Chủ Nhật, 19 tháng 10, 2025

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: BÀN VỀ CÔNG LAO CỦA NGUYỄN ÁNH TRONG VIỆC XÁC LẬP CHỦ QUYỀN ĐỐI VỚI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA, TRƯỜNG SA!

     Chiều nay, bạn Nguyễn Thanh Minh có tag mình vào một bài viết bàn về công lao của Nguyễn Ánh trong việc xác lập chủ quyền Hoàng Sa - Trường Sa. Tình cờ đọc lại, mình chợt nhớ hồi Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 vào Biển Đông, mình từng viết hàng chục bài phản đối và phân tích chủ quyền biển đảo, nhưng khi ấy chưa đào sâu đến vai trò - hay đúng hơn là lập trường lịch sử của Nguyễn Ánh trong mạch chủ quyền ấy.

Nay thấy một số bạn tiếp tục nhắc lại luận điệu “Nguyễn Ánh là người đầu tiên xác lập chủ quyền biển đảo”, mình bỗng thấy cần phải trở lại chủ đề này một cách đầy đủ và hệ thống hơn. Vì vậy, mình đã tổng hợp lại nhiều tư liệu mình từng đọc, từng ghi chép, từng tranh luận… rồi gộp lại thành một bài viết để phản bác những lập luận xuyên tạc lịch sử, gán công không đúng người, che lấp sự thật lịch sử để tô hồng một nhân vật vốn gây tranh cãi sâu sắc.

Tất nhiên, đây là góc nhìn và hiểu biết cá nhân, rất mong nhận được những góp ý thẳng thắn, trao đổi mang tính học thuật để làm rõ thêm – chứ không phải để gây chia rẽ. Lịch sử là câu chuyện của sự thật – không phải của tuyên truyền, và càng không nên là sân khấu của sự tẩy trắng.
  
---
   
Phản biện quan điểm Nguyễn Ánh có công trong việc thiết lập chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa
▪︎ Trọng Nghĩa 
   
   
   
   
Ngay từ thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông đã xác lập chủ quyền quốc gia đối với các quần đảo ngoài khơi. Hồng Đức bản đồ (do triều Lê biên soạn năm 1490) là bộ bản đồ quốc gia sớm nhất còn lưu lại, và trên đó đã vẽ rõ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ Đại Việt. Điều này cho thấy từ thời Lê sơ, hai quần đảo này đã nằm trong cương vực nước ta. Thực tế, người xưa gọi chúng bằng nhiều tên: Bãi Cát Vàng, Cồn Vàng, Vạn Lý Hoàng Sa, Đại Trường Sa… Điều này được ghi nhận trong nhiều tài liệu, chẳng hạn sách Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư thế kỷ 17 cũng mô tả: “Giữa biển có một dải cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng, dài độ 400 dặm, rộng 20 dặm, dựng đứng giữa biển” – kèm bản đồ vẽ cụm đảo ghi chú là Bãi Cát Vàng. Những chứng cứ này khẳng định Hoàng Sa – Trường Sa đã thuộc chủ quyền Đại Việt ít nhất từ thời Hồng Đức, bác bỏ hoàn toàn quan điểm cho rằng đến Nguyễn Ánh mới thiết lập chủ quyền.

Gần 300 năm sau thời Hồng Đức, nhà bác học Lê Quý Đôn (thời Lê Trung Hưng) tiếp tục cung cấp tư liệu quý giá về Hoàng Sa – Trường Sa. Trong cuốn “Phủ biên tạp lục” (1776), Lê Quý Đôn đã miêu tả tỉ mỉ quần đảo Hoàng Sa và hoạt động của đội Hoàng Sa do chúa Nguyễn tổ chức để khai thác hàng năm. Ông ghi nhận rằng chúa Nguyễn đã lập hẳn một đội Hoàng Sa gồm 70 suất đinh người xã An Vĩnh (Quảng Ngãi), mỗi năm luân phiên đến tháng hai âm lịch nhận lệnh mang lương thực 6 tháng, đi 5 chiếc thuyền nhỏ vượt biển 3 ngày 3 đêm ra quần đảo để thu lượm hải vật và đồ vật từ tàu đắm. Khi trở về Phú Xuân, họ nộp tất cả các vật phẩm để triều đình phân loại, định giá, “cuối cùng là phát sắc khen…”. Lê Quý Đôn còn mô tả cụ thể cảnh quan Hoàng Sa: từ cửa biển An Vĩnh nhìn ra đông bắc có hàng trăm hòn đảo lớn nhỏ, “hơn 130 ngọn, cách nhau bằng biển… Trên đảo có bãi cát vàng, ước hơn 30 dặm, bằng phẳng, rộng lớn, nước trong suốt đáy”. Những dòng sử liệu sống động này khẳng định triều Lê – Trịnh (Lê Trung Hưng) đã biết rõ và thực thi chủ quyền tại Hoàng Sa – Trường Sa trước thời Nguyễn Ánh. Lê Quý Đôn chính là người khảo cứu sâu nhất về hai quần đảo này thời bấy giờ, cho thấy chủ quyền biển đảo của ta mang tính liên tục, xuyên suốt từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18.

Trong khi nhà Lê xác lập chủ quyền lãnh thổ, Nguyễn Ánh (Gia Long) lại có hành vi phủ nhận tính chính thống của triều Lê. Dù danh nghĩa vẫn tôn phù nhà Lê, nhưng thực tế chúa Nguyễn đã ly khai khỏi triều đình Lê từ thế kỷ 17. Bản thân Nguyễn Ánh, trong sử sách triều Nguyễn, luôn xem vua Lê chỉ là “vua nước An Nam” – hàm ý coi nhà Lê như một quốc gia khác. Đại Nam Thực Lục (quốc sử triều Nguyễn) chép lại sự kiện vua Lê Hiển Tông băng hà năm 1786 như sau: “Mùa thu, tháng 7, vua Lê nước An Nam băng, đặt thụy là Hiển Tông Vĩnh hoàng đế. Cháu là Duy Kỳ nối ngôi, lấy năm sau… làm năm Chiêu Thống thứ 1”. Cách ghi chép này cho thấy rõ triều Nguyễn Ánh không coi vua Lê là chủ của mình, mà xem nhà Lê như “nước An Nam” xa lạ. Nguyễn Ánh đã quay lưng với triều Lê, tách Đàng Trong thành một thực thể riêng suốt hơn 200 năm, phủ nhận vai trò trung tâm của vua Lê trong đại nghiệp thống nhất dân tộc.

Không chỉ trong sử sách, Nguyễn Ánh còn tự miệng phủ nhận nhà Lê khi ngoại giao với vua Xiêm. Năm 1784, cầu viện Xiêm chống Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã đáp lời vua Xiêm một cách đầy ngạo mạn: “Nước tôi truyền nối đã hơn 200 năm; nay vận nước nửa chừng suy đốn, tôi tài kém không thể giữ được ngôi thiêng… Nghĩ sao rửa được nhục thù… thì dù chết cũng cam tâm, sao lại có nhát!”. Câu nói “nước tôi truyền nối đã hơn 200 năm” của Nguyễn Ánh chính là lời phủ nhận trắng trợn triều Lê. Ông ta khẳng định “nước tôi” – tức cái “nước” của dòng chúa Nguyễn ở Đàng Trong – đã có lịch sử hơn hai thế kỷ, xem đó mới là quốc gia thực sự của mình, gián tiếp gạt bỏ tính chính thống 300 năm của vương triều Lê. Thái độ này cho thấy Nguyễn Ánh không hề trung hưng nhà Lê mà ngược lại, ông lợi dụng danh nghĩa “phò Lê” chỉ khi cần, còn thực tâm coi sự nghiệp của dòng họ mình mới là chính thống. Một người đã đoạn tuyệt cội nguồn dân tộc như vậy, liệu có xứng đáng được tán dương là “người Việt đầu tiên xác lập chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa” hay không? Chắc chắn là không – bởi công lao ấy thuộc về các bậc tiền nhân triều Lê từ lâu đời, chứ không phải kẻ đã quay lưng với chính triều đại cha ông.

Trong lịch sử cuối thế kỷ 18, sự đối lập về đạo lý giữa Phong trào Tây Sơn và phe Nguyễn Ánh vô cùng rõ nét. Nguyễn Huệ – Quang Trung dấy binh với ngọn cờ chính nghĩa “Phù Lê diệt Trịnh”, lấy danh nghĩa phò tá vua Lê Cảnh Hưng diệt trừ chúa Trịnh lũng đoạn đất nước. Nghĩa quân Tây Sơn khi kéo ra Bắc (1786) đã dựa trên khẩu hiệu này để kêu gọi lòng dân, đánh tan tập đoàn Trịnh, giao hiếu với vua Lê rồi rút về Nam. Dù sau đó Quang Trung xưng đế, ta vẫn thấy Nguyễn Huệ ít nhiều tôn trọng đạo lý chính thống và quyền lợi dân tộc: ông tiếp tục đánh bại ngoại xâm (thắng quân Xiêm 1785, đại phá quân Thanh 1789) để bảo vệ giang sơn. Khẩu hiệu “phù Lê diệt Trịnh” cho thấy Quang Trung ý thức được việc dựa vào chính nghĩa dân tộc để đoàn kết nhân tâm trong buổi loạn lạc.

Ngược lại, Nguyễn Ánh vì thù riêng nhà Tây Sơn đã đi ngược đạo lý truyền thống, sẵn sàng “cõng rắn cắn gà nhà” để giành lợi ích cho mình. Thay vì phò Lê hay đoàn kết người Việt chống ngoại xâm, Nguyễn Ánh cầu viện ngoại bang hết lần này đến lần khác. Năm 1784, ông rước 5 vạn quân Xiêm vào đất Nam Bộ, để giặc Xiêm tàn phá đồng bằng sông Cửu Long và gây nên thảm họa cho dân ta (cho đến khi Tây Sơn đánh tan quân Xiêm tại Rạch Gầm – Xoài Mút). Chưa dừng ở đó, Nguyễn Ánh còn cầu viện cả phương Tây: năm 1787, ông ký với Giám mục Pigneau de Béhaine Hiệp ước Versailles, đồng ý nhượng Đà Nẵng (thậm chí cả Hội An, Côn Lôn theo một số tư liệu) cho Pháp nếu họ đem quân, vũ khí giúp ông đánh Tây Sơn. Chính hiệp ước dâng đất cầu viện ngoại bang này đã gieo mầm họa thực dân, trở thành cái cớ để Pháp xâm lược nước ta năm 1858. Song song đó, Nguyễn Ánh còn ngấm ngầm tiếp tay cho quân Mãn Thanh: khi quân Thanh xâm lược Thăng Long (1788), ông sai thuộc hạ mang thư sang Thanh và chở 50 vạn cân gạo sang tiếp lương cho giặc – một hành vi tiếp tế kẻ thù xâm lược, đặt thù hằn cá nhân lên trên lợi ích dân tộc. Trái với Quang Trung dốc sức “phù Lê diệt Trịnh” và chống ngoại xâm, Nguyễn Ánh đã nhiều lần rước voi về giày mả tổ, hy sinh chủ quyền quốc gia vì tham vọng cá nhân.

Hành vi cầu viện ngoại bang của Nguyễn Ánh còn thể hiện ở việc ông dung nạp nhiều sĩ quan người Pháp vào triều đình sau khi lên ngôi (Chaigneau, Vannier, Dayot…). Đây là hiện tượng chưa từng có: lần đầu trong lịch sử, một triều đình Việt Nam có quan lại là người phương Tây “mắt xanh mũi lõ”. Chính những kẻ ngoại quốc này dưới thời Gia Long – Minh Mạng đã góp phần mở đường cho thực dân quay lại xâm lược, gây nên biết bao đau thương về sau. Nguyễn Ánh vì lợi ích bản thân đã bất chấp đạo lý “đồng bào”, sẵn sàng dùng mưu hèn kế bẩn, liên minh với ngoại nhân để thỏa lòng tham quyền. Nếu Quang Trung – Nguyễn Huệ nêu cao chính nghĩa dân tộc bao nhiêu, thì Nguyễn Ánh tự thân hạ thấp mình bấy nhiêu trước ngoại bang. Lịch sử đã rõ ràng phân định: ai phù chính thống, ai phản bội cội nguồn.

Gần đây, một số ý kiến cố lật sử, tẩy trắng cho Nguyễn Ánh bằng cách viện dẫn vấn đề chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa. Họ lập luận rằng “dù Nguyễn Ánh có cầu viện ngoại bang, ông vẫn có công xác lập chủ quyền biển đảo đầu tiên”, hòng biện minh cho hành vi phản quốc. Tuy nhiên, những lập luận ấy hoàn toàn sai lệch cả về lịch sử lẫn đạo lý. Thứ nhất, như đã chứng minh ở trên, Nguyễn Ánh không hề là người đầu tiên xác lập chủ quyền với Hoàng Sa – Trường Sa. Chủ quyền ấy đã được các vua Lê như Lê Thánh Tông thiết lập từ thế kỷ 15, được các chúa Nguyễn thời Lê Trung Hưng tiếp nối quản lý suốt thế kỷ 17-18. Nguyễn Ánh chỉ kế thừa di sản đó sau năm 1802 – một di sản mà bao thế hệ tiền nhân đã gìn giữ bằng mồ hôi xương máu. Do vậy, công lao thực sự thuộc về triều Lê và bao anh hùng dân tộc ẩn danh, không thể gán cho riêng Nguyễn Ánh để xóa nhòa tội lỗi của ông ta.

Thứ hai, công trạng về chủ quyền lãnh thổ không thể rửa sạch tội “cõng rắn cắn gà nhà”. Lịch sử Việt Nam chưa từng dung thứ kẻ phản bội tổ quốc, cho dù kẻ đó có đóng góp nào khác. Một vài đóng góp của Nguyễn Ánh (như thống nhất đất nước năm 1802 hay duy trì đội Hoàng Sa dưới thời Nguyễn) không thể biện hộ cho hàng loạt trọng tội mà ông ta đã gây ra đối với dân tộc. Những sự thật không thể chối cãi về Nguyễn Ánh bao gồm:

• Rước quân Xiêm vào xâm lược nước ta năm 1784, khiến đồng bào chịu cảnh đao binh tang tóc.

• Ngầm tiếp tế lương thực cho quân Thanh xâm lược Thăng Long năm 1788, bất chấp nỗi đau mất nước của nhân dân.

• Ký hiệp ước cắt đất cầu viện Pháp năm 1787 (dâng cảng Đà Nẵng, hứa dâng ba tỉnh nếu tính cả Hội An, Côn Lôn) để đổi lấy vài ngàn quân và tàu chiến – hành vi bán rẻ