhà nước Việt Nam vẫn can thiệp sâu vào mọi khía cạnh của nền kinh tế, ảnh hưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với hệ thống tư pháp và tệ nạn tham nhũng”. “Té nước theo mưa”, trên Fanpage Việt Tân bôi nhọ rằng, “cứ như thế này thì dân tộc Việt Nam làm sao ngóc đầu nổi”; “Mỹ công bố xếp hạng Việt Nam vào diện nền kinh tế phi thị trường nói lên điều gì”? Để làm nóng sự kiện, Việt Tân còn tổ chức livestream dưới dạng “hội luận” với thành phần tham gia được gắn cái mác như chuyên gia, luật sư, tiến sĩ… Mục đích không gì khác của chiêu trò này là bôi đen, đả phá nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, cổ xúy việc Mỹ chưa công nhận quy chế KTTT cho Việt Nam. Một số phần tử phản động lưu vong cũng nhân cơ hội này lấy làm hả hê, xuyên tạc “độc tài thì làm gì có cơ chế KTTT”, “muốn có KTTT phải đa nguyên, đa đảng”…

Các thế lực thù địch, phản động cố tình lấy cớ sự kiện này để chống phá Đảng, Nhà nước ta, xuyên tạc phải có sự chuyển hướng, thay đổi thể chế chính trị tại Việt Nam, loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chuyển sang đa nguyên, đa đảng thì mới có thể phát triển KTTT. Bằng việc gắn cái mác chuyên gia, nhà quan sát để tỏ ra bài viết, phỏng vấn của mình là có sức nặng, họ “khuyên” Việt Nam thay đổi thể chế thì “lúc đó Mỹ mới có thể công nhận nền KTTT của Việt Nam vì KTTT vốn là của chủ nghĩa tư bản, vận động theo các quy luật của chủ nghĩa tư bản, không thể dung hòa và kết hợp với mục tiêu xây dựng CNXH với định hướng XHCN. Các thế lực thù địch, các tổ chức phản động lưu vong và số đối tượng xấu còn đưa ra suy diễn rằng, dường như Việt Nam đã, đang âm thầm chuyển hướng sang phát triển KTTT theo hướng tư bản chủ nghĩa bằng việc khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, tăng sự điều tiết của thị trường trong những năm qua dù Việt Nam vẫn tuyên truyền bằng cách sử dụng các từ ngữ, khái niệm của CNXH.

Những luận điệu trên cố tình xuyên tạc đường lối phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam; cố tình thổi phồng sự việc, gây tâm lý hoài nghi, dao động, thiếu niềm tin trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân, ảnh hưởng đến sự thống nhất nhận thức, tư tưởng trong Đảng và trong xã hội.

Chủ trương của Đảng, Nhà nước và những thành tựu trong phát triển KTTT định hướng XHCN tại Việt Nam

Về mặt bản chất, KTTT là mô hình kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường; là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển nhất định của văn minh nhân loại. Tại Đại hội lần thứ VII (năm 1991), Đảng ta đã xác định nhiệm vụ “xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Thuật ngữ xây dựng “nền KTTT định hướng XHCN” được Đảng sử dụng lần đầu tại Đại hội lần thứ IX (năm 2001).

Những chủ trương trên đã đánh dấu bước ngoặt cơ bản trong tư duy và quan niệm của Đảng về CNXH và con đường xây dựng CNXH ở nước ta. Từ đó đến nay, nhận thức của Đảng ta về KTTT định hướng XHCN ngày càng được bổ sung, phát triển phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Đến Đại hội XIII, Đảng ta xác định: “KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đó là nền KTTT hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của KTTT, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng XHCN vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”.

Đây là kết quả được rút ra từ quá trình tổng kết thực tiễn gần 40 năm đổi mới; đồng thời, là sự kế thừa và phát triển những thành quả lý luận; phản ánh tư duy nhất quán và sự phát triển nhận thức của Đảng ta về vấn đề này ngày càng rõ hơn, đầy đủ hơn. Những thành tựu của gần 40 năm đổi mới đất nước đã chứng minh sự đúng đắn của đường lối phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. Từ thực tiễn quá trình đổi mới, nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam về cơ bản đã hội đủ các yếu tố của nền KTTT hiện đại theo các chuẩn mực quốc tế, như đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, tự do sản xuất, kinh doanh, lưu thông những hàng hóa mà pháp luật không cấm, các chủ thể kinh tế cạnh tranh bình đẳng, hệ thống các loại thị trường phát triển ngày càng đồng bộ; vai trò của Nhà nước về quản lý kinh tế đã được đổi mới, như quản lý bằng luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và sử dụng nguồn lực kinh tế của Nhà nước, không can thiệp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các chủ thể kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, hạn chế, khắc phục khuyết tật của cơ chế thị trường…

Gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Việt Nam luôn nằm trong nhóm những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, với mức tăng trưởng trung bình gần 7% mỗi năm. Quy mô tổng sản phẩm trong nước (GDP) không ngừng được mở rộng, năm 2023 đạt khoảng 430 tỷ đôla Mỹ, trở thành nền kinh tế lớn thứ 5 trong ASEAN và thứ 35 trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. GDP bình quân đầu người tăng 58 lần, lên mức khoảng 4.300 đôla Mỹ năm 2023; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008 và đặt mục tiêu trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030.

Việc hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng và đa dạng đã tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế nước ta. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam được mở rộng đến 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân trên 10%/năm. Năm 2022, xuất khẩu đạt khoảng 371,5 tỷ USD, tăng 10,5% so với năm 2021. Đây là lần đầu tiên kim ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam lập kỷ lục mới, vượt mốc 730 tỷ USD (tốp 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế). Môi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp chủ động hơn trong việc tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Một số sản phẩm của Việt Nam bước đầu khẳng định thương hiệu và có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Thứ hạng của Việt Nam trong tất cả bảng xếp hạng quan trọng của quốc tế đều được cải thiện. Chỉ số về trình độ phát triển của thị trường Việt Nam tăng 12 bậc so với năm 2020, từ vị trí thứ 34 lên vị trí thứ 22. Các nhóm chỉ số về thương mại, đa dạng hóa và quy mô thị trường tăng từ vị trí thứ 49 lên vị trí thứ 15 - một sự thay đổi hết sức mạnh mẽ; hay chỉ số đa dạng hóa các ngành trong nước cũng xếp thứ hạng khá cao (9/134 nước)

Năm 2020, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) công bố báo cáo đánh giá về nền KTTT của Việt Nam: “Từng là một trong những quốc gia nghèo nhất vào giữa những năm 1980, Việt Nam đã phát triển nhanh chóng, trở thành quốc gia có thu nhập trung bình thấp vào năm 2010. Công cuộc Đổi mới năm 1986 đã khởi đầu một quá trình chuyển đổi kinh tế trên diện rộng, xóa bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa, mở cửa nền kinh tế, bước ra thị trường và thương mại quốc tế, đồng thời khởi xướng các cải cách theo hướng ủng hộ các hoạt động đầu tư, kinh doanh. Sau những chính sách này, Việt Nam đã duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đưa đất nước trở thành nền KTTT mới nổi chỉ trong vòng 25 năm”. Tương tự IMF, các báo cáo do những tổ chức quốc tế khác như Ngân hàng Thế giới (WB) cũng ghi nhận, chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang KTTT đã giúp Việt Nam đạt nhiều thành tựu. Hiện tại, Việt Nam là một trong những quốc gia năng động nhất khu vực Đông Á - Thái Bình Dương.

Đến nay, theo Bộ Công Thương, 72 nước đã công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường, bao gồm các nền kinh tế lớn như Canada, Australia, Nhật Bản, Hàn Quốc... Mới nhất, Vương quốc Anh đã có Thư chính thức công nhận quy chế thị trường của Việt Nam. Việt Nam cũng đã tham gia 16 hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương với hơn 60 đối tác thương mại trên thế giới. Những thành tựu đổi mới của Việt Nam đã cho thấy, việc xây dựng nền KTTT định hướng XHCN không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết rất tốt những vấn đề xã hội.

Thực tế sinh động trên đã khẳng định: Nền kinh tế Việt Nam được các quốc gia, tổ chức, chuyên gia quốc tế đánh giá cao trong việc xây dựng cơ chế thị trường những năm qua, đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho quần chúng nhân dân. Do đó, mỗi chúng ta cần nâng cao tinh thần cảnh giác trước những luận điệu sai trái, xuyên tạc trên không gian mạng, giữ vững niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và nền KTTT định hướng XHCN của Việt Nam.

Ngày 3/8, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Thu Hằng đã trả lời câu hỏi của phóng viên về phản ứng của Việt Nam trước việc Bộ Thương mại Hoa Kỳ tiếp tục xác định Việt Nam là nền kinh tế phi thị trường. Bà Phạm Thu Hằng cho biết, trong thời gian qua, các cơ quan, doanh nghiệp Việt Nam đã tích cực phối hợp với Bộ Thương mại Hoa Kỳ cung cấp nhiều lập luận thuyết phục khẳng định kinh tế Việt Nam đã đáp ứng đầy đủ 6 tiêu chí KTTT theo quy định của luật pháp Hoa Kỳ. Điều này cũng được nhiều hiệp hội, doanh nghiệp, chuyên gia Hoa Kỳ và quốc tế ủng hộ. Trên thực tế, đến nay, có 72 quốc gia đã công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường. Các tổ chức quốc tế đều ghi nhận những bước tiến vượt bậc của kinh tế Việt Nam. “Trên tinh thần quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện, Việt Nam đề nghị Hoa Kỳ tiếp tục thực hiện cam kết về việc phối hợp rộng rãi, mạnh mẽ, mang tính xây dựng và tiến tới sớm công nhận quy chế KTTT của Việt Nam. Các cơ quan hữu quan của Việt Nam sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các đối tác Hoa Kỳ bảo đảm quan hệ kinh tế, thương mại song phương tiếp tục phát triển ổn định, hài hòa, mang lại lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp và người dân hai nước” – Người phát ngôn Phạm Thu Hằng nêu rõ.

Đồng hành cùng ngư dân miền Trung trên hải trình bám biển, vươn khơi



Kết hợp giữa kiểm soát chặt chẽ với tuyên truyền, hướng dẫn ngư dân thực hiện nghiêm các quy định, Trạm Kiểm soát Biên phòng Mân Quang (Đồn Biên phòng Sơn Trà, BĐBP thành phố Đà Nẵng) dần đưa công tác quản lý tàu thuyền ngày càng đi vào nền nếp, từ đó, giảm thiểu các vi phạm, bảo đảm môi trường khai thác thủy sản an toàn, bền vững. Sự đồng hành của những người lính Biên phòng trở thành điểm tựa tin cậy, vững chắc của ngư dân trên hành trình vươn khơi, góp phần phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

 

Trạm Kiểm soát Biên phòng Mân Quang có nhiệm vụ kiểm soát phương tiện ra vào khu vực âu thuyền, cảng cá Thọ Quang - âu thuyền, cảng cá lớn nhất khu vực miền Trung, nơi có hàng trăm tàu cá từ nhiều tỉnh, thành tại khu vực miền Trung như thành phố Đà Nẵng, các tỉnh: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa... ra vào mỗi ngày. Khối lượng công việc nhiều, bởi vậy, nhiệm vụ kiểm soát phương tiện, con người đặt ra yêu cầu rất cao, cán bộ, chiến sĩ của trạm phải luôn thường trực, sẵn sàng và sử dụng thành thạo các thiết bị để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ. Bên cạnh những thuận lợi, cán bộ làm nhiệm vụ cũng gặp không ít khó khăn.

Cũng theo Đại úy Võ Xuân Chí, công tác kiểm soát được thực hiện chặt chẽ nhưng linh hoạt, việc tuyên truyền gắn với hoạt động thực tiễn hướng dẫn cụ thể giúp ngư dân yên tâm bám biển, khai thác hợp pháp và bền vững. “Chúng tôi cũng đã cố gắng tận dụng, phát huy lợi thế của công nghệ, máy móc để dễ liên lạc, hướng dẫn ngư dân sử dụng trong tìm kiếm ngư trường đánh bắt, định vị, phòng tránh thiên tai; đồng thời, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, hướng dẫn như in tờ rơi, in phiếu danh mục các giấy tờ và sổ sách để phát cho bà con dễ sử dụng, dễ bảo quản, nhất là trong điều kiện trên biển và mưa bão” - Đại úy Võ Xuân Chí cho hay.

Sự tận tình, trách nhiệm trong công việc, luôn đặt lợi ích của ngư dân lên hàng đầu chính là sự kết nối và tạo dựng lòng tin của ngư dân đối với cán bộ, chiến sĩ Trạm Kiểm soát Biên phòng Mân Quang. Ông Nguyễn Văn Tiến, thuyền trưởng tàu ĐNa 83295TS cho biết: “Việc thực hiện các quy định khi làm thủ tục xuất bến đối với bà con ngư dân chúng tôi đã trở thành nền nếp, chúng tôi luôn chấp hành nghiêm quy định của pháp luật. Các cán bộ Trạm Kiểm soát Biên phòng Mân Quang cũng luôn thân thiện, tận tình giúp đỡ, hỗ trợ ngư dân khi làm thủ tục, giúp chúng tôi yên tâm vươn khơi".

Trước thực trạng khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU), Trạm Kiểm soát Biên phòng Mân Quang đã triển khai nhiều biện pháp kiểm soát chặt chẽ. Mỗi tàu cá khi xuất, nhập bến qua trạm đều phải ký cam kết không vi phạm IUU, đồng thời, phải bảo đảm các quy định về an toàn kỹ thuật, phòng cháy chữa cháy, danh sách và bảo hiểm thuyền viên, các giấy tờ hành nghề của thuyền trưởng, máy trưởng. Những trường hợp không khai báo trước khi xuất bến sẽ bị xử phạt và buộc quay lại âu thuyền Thọ Quang để hoàn thành các thủ tục cần thiết. Cùng với kiểm tra, kiểm soát, Trạm Kiểm soát Biên phòng Mân Quang còn tăng cường xử lý những tàu không duy trì thiết bị giám sát hành trình theo quy định. Việc xử lý này không chỉ giúp hạn chế vi phạm, mà còn nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của ngư dân, góp phần giúp ngành thủy sản của Việt Nam sớm được Ủy ban châu Âu gỡ "thẻ vàng".

Cán bộ Trạm Kiểm soát Biên phòng Mân Quang cũng đặc biệt chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật để ngư dân yên tâm làm ăn trên biển bằng việc thường xuyên tổ chức các buổi gặp gỡ, thông tin về Luật Biển Việt Nam, các quy định đánh bắt an toàn, không xâm phạm vùng biển nước ngoài. Bên cạnh việc kiểm tra, khi làm thủ tục xuất bến, cán bộ Trạm Kiểm soát Biên phòng Mân Quang cũng nhắc nhở các chủ tàu khai báo, thực hiện đúng các quy định trước khi xuất bến để bảo đảm an toàn khi ra khơi. Sự tận tâm, trách nhiệm của những người lính Biên phòng chính là cầu nối để gắn kết tình quân dân, tạo nên sự đồng lòng trong hải trình phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.

THÀNH QUẢ TO LỚN KHẲNG ĐỊNH VAI TRÒ LÃNH ĐẠO ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM

 

Trong dòng chảy lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc từ khi ra đời tới nay là lịch sử dựng nước và giữ nước. Dựng nước luôn luôn gắn chặt với giữ nước, trong đó dựng nước là yếu tố cơ bản. Phải xây dựng được đất nước hùng mạnh về mọi mặt mới có điều kiện, khả năng chiến thắng các thế lực thù địch và phải giữ được nước mới có điều kiện để xây dựng đất nước. Vì vậy, ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta liên tiếp đứng lên chống lại chúng.

Từ năm 1858 đến trước năm 1930, hàng trăm cuộc khởi nghĩa, phong trào chống Pháp đã nổ ra theo nhiều khuynh hướng khác nhau như khởi nghĩa của Trương Công Định, Thủ Khoa Huân, phong trào Cần Vương, phong trào Đông Du, Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân; các cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thái Học... lãnh đạo. Các cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh đó vô cùng anh dũng, nhưng đã bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo và đều thất bại.

Việc tìm một con đường cứu nước đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc và thời đại là nhu cầu bức thiết nhất của dân tộc ta lúc bấy giờ. Sự đô hộ của thực dân Pháp gần một thế kỷ đã chứng tỏ cả giai cấp phong kiến và đại diện cho các thế lực tư sản đã hết vai trò lịch sử, vận mệnh của dân tộc và đất nước lâm vào tình thế bế tắc, không có đường ra. Vấn đề bức thiết đặt ra lúc đó là bằng con đường nào, cách thức nào, tổ chức lực lượng thế nào để đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại độc lập dân tộc.

Vấn đề vô cùng bức thiết này đã được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh) đưa ra lời giải đáp. Chính nhờ kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước trên cơ sở tiếp thu và vận dụng sáng tạo những tinh hoa của triết học và văn hóa phương Đông và phương Tây mà Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước (1911) và đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin (1920). Con đường cứu nước đúng đắn đã được xác định, đó là con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.

Trong suốt 30 năm đi tìm đường cứu nước, Người đã nhận rõ con đường giành độc lập dân tộc phải là con đường cách mạng vô sản. Nguyễn Ái Quốc đã gieo hạt, gây mầm và tạo dựng sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Với kỳ công của Người, đã kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam chuyển hóa thành một sự kiện trọng đại: năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời.

Từ khi xuất hiện trên vũ đài chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tỏ rõ là một đảng cách mạng chân chính nhất, có sức hội tụ lớn nhất mọi sức mạnh của dân tộc, của giai cấp, sớm trở thành đội tiên phong của giai cấp và của dân tộc trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến.

Qua đó, Đảng ta đã lãnh đạo Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đánh đuổi đế quốc, thực dân, lật đổ chế độ phong kiến, lập ra nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên độc lập, tự do và CNXH. Khi thực dân Pháp trở lại xâm lược Việt Nam, cả dân tộc Việt Nam đã nghe theo lời kêu gọi của Đảng, của Bác Hồ, lên đường kháng chiến và cuối cùng đã giành được thắng lợi to lớn, đánh thắng đế quốc xâm lược và lập lại hoà bình ở miền Bắc Việt Nam.

Trong hoàn cảnh đất nước tạm bị chia làm hai miền, Đảng đã lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành đồng thời hai cuộc cách mạng: Cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Khi Mỹ đưa quân vào xâm lược miền Nam, tiến hành chiến tranh cục bộ đánh phá các căn cứ cách mạng ở miền Nam và mở rộng chiến tranh xâm lược ra miền Bắc (1964), Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân hai miền "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào", giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc (1975), Đảng ta còn tiếp tục lãnh đạo nhân dân chiến thắng hai cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam và biên giới phía Bắc (1979), bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo của Tổ quốc, đưa cả nước đi lên CNXH.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với việc đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Việt Nam đã chuyển sang cơ chế thị trường, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Với việc lựa chọn con đường phát triển đúng trọng tâm, phù hợp quy luật, từ một nước nông nghiệp, lạc hậu, nghèo nàn, quy mô nền kinh tế nhỏ bé, Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008.

Năm 2024, tăng trưởng kinh tế của cả nước đạt 7,09% GDP (vượt mức mục tiêu đề ra là 6 - 6,5% GDP), thuộc nhóm số ít các nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới. Việt Nam đã có quy mô nền kinh tế gần 500 tỉ USD, tăng gần 100 lần so với năm 1986, đứng thứ tư Đông Nam Á và thứ 34 thế giới; giá trị thương hiệu quốc gia Việt Nam năm 2024 đạt 507 tỉ USD, xếp thứ 32/193, tăng 1 bậc so với năm 2023.

Theo báo cáo "Kinh tế số Đông Nam Á năm 2024" do Google - Temasek công bố, năm 2024, quy mô nền kinh tế internet Việt Nam đạt 36 tỉ USD, tăng 16% so với năm 2023. Thương mại điện tử bán lẻ tiếp tục là trụ cột với 22 tỉ USD, tăng 18% và chiếm 61% tổng quy mô nền kinh tế internet. Dự kiến, thương mại điện tử sẽ đạt 45 tỉ USD năm 2025. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện ước đạt 25,35 tỉ USD, tăng 9,4% so với năm 2023, đạt mức cao nhất từ trước tới nay.

Theo Báo cáo Chỉ số đổi mới sáng tạo (GII) 2024 của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO): Chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam được xếp hạng 44/133 quốc gia, nền kinh tế, tăng 2 bậc so với năm 2023. Trong đó, đầu vào đổi mới sáng tạo tăng 4 bậc so với năm 2023, từ vị trí 57 lên 53; đầu ra đổi mới sáng tạo tăng 4 bậc so với năm 2023, từ vị trí 40 lên 36.

Theo Báo cáo khảo sát Chính phủ điện tử năm 2024 của Liên hợp quốc, Việt Nam vươn lên vị trí thứ 71/193 quốc gia, tăng 15 bậc so với năm 2022, đây là lần đầu tiên Việt Nam được xếp vào nhóm Chỉ số phát triển Chính phủ điện tử (EGDI) ở mức rất cao và vươn lên vị trí xếp hạng cao nhất kể từ khi bắt đầu tham gia đánh giá EGDI của Liên hợp quốc.

Dịp kỷ niệm Ngày thành lập Đảng hằng năm luôn nhận được sự quan tâm, chúc mừng từ các chính đảng, tổ chức, bạn bè quốc tế. Đây là minh chứng sinh động cho uy tín của Đảng ta và sự cảm phục đặc biệt mà các quốc gia, chính đảng, nguyên thủ quốc gia trên thế giới dành cho Đảng Cộng sản Việt Nam. Đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thiết lập quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia; trong đó 96 đảng Cộng sản, 63 đảng cầm quyền, 28 đảng tham gia liên minh cầm quyền, tham chính. Đây là con số ấn tượng, riêng có mà một chính đảng cầm quyền trên thế giới thiết lập nên.

Nhân dịp kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch Đảng Nhân dân Campuchia Hun Sen, Bí thư Thứ nhất Đảng Cộng sản Cuba, Chủ tịch nước Cộng hòa Cuba Miguel Díaz-Canel Bermúdez và Đại tướng Raúl Castro Ruz, Tổng Bí thư Đảng Lao động Triều Tiên Kim Jong Un… đã gửi thư, điện chúc mừng tới Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam…

Trong bài trả lời phỏng vấn nhân dịp năm mới Ất Tỵ 2025, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là kỷ nguyên phát triển bứt phá, tăng tốc dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng thành công nước Việt Nam XHCN giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc; đuổi kịp, tiến cùng, sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước XHCN phát triển, có thu nhập cao; mọi người dân đều được phát triển toàn diện, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, văn minh.

Nhờ sự quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt của cả hệ thống chính trị, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục đóng góp quan trọng vào củng cố vững chắc môi trường hòa bình, ổn định và cục diện đối ngoại rộng mở, thuận lợi cho phát triển kinh tế-xã hội, đời sống người dân được ấm no. Độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ được đảm bảo, đồng thời tiếp tục nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước. Đó là thực tiễn sống động về một Việt Nam vững mạnh và phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hướng đến kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động.

 Giải phóng Trường Sa - Chiến công có ý nghĩa chiến lược trong giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước

Mùa Xuân năm 1975, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta đã giành thắng lợi hoàn toàn. Trong bản hùng ca vĩ đại ấy, chiến công giải phóng quần đảo Trường Sa có ý nghĩa to lớn, khẳng định tư duy, tầm nhìn chiến lược của Đảng về toàn vẹn lãnh thổ, đặt nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Những tháng đầu năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta liên tiếp giành được những thắng lợi vang dội, làm thay đổi cục diện chiến trường miền Nam. Đặc biệt, sau chiến thắng Buôn Ma Thuột, thời cơ chiến lược để giải phóng hoàn toàn miền Nam đã chín muồi, Quân ủy Trung ương đã đề xuất với Bộ Chính trị phương án: “Vừa chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, vừa tiến hành giải phóng các đảo và quần đảo…”1 hoàn thành công cuộc thống nhất đất nước. Thực hiện quyết tâm chiến lược của Đảng, Bộ Tổng Tham mưu đã chỉ đạo Quân chủng Hải quân phối hợp với Quân khu 5 tổ chức lực lượng giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa do ngụy quyền đóng giữ. Trước ý nghĩa đặc biệt quan trọng của nhiệm vụ này, Bộ Tổng Tham mưu yêu cầu phải tranh thủ mọi thời cơ có lợi, khẩn trương giải phóng quần đảo Trường Sa, không để lực lượng nước ngoài vào chiếm đóng trái phép.

Thực hiện trọng trách hết sức thiêng liêng đó, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân đã huy động tối đa lực lượng, vừa tham gia giải phóng Sài Gòn, vừa khẩn trương phối hợp với Quân khu 5 tiến công giải phóng Trường Sa. Theo đó, Quân chủng đã sử dụng phân đội tàu (thuộc Đoàn 125) và Đội 1 (Trung đoàn 126) cùng lực lượng tăng cường của Tiểu đoàn 471 Đặc công Quân khu 5 tổ chức hành quân vượt biển, đổ bộ tiến công giải phóng quần đảo Trường Sa. Với phương châm thần tốc, táo bạo, bí mật, bất ngờ, kiên quyết không để lực lượng khác lợi dụng sơ hở đánh chiếm đảo của ta; sau gần 20 ngày tổ chức chuẩn bị và thực hành chiến đấu (10/4/1975 - 29/4/1975), Quân chủng Hải quân đã phối hợp với Quân khu 5 lần lượt giải phóng đảo Song Tử Tây (ngày 14/4), Sơn Ca (ngày 25/4), Nam Yết (ngày 27/4), Sinh Tồn (ngày 28/4) và đến ngày 29/4 làm chủ đảo Trường Sa Lớn, kết thúc thắng lợi nhiệm vụ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về mặt chiến lược do Quân ủy Trung ương giao cho Quân chủng Hải quân. Đây là chiến công có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, không chỉ góp phần làm nên thắng lợi trọn vẹn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, mà còn khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa. Đồng thời, ngăn chặn nguy cơ các thế lực thù địch lợi dụng cơ hội để chiếm đóng trái phép.

Giải phóng Trường Sa năm 1975 đã đặt nền móng vững chắc cho sự nghiệp bảo vệ toàn vẹn chủ quyền biển, đảo và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng những bài học và ý nghĩa lịch sử của chiến công giải phóng Trường Sa vẫn vẹn nguyên những giá trị thực tiễn trong việc nắm bắt thời cơ, xây dựng quyết tâm, phối hợp hiệp đồng, tổ chức sử dụng lực lượng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao. Đây là những kinh nghiệm quý báu để tiếp tục vận dụng, phát huy truyền thống và giá trị lịch sử những bài học trên trong điều kiện mới, thực hiện thắng lợi trọng trách bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Theo đó, Quân chủng Hải quân xác định thực hiện tốt các giải pháp sau:

Thực hành bắn đạn thật trên biển.

Trước hếtthường xuyên nắm, dự báo đúng tình hình, kịp thời tham mưu với Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng chủ trương, giải pháp xử lý hiệu quả các tình huống trên biển. Thực tiễn quá trình tiến công giải phóng Trường Sa cho thấy, nhờ nắm vững âm mưu, ý đồ và bố trí lực lượng của địch, Quân chủng Hải quân đã phối hợp xây dựng quyết tâm, tổ chức lực lượng táo bạo, bí mật tiến công và giành chiến thắng với tổn thất thấp nhất. Phát huy kinh nghiệm đó, những năm qua, Quân chủng luôn chú trọng công tác nắm, nghiên cứu, đánh giá tình hình, đặc biệt là tham vọng và toan tính chiến lược của các nước lớn trên Biển Đông,… từ đó, tham mưu kịp thời, chính xác với Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng chủ trương, giải pháp xử lý linh hoạt các tình huống, bảo đảm không để bị động, bất ngờ, kiên quyết giữ vững chủ quyền và ổn định trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc. Đáng chú ý, trước những thủ đoạn, hành vi xâm phạm của các tàu nước ngoài trên vùng biển nước ta, Quân chủng đã tích cực phối hợp với các cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao tham mưu, đề xuất đối sách xử trí các tình huống trên biển; kịp thời cung cấp thông tin, hình ảnh, số liệu trên thực địa làm bằng chứng phục vụ đấu tranh với các hành động vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam, góp phần giữ vững môi trường hoà bình trên biển.

Trước sự phát triển của yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nhất là nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, thời gian tới, Quân chủng tiếp tục chỉ đạo các cơ quan, vùng Hải quân đẩy mạnh thực hiện phương châm: “nắm chắc tình hình, phát hiện sớm, xử lý kịp thời hiệu quả những yếu tố bất lợi, nhất là nguy cơ gây đột biến, thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống từ cơ sở”. Duy trì nghiêm nền nếp canh trực, sẵn sàng chiến đấu, tăng cường tuần tra, trinh sát, nắm chắc tình hình trên biển; phối hợp chặt chẽ với các lực lượng liên quan để theo dõi sát tình hình các khu vực biển trọng điểm, đưa ra các dự báo sâu, chính xác xu hướng phát triển của tình hình, nhất là những vấn đề mới ở tầm chiến lược, làm cơ sở để tham mưu hoạch định đường lối, đối sách xử lý các tình huống, ngăn ngừa những vấn đề có nguy cơ gây đột biến và đe dọa đến an ninh, trật tự, an toàn trên biển, thách thức đối với môi trường hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.

Hai làtích cực, chủ động tham gia xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân trên biển ngày càng vững mạnh. Chiến công giải phóng Trường Sa năm 1975 đã khẳng định tầm nhìn chiến lược của Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, đồng thời đặt nền móng vững chắc cho sự nghiệp bảo vệ toàn vẹn chủ quyền biển, đảo. Vận dụng bài học đó, để phát huy sức mạnh tổng hợp, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Tổ quốc, Quân chủng luôn chú trọng tham mưu với Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng các chủ trương, giải pháp xây dựng, củng cố thế đứng vững chắc của ta trên các đảo, quần đảo, trở thành “lá chắn” bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Trọng tâm là tham mưu điều chỉnh, bố trí các lực lượng Hải quân trên các khu vực, tạo thế bố trí chiến lược, bảo đảm có chiều sâu, hình thành thế trận “bờ - biển - đảo” liên hoàn, vững chắc, sẵn sàng chuyển hóa thành thế trận chiến tranh nhân dân trên biển khi có tình huống. Trước mắt, Quân chủng tập trung nghiên cứu, đề xuất điều chỉnh thế bố trí lực lượng Hải quân trên các vùng biển, đảo, để có khả năng chuyển hóa thế trận linh hoạt, hiệp đồng chặt chẽ, bảo đảm vừa tác chiến liên hợp, tác chiến hiệp đồng quân chủng, binh chủng, nhưng khi cần có thể độc lập tác chiến, nhất là ở vùng biển, đảo trọng điểm. Kiện toàn tổ chức, lực lượng hậu cần - kỹ thuật Hải quân gắn với xây dựng tiềm lực hậu cần - kỹ thuật nhân dân, hậu cần - kỹ thuật khu vực phòng thủ ven biển. Nghiên cứu đổi mới phương thức, nâng cao khả năng bảo đảm hậu cần - kỹ thuật cho các lực lượng, nhất là lực lượng hoạt động dài ngày trên biển, lực lượng được trang bị hiện đại. Cùng với đó, Quân chủng chủ động phối hợp với các bộ, ngành Trung ương, địa phương ven biển xây dựng lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ biển vững mạnh, có phương án sẵn sàng động viên, huy động tham gia bảo vệ chủ quyền biển, đảo, tạo điểm tựa cho ngư dân vươn khơi, bám biển, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, “thế trận lòng dân” trên biển ngày càng vững chắc. Đồng thời, đẩy mạnh xây dựng các khu kinh tế, quốc phòng, các cơ sở hạ tầng lưỡng dụng, cơ sở dân sinh, ưu tiên những vùng biển, đảo xa, còn nhiều khó khăn; tăng cường xây dựng hệ thống công trình phòng thủ trên các đảo, các âu tàu, bến cảng, v.v. Nghiên cứu, đề xuất xây dựng, hoàn thiện hệ thống luật pháp về biển, tạo khung pháp lý thống nhất trong phát triển kinh tế biển gắn với quản lý, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển. Đặc biệt, tham mưu xây dựng chính sách khuyến khích, động viên ngư dân định cư lâu dài trên các đảo góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Ba làđẩy mạnh đổi mới công tác huấn luyện chiến đấu, đảm bảo vừa nâng cao khả năng tác chiến hiệp đồng quân chủng, binh chủng, vừa có thể độc lập tác chiến khi cần thiết. Để cuộc tiến công giải phóng Trường Sa giành thắng lợi, Quân chủng Hải quân đã phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với Quân khu 5 làm tốt công tác chuẩn bị mọi mặt, nhất là tổ chức huấn luyện bổ sung, thực hành luyện tập đánh chiếm đảo,… sát với phương án kế hoạch tác chiến đã xác định. Trong quá trình hành quân và chiến đấu, Quân chủng đã tổ chức cơ động bảo đảm bí mật, ngụy trang khéo léo, linh hoạt đổi hướng nghi binh, đánh lừa địch; khi đổ bộ đã triệt để lợi dụng đêm tối, hành động bí mật, bất ngờ, nhanh chóng làm chủ trận đánh và chuyển sang phòng ngự bảo vệ đảo, chống địch phản kích. Hiện nay, trước sự phát triển của nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, việc nâng cao chất lượng huấn luyện chiến đấu của Quân chủng càng có ý nghĩa quan trọng. Thực hiện nội dung này, Quân chủng tiếp tục quán triệt, thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 1659-NQ/QUTW, ngày 20/12/2022 của Quân ủy Trung ương về nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2023 - 2030 và những năm tiếp theo. Trong đó, thực hiện huấn luyện: “cơ bản, làm chủ, chuyên sâu trong khai thác sử dụng vũ khí, trang bị kỹ thuật” làm khâu đột phá; lấy nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo và xây dựng Quân chủng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại làm mục tiêu huấn luyện. Các cơ quan, đơn vị bám sát phương châm “Cơ bản, thiết thực, vững chắc”, tích cực đổi mới nội dung, phương pháp huấn luyện, diễn tập, đảm bảo đồng bộ, chuyên sâu, sát đối tượng tác chiến, môi trường hoạt động và tổ chức biên chế, vũ khí, trang bị hiện có. Cùng với đó, Quân chủng chỉ đạo các đơn vị đẩy mạnh đổi mới công tác hợp luyện, diễn tập theo hướng: tăng cường hoạt động đối kháng và diễn tập hiệp đồng quân, binh chủng, cụm lực lượng hải quân; tăng cường huấn luyện, diễn tập bằng phương pháp mô phỏng, tự động hóa chỉ huy theo thời gian thực và tác chiến không gian mạng, thuần thục các phương án sẵn sàng ứng phó với các thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống.

Bốn làtăng cường hợp tác quốc tế, đối ngoại quốc phòng, xây dựng môi trường hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Đầu năm 1975, trong bối cảnh ta dồn sức cho cuộc quyết chiến chiến lược để giải phóng miền Nam, còn quân ngụy thì đứng trước nguy cơ tan rã có thể sẽ rút khỏi quần đảo Trường Sa bất cứ lúc nào; do vậy, nguy cơ thế lực bên ngoài lợi dụng để chiếm đóng đảo trái phép rất cao. Trên cơ sở nhận định rõ tình hình, Đảng ta đã nhạy bén, quyết định đồng thời tiến công giải phóng Trường Sa, khẳng định chủ quyền biển, đảo Tổ quốc. Vận dụng bài học đó, những năm qua, trước bối cảnh tình hình Biển Đông diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất ổn định, Quân chủng luôn quán triệt, thực hiện nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, nhất là phương châm đối ngoại quốc phòng là “kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa” nhằm giữ vững môi trường ổn định để phát triển đất nước. Đến nay, Hải quân Việt Nam đã có quan hệ hợp tác với hải quân của 50 nước trong và ngoài khu vực; trong đó, có 05 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Đồng thời, tích cực tham gia và có nhiều đóng góp quan trọng trong các cơ chế hợp tác hải quân khu vực và quốc tế như: Hội nghị Tư lệnh Hải quân các nước ASEAN (ANCM), Hội nghị Tư lệnh Hải quân các nước Tây Thái Bình Dương (WPNS), Nhóm chuyên gia Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+) về an ninh hàng hải và các diễn đàn, hoạt động giao lưu, hợp tác huấn luyện, đào tạo, tuần tra chung, diễn tập,… góp phần củng cố lòng tin chính trị, thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa Hải quân Việt Nam với hải quân các nước trong khu vực và quốc tế.

Phát huy kết quả đó, thời gian tới, Quân chủng tiếp tục nghiên cứu, tham mưu mở rộng các hoạt động đối ngoại quốc phòng. Trong đó, tập trung nâng cao hiệu quả đối ngoại quốc phòng song phương với hải quân các nước, nhất là các nước láng giềng, các nước lớn, đối tác quan trọng, các nước ASEAN và bạn bè truyền thống đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững, lâu dài trên nguyên tắc bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc, bình đẳng, cùng có lợi, tuân thủ luật pháp quốc tế. Chú trọng thúc đẩy trao đổi, đàm phán để mở rộng cơ chế Tham vấn Hải quân song phương, tuần tra chung, tuần tra liên hợp, thiết lập đường dây nóng với hải quân các nước láng giềng có biển. Phát huy và thực hiện tốt các cơ chế hợp tác, thỏa thuận quốc tế đã ký kết; nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực kỹ thuật hải quân, chuyển giao công nghệ, huấn luyện - đào tạo, kinh tế, thủy đạc, tìm kiếm cứu nạn, chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định. Mở rộng quan hệ, phát huy vai trò trong các cơ chế hợp tác với hải quân các nước; tăng cường hợp tác ứng phó với các thách thức an ninh phi truyền thống. Qua đó, thúc đẩy quan hệ, tăng cường hợp tác giữa Hải quân Việt Nam với hải quân các nước, nâng cao uy tín, vị thế của Hải quân Việt Nam trên trường quốc tế; góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, ngăn ngừa và đẩy lùi nguy cơ xung đột, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Chiến công giải phóng Trường Sa năm 1975 có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, không chỉ góp phần làm nên thắng lợi trọn vẹn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, mà còn khẳng định vững chắc chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa. Đồng thời, ngăn chặn âm mưu chiếm đóng trái phép của các thế lực thù địch, tạo tiền đề quan trọng cho sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong thời kỳ mới. Phát huy ý nghĩa lịch sử và những bài học kinh nghiệm quý báu đó, Quân chủng Hải quân tiếp tục xây dựng lực lượng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, kiên quyết bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Phó Đô đốc TRẦN THANH NGHIÊM, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Tư lệnh Quân chủng Hải quân
____________________
        

1 - Võ Nguyên Giáp – Tổng tập hồi ký, Nxb QĐND, H. 2014, tr. 1312.

Q1

 Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình thăm cấp Nhà nước đến Việt Nam

Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước CHND Trung Hoa Tập Cận Bình thăm cấp Nhà nước tới nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ ngày 14 đến 15/4/2025.


Nhận lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Lương Cường, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình sẽ thăm cấp Nhà nước tới nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ ngày 14 đến 15/4/2025.

Tham gia Ðoàn có các đồng chí: Thái Kỳ, Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, Bí thư Ban Bí thư, Chánh Văn phòng Trung ương; Vương Nghị, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Văn phòng Ủy ban Công tác Ðối ngoại Trung ương, Bộ trưởng Ngoại giao; Vương Tiểu Hồng, Bí thư Ban Bí thư, Ủy viên Quốc vụ, Bộ trưởng Công an; Lưu Kiến Siêu, Ủy viên Trung ương Ðảng, Trưởng ban Liên lạc đối ngoại Trung ương; Đổng Quân, Ủy viên Trung ương Ðảng, Bộ trưởng Quốc phòng; Trịnh San Khiết, Ủy viên Trung ương Ðảng, Chủ nhiệm Ủy ban Cải cách và Phát triển quốc gia; Vương Văn Ðào, Ủy viên Trung ương Ðảng, Bộ trưởng Thương mại; Đường Phương Dụ, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Nghiên cứu chính sách Trung ương; Hà Vĩ, Ðại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Việt Nam; Tôn Vệ Đông, Thứ trưởng Ngoại giao; La Chiếu Huy, Cục trưởng Cục Hợp tác phát triển quốc tế.

Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sinh tháng 6/1953; quê quán: Phú Bình-Thiểm Tây (Trung Quốc).

Đồng chí Tập Cận Bình gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc tháng 1/1974. Đồng chí từng là nghiên cứu sinh chuyên ngành Lý luận Chủ nghĩa Marx và Giáo dục Tư tưởng chính trị, Học viện Nhân văn và Xã hội, Đại học Thanh Hoa; có bằng Kỹ sư hóa học; Tiến sỹ Luật.

Ðồng chí Tập Cận Bình đã trải qua quá trình học tập và giữ nhiều cương vị công tác: giai đoạn từ năm 1969-1975, đồng chí là Thanh niên tri thức, Bí thư Chi bộ tại Đại đội Lương Gia Hà, Công xã Văn An Dịch, huyện Diên Xuyên, tỉnh Thiểm Tây;

Giai đoạn 1975-1979 đồng chí học chuyên ngành Hóa hữu cơ tổng hợp, khoa Hóa, Đại học Thanh Hoa, Bắc Kinh; 1979-1982: là Thư ký Văn phòng Quốc Vụ viện, Văn phòng Quân ủy Trung ương; 1982-1983: Phó Bí thư Huyện ủy Chính Định, tỉnh Hà Bắc;

Giai đoạn 1983-1985: Bí thư Huyện ủy Chính Định, tỉnh Hà Bắc, kiêm Chính ủy thứ nhất, Bí thư thứ nhất Đảng ủy Ban Vũ trang, huyện Chính Định, tỉnh Hà Bắc; 1985-1988: Thường vụ Thành ủy, Phó Thị trưởng (Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân) thành phố Hạ Môn, tỉnh Phúc Kiến;

Giai đoạn 1988-1990: Bí thư Địa ủy Ninh Đức, tỉnh Phúc Kiến, kiêm Bí thư thứ nhất Đảng ủy Phân quân khu Ninh Đức, tỉnh Phúc Kiến; 1990-1993: Bí thư Thành ủy, Chủ nhiệm Ủy ban thường vụ Nhân đại (Chủ tịch Hội đồng Nhân dân) thành phố Phúc Châu, tỉnh Phúc Kiến, kiêm Bí thư thứ nhất Đảng ủy Phân quân khu Phúc Châu, tỉnh Phúc Kiến;

Giai đoạn 1993-1995: Thường vụ Tỉnh ủy Phúc Kiến; Bí thư Thành ủy, Chủ nhiệm Ủy ban thường vụ Nhân đại thành phố Phúc Châu, tỉnh Phúc Kiến, kiêm Bí thư thứ nhất Đảng uỷ Phân quân khu Phúc Châu; 1995-1996: Phó Bí thư Tỉnh ủy Phúc Kiến; Bí thư Thành ủy, Chủ nhiệm Ủy ban thường vụ Nhân đại thành phố Phúc Châu, tỉnh Phúc Kiến, kiêm Bí thư thứ nhất Đảng ủy Phân quân khu Phúc Châu.

Từ 1996-1999, đồng chí là Phó Bí thư Tỉnh ủy Phúc Kiến; 1999-2000: Phó Bí thư Tỉnh ủy, quyền Tỉnh trưởng (Chủ tịch Ủy ban Nhân dân) tỉnh Phúc Kiến; Phó Chủ nhiệm Ủy ban Động viên quốc phòng Quân khu Nam Kinh kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Động viên quốc phòng tỉnh Phúc Kiến;

Giai đoạn 2000-2002: Phó Bí thư Tỉnh ủy, Tỉnh trưởng tỉnh Phúc Kiến; Phó Chủ nhiệm Ủy ban Động viên quốc phòng Quân khu Nam Kinh kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Động viên quốc phòng tỉnh Phúc Kiến (từ năm 1998-2002 học nghiên cứu sinh tại chức Lý luận Chủ nghĩa Marx và Giáo dục Tư tưởng chính trị, Học viện Nhân văn và Xã hội, Đại học Thanh Hoa, và giành được học vị Tiến sỹ Luật).

Từ năm 2002-2002, đồng chí là Phó Bí thư Tỉnh ủy, quyền Tỉnh trưởng tỉnh Chiết Giang, kiêm Chủ nhiệm Ủy ban động viên quốc phòng tỉnh Chiết Giang; 2002-2003: Bí thư Tỉnh ủy, Tỉnh trưởng kiêm Bí thư thứ nhất Đảng ủy Quân khu tỉnh Chiết Giang, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Động viên quốc phòng Quân khu Nam Kinh, Chủ nhiệm Ủy ban Động viên quốc phòng tỉnh Chiết Giang;

Từ năm 2003-2007: Bí thư Tỉnh ủy, Chủ nhiệm Ủy ban thường vụ Nhân đại tỉnh Chiết Giang, kiêm Bí thư thứ nhất Đảng ủy Quân khu tỉnh Chiết Giang; 2007-2007: Bí thư Thành ủy thành phố Thượng Hải, kiêm Bí thư thứ nhất Đảng ủy Khu Cảnh bị thành phố Thượng Hải; 2007-2008: Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, Bí thư Ban Bí thư Trung ương Đảng, Hiệu trưởng trường Đảng Trung ương.

Từ năm 2008-2010, đồng chí là Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, Bí thư Ban Bí thư Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Hiệu trưởng trường Đảng Trung ương;

Giai đoạn 2010-2012: Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, Bí thư Ban Bí thư Trung ương Đảng; Phó Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa; Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương, Phó Chủ tịch Ủy ban Quân sự trung ương nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (Ủy ban Quân sự Nhà nước); Hiệu trưởng trường Đảng Trung ương.

Từ năm 2012-2013, đồng chí là Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương, Chủ tịch Quân ủy Trung ương; Phó Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa; Phó Chủ tịch Ủy ban Quân sự Trung ương.

Từ 2013 đến nay, đồng chí là Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương, Chủ tịch Quân ủy Trung ương; Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa; Chủ tịch Ủy ban Quân sự Trung ương (khóa 18 từ 2012-2017, khóa 19 từ 2017-2022, khóa 20 từ 2022-2027).

Ðồng chí Tập Cận Bình là Ủy viên dự khuyết Trung ương khóa 15; Ủy viên Trung ương các khóa 16, 17, 18, 19 và 20; Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị các khoá 17, 18, 19 và 20./.

Việt Đức

Nguồn: vietnamplus.vn

Q1

Một số yêu cầu đối với công tác lãnh đạo của Đảng về đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” trong tình hình mới

 

Một là, phải không ngừng nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân; giúp họ nhận diện sao cho trúng, cho đúng đối tác, đối tượng, bạn, thù; bản chất sự điều chỉnh âm mưu, thủ đoạn, hoạt động “diễn biến hòa bình” chống phá Việt Nam của các tổ chức, lực lượng thù địch, cơ hội, xét lại trong tình hình mới và tính chất nguy hiểm, tác hại của nó đối với cách mạng Việt Nam. Muốn vậy, Đảng phải có biện pháp hữu hieuj để lãnh đạo cuộc đấu tranh đạt hiệu quả: bảo vệ được Đảng, Nhà nước, nhân dân và bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây là yêu cầu có tính nguyên tắc đòi hỏi bản lĩnh và trí tuệ của Đảng là bất luận trong điều kiện, hoàn cảnh nào đều phải kiên định, vững vàng; tỉnh táo, sáng suốt phân biệt rõ ràng “phải trái, trắng đen”; đâu là nhận thức lệch lạc, không đúng, không đầy đủ mà sinh ra quan điểm sai trái; đâu là sự cố tình chống phá Đảng, Nhà nước của các thế lực thù địch, bọn cơ hội, xét lại; đâu là những yếu kém, khuyết điểm và hạn chế của ta, của cán bộ, đảng viên; đâu là sự chống phá “giấu mặt”, “trá hình” và công khai của các thế lực thù địch…Trong tình hình mới phải tìm ra phương cách tối ưu nhất để quản lý chặt bọn cầm đầu, chủ mưu; có kế hoạch chủ động tiến công làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của địch từ trong “trứng nước”; không để xảy ra hiện tượng “tả khuynh” và hữu khuynh; không để đất nước rơi vào bị động, bất ngờ.

Hai là, phải đẩy mạnh nghiên cứu dự báonắm chắc tình hình địch - ta; dự báo chính xác những nơi có thể xảy ra “điểm nóng”, “vùng nóng”; tìm được biện pháp tối ưu trong việc kết hợp chặt chẽ giữa chủ động ngăn chặn, phòng ngừa với kiên định ý chí tiến công; kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, làm sao cho thực lực của ta ngày càng mạnh lên; biết lấy xây vững mạnh là chính, là quyết định, còn đấu tranh chống là rất quan trọng. Đây là yêu cầu khách quan đang đặt ra cấp bách đối với các cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải làm gì, làm như thế nào để tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo công tác đấu tranh, kết hợp giữa “xây” và “chống” gắn với khắc phục các nguy cơ khác đe dọa cách mạng Việt Nam sao cho hiệu quả.

Ba là, phải tăng cường và đổi mới mạnh mẽ công tác lãnh đạo đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” gắn với lãnh đạo đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; “phi chính trị hóa”, “dân sự hóa” lực lượng vũ trang. Yêu cầu này cần phải được nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về tác hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và quan hệ tác động qua lại giữa nó với “diễn biến hòa bình”; “diễn biến hòa bình” là nguyên nhân cơ bản, trực tiếp thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là “kết quả lôgíc”, hệ quả trực tiếp của “diễn biến hòa bình”. Đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình” chỉ đạt kết quả khi gắn liền với đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Vì vậy, phải thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII gắn với thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thực hiện tốt yêu cầu này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc làm thất bại âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” chống phá Việt Nam của các thế lực thù địch trong tình hình mới.