Đồng chí đã sớm giác ngộ cách mạng, từ khi 19 tuổi, đồng chí đã tích cực tham gia phong trào Bình dân, Tổ chức Ái hữu thợ mỏ Hòn Gai. Năm 1938, tham gia Công hội, vận động phong trào ủng hộ Liên Xô. Tháng 6-1939, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1940, đồng chí bị thực dân Pháp bắt và kết án 10 năm tù giam ở nhà tù Hà Đông, Hỏa Lò (Hà Nội). Dù bị kẻ thù tra tấn dã man nhưng đồng chí vẫn rất mực kiên trung với cách mạng, giữ vững khí tiết của người cộng sản, không chịu khuất phục, cùng các chiến sĩ trong tù bí mật tổ chức vượt ngục, bắt liên lạc với Đảng để tiếp tục hoạt động cách mạng, vì lý tưởng giải phóng dân tộc ta.

Hoạt động và cống hiến của đồng chí Đỗ Mười trước năm 1975

Xuất thân từ một gia đình nông dân, đồng chí Đỗ Mười làm công nhân thợ sơn, tham gia cách mạng từ năm 1936, trong phong trào Mặt trận Bình dân. Năm 1939, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1941[1], đồng chí bị đế quốc Pháp bắt, kết án 10 năm tù giam tại nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội.

Đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười - Nhà lãnh đạo xuất sắc, có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta

Bác Hồ với các đại biểu dự Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 16, khóa II (Đồng chí Đỗ Mười đứng thứ nhất, từ trái sang). 

Đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười - Nhà lãnh đạo xuất sắc, có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta

Đồng chí Đỗ Mười giới thiệu các gian hàng tại Hội chợ triển lãm tiểu thủ công nghiệp Việt Nam với Bác Hồ và đồng chí Nguyễn Lương Bằng. 

Đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười - Nhà lãnh đạo xuất sắc, có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
Đồng chí Phạm Văn Đồng và đồng chí Đỗ Mười chỉ đạo chống lụt tại Hải Dương, tháng 8-1971. 

Mặc dù phải trải qua những tháng ngày bị giam cầm hết sức ngặt nghèo, hà khắc nhưng lòng yêu nước, ý chí chiến đấu của đồng chí Đỗ Mười không hề bị suy giảm, trái lại, nó càng được nung nấu, hun đúc, nuôi dưỡng hằng ngày. Ông cùng các chiến sĩ tù chính trị đang bị giam cầm tìm mọi cách khắc phục khó khăn, gian khổ, thiếu thốn, biến “nhà tù thành trường học cách mạng”, biên soạn nhiều tài liệu để tuyên truyền cách mạng cũng như phục vụ cho việc học tập văn hoá, chính trị của các tù nhân ngay trong nhà tù, như: Chủ nghĩa Mácxít phổ thông, Cách mạng tư sản dân quyền...; tham gia lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh chống lại chế độ giam cầm hà khắc của bọn thực dân...

Sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), tình hình trại giam có sự chuyển biến mau chóng, quân Nhật chưa thiết lập được trật tự cai trị mới. Nhận thấy đây là thời cơ tốt để có thể thực hiện cuộc vượt ngục, đồng chí Đỗ Mười cùng với các đồng chí khác đều thể hiện quyết tâm dù có gian khổ, phải hi sinh cũng phải tìm mọi cách để thoát ra cho bằng được.

Sau khi thoát khỏi nhà tù, đồng chí Đỗ Mười cùng các đồng chí trong nhóm nhanh chóng đi ra phía bờ sông, men theo đường đê và đi về nhà đồng chí Đỗ Mười ở làng Đông Phù, tại đây, các đồng chí chuẩn bị và phân công nhau tìm liên lạc với Đảng để sẵn sàng nhận nhiệm vụ mới. Sau đó, đồng chí được Đảng phân công về tham gia Ban khởi nghĩa Tỉnh ủy Hà Đông, phụ trách phong trào cách mạng huyện Ứng Hòa và Mỹ Đức và trực tiếp lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Đông, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đồng chí Đỗ Mười làm Bí thư Tỉnh ủy Hà Đông[2]. Năm 1946, đồng chí được Trung ương làm cử làm Bí thư Tỉnh ủy Hà Nam[3], đến cuối năm 1946, làm Bí thư Tỉnh ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chính tỉnh Nam Định. Năm 1948, đồng chí làm Khu ủy viên Liên khu ủy III kiêm Bí thư Tỉnh ủy Ninh Bình, và phụ trách một số tỉnh khác, đồng chí có nhiệm vụ xây dựng chính quyền cách mạng và tổ chức cuộc chiến đấu của nhân dân các tỉnh vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng[4].

Năm 1950, đồng chí làm Phó bí thư Liên Khu ủy III kiêm Phó chủ tịch Ủy ban Kháng chiến hành chính Liên khu III, Chính ủy Bộ tư lệnh Liên khu III. Ngày 24-5-1952, do tình hình của chiến trường Liên khu III bị chia cắt, gặp nhiều khó khăn, Trung ương Đảng và Tổng Quân ủy quyết định thành lập Khu Tả ngạn sông Hồng, chỉ định đồng chí Đỗ Mười làm Bí thư Khu ủy, kiêm Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính khu và Chính ủy Bộ tư lệnh khu Tả ngạn sông Hồng[5]… Là một trong những người lãnh đạo chủ chốt trong vùng địch hậu ở chiến trường chính Bắc Bộ, đồng chí trở thành người chỉ huy, nhà quân sự tài năng, được mệnh danh là một vị tướng của chiến tranh du kích ở Đồng bằng Bắc Bộ.

Đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười - Nhà lãnh đạo xuất sắc, có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta

Các đồng chí: Trường Chinh, Tôn Đức Thắng, Nguyễn Lương Bằng, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng và đồng chí Đỗ Mười tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IV, năm 1976. 

Đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười - Nhà lãnh đạo xuất sắc, có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
Đồng chí Đỗ Mười trên Đoàn Chủ tịch Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, tháng 3-1982. Tại Đại hội, đồng chí Đỗ Mười được bầu vào Bộ Chính trị. 

Năm 1955, đồng chí được giao chỉ đạo tiếp quản khu 300 ngày, làm Bí thư Thành ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban Quân chính thành phố Hải Phòng. Tháng 3-1955, đồng chí được bổ sung vào Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, đồng chí được bầu vào Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Từ năm 1956 đến năm 1973, đồng chí đã giữ các chức vụ: Thứ trưởng rồi Bộ trưởng Bộ Nội thương, Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá Nhà nước, Trưởng phái đoàn thanh tra Chính phủ, Phó thủ tướng Chính phủ kiêm Chủ nhiệm Ủy ban kiến thiết cơ bản Nhà nước, Phó thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Xây dựng.

Được Trung ương giao thêm trách nhiệm làm Chủ tịch Hội đồng chi viện tiền tuyến Trung ương, đồng chí Đỗ Mười là người trực tiếp tổ chức chỉ đạo xây dựng đường ống dẫn dầu bí mật từ Lạng Sơn vào chiến trường miền Nam, đây là đường dẫn dầu huyết mạch góp phần quan trọng vào Đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

2. Đảm nhận nhiều trọng trách của Đảng và Nhà nước

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (1976), đồng chí được bầu là vào Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, tiếp tục giữ chức Phó Thủ tướng Chính phủ. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (1982), đồng chí được bầu vào Bộ Chính trị, tiếp tục giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Trong suốt 20 năm trên cương vị Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, kiêm nhiệm nhiều trọng trách quan trọng, ông đã dành nhiều công sức, trí tuệ vào việc củng cố và xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Từ những công trình trọng điểm của đất nước như: Lăng, Bảo tàng Chủ tịch Hồ Chí Minh, các công trình thủy điện, điện lực Hòa Bình, Phả Lại, Trị An, Yaly, các công trình khai thác dầu khí… đồng chí Đỗ Mười là người có mặt đầu tiên và cũng là một trong những người đứng mũi chịu sào, dũng cảm và táo bạo trong công việc.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (1986), đồng chí được bầu vào Bộ Chính trị, giữ chức Thường trực Ban Bí thư. Tháng 6-1988, đồng chí được Quốc hội tín nhiệm bầu làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ). Trên cương vị mới, đồng chí luôn bám sát, đôn đốc công việc, triển khai nghiêm túc, kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng, nhất là đường lối công nghiệp hoá đất nước, hướng tới xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ.

Đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười - Nhà lãnh đạo xuất sắc, có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng. Tại Đại hội, đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư, đồng chí Đỗ Mười được phân công làm Thường trực Ban Bí thư. 
Đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười - Nhà lãnh đạo xuất sắc, có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
Các đồng chí: Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh, Phạm Hùng, Đỗ Mười... tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, tháng 12-1986. 
Đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười - Nhà lãnh đạo xuất sắc, có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta

Tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa VIII, đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày 22-6-1988. Đồng chí Đỗ Mười phát biểu nhậm chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. 

Tháng 6-1991, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đại hội quyết định thông qua: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh chính trị nêu rõ những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, những phương hướng cơ bản để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội khẳng định “Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động” của Đảng. Đại hội nhận định: “Công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng, nhưng nước ta vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội” [6].

Trên cương vị đứng đầu Đảng ta, đồng chí Đỗ Mười tiếp tục chỉ đạo công cuộc Đổi mới đất nước, vượt qua những khó khăn, đạt nhiều thành tựu to lớn về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội đưa công cuộc Đổi mới đi lên, tiến hành công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6-1996), đồng chí tiếp tục được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu vào Bộ Chính trị và giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng; Bí thư Quân uỷ Trung ương. Tháng 12-1997, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tư khoá VIII, đồng chí xin thôi tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng, thôi giữ chức Tổng Bí thư; được Ban Chấp hành Trung ương Đảng suy tôn làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng đến năm 2000.

Trong thời gian giữ cương vị làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng chí Đỗ Mười đã có đóng góp to lớn trên nhiều lĩnh vực, đưa đất nước từng bước vượt qua giai đoạn khó khăn để bước vào thời kì phát triển mới. Đó là đóng góp trong việc góp phần bổ sung đường lới đổi mới và phát triển đất nước; đóng góp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; khởi xướng chủ trương xây dựng Quy chế dân chủ cơ sở;... đồng chí Đỗ Mười còn thể hiện vai trò rất quan trọng trong việc nâng tầm quan hệ đối ngoại Việt Nam lên một tầm cao mới.

Với quan điểm ngoại giao “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”[7], từ giữa năm 1991, công tác đối ngoại của Đảng có nhiều đổi mới, tích cực và hiệu quả. Cùng với các hoạt động ngoại giao trước đó thì chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt (11-1991) đã chính thức bình thường hoá quan hệ giữa hai Đảng, hai nước, đồng thời hai bên đã bước đầu thỏa thuận một số vấn đề: Hợp tác kinh tế, vấn đề biên giới và lãnh thổ, nguyên tắc đặt lãnh sự quán, ký Hiệp định thương mại Việt - Trung[8]... Đây là một sự kiện rất quan trọng, tạo cơ sở cho việc mở rộng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân hai nước Việt Nam - Trung Quốc trong xu thế toàn cầu hóa, đồng thời khẳng định sự đúng đắn của đường lối đối ngoại do Đại hội VII của Đảng ta đề ra.

Những chuyến thăm đến nhiều quốc gia của Tổng Bí thư Đỗ Mười cùng các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước đến Singapore, Thái Lan (10-1993), Malaysia (3-1994), Hàn Quốc (5-1995) New Zealand (tháng 7-1995),... cũng như những chuyến đến thăm Việt Nam của nhiều người đứng đầu Đảng, Chính phủ một số nước đã củng cố, tăng cường, phát triển mối quan hệ quốc tế của Việt Nam, đồng thời góp phần nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười - Nhà lãnh đạo xuất sắc, có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (từ 24 đến 27-6-1991). 

Đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười - Nhà lãnh đạo xuất sắc, có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
Đồng chí Đỗ Mười đọc Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, năm 1996. 

Năm 1995 cũng là năm đánh dấu hoạt động đối ngoại của Việt Nam đạt được những thắng lợi hết sức quan trọng. Đó là các sự kiện: Việt Nam và Hoa Kỳ chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao (11-7-1995), Việt Nam ký Hiệp định chung với Liên minh châu Âu (EU) (17-7-1995) và Việt Nam chính thức gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) (28-7-1995). Những thành tựu đối ngoại tiêu biểu trên là kết quả tất yếu của những thành tựu quan trọng trong sự nghiệp đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Tổng Bí thư Đỗ Mười.

Những phát biểu của Tổng Bí thư Đỗ Mười như “phải thường xuyên đổi mới, đối mới toàn diện, triệt để nhưng đổi mới có nguyên tắc, đổi mới nhưng tuyệt đối không đổi màu”[9], hay “Hội nhập không hòa tan”; “Xoá bỏ mặc cảm, xóa bỏ hận thù, khép lại quá khứ, nhìn về tương lai”, “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nước trên thế giới”... thể hiện tư duy nhạy bén, đổi mới trong hoạt động đối ngoại cũng tầm nhìn chiến lược của Tổng Bí thư, từ đó nâng tầm và mở ra trang mới cho hoạt động đối ngoại của Việt Nam.

Có thể nói, trên cương vị Tổng Bí thư, với trí tuệ, tư duy lý luận sắc bén cùng những kinh nghiệm thực tiễn phong phú, đồng chí Đỗ Mười cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã kiên định, vững vàng, đoàn kết, thống nhất, lãnh đạo, chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vượt qua nhiều thách thức, đẩy mạnh sự nghiệp Đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của mình, Tổng Bí thư Đỗ Mười đã để lại nhiều dấu ấn sâu đậm trong mỗi chặng đường hoạt động, trên mỗi cương vị công tác, đặc biệt là trong công cuộc Đổi mới của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Với những công lao to lớn ấy, đồng chí được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng; Huy hiệu 80 năm tuổi Đảng và nhiều huân, huy chương cao quý khác của Việt Nam và quốc tế.

Đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười - Nhà lãnh đạo xuất sắc, có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta

Đồng chí Đỗ Mười gặp thân mật các nhà báo trong nước và quốc tế sau Đại hội VIII, ngày 1-7-1996. 

Trọn cả cuộc đời với hơn 80 năm hoạt động cách mạng, đồng chí Đỗ Mười đã có nhiều công lao to lớn và cống hiến xuất sắc đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, dân tộc ta, gắn liền với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn. Với 102 tuổi đời, 80 năm tuổi Đảng, đồng chí Đỗ Mười đã trọn đời phấn đấu, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và nhân dân ta[10].

Trân trọng và đánh giá cao những đóng góp, công lao to lớn của Tổng Bí thư Đỗ Mười, Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng viết: “Đồng chí Đỗ Mười - Nhà lãnh đạo xuất sắc, có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta; Người đảng viên cộng sản rất mực kiên trung, suốt đời chiến đấu hy sinh vì lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân; Người có nhiều công lao và cống hiến to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và trong công cuộc Đổi mới, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc”[11].

Đến nay cả dân tộc đang bước vào thời khắc lịch sử, 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930/3-2-2025). Dân tộc ta sau gần một thế kỷ dưới sự lãnh đạo của Đảng, đang bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, vị thế, uy tín của Việt Nam không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Thành tựu của ngày hôm nay chính là kết quả một quá trình miệt mài cống hiến, vun đắp của những thế hệ đi trước, trong đó Tổng Bí thư Đỗ Mười là một trong những người đặt những viên gạch hồng đầu tiên.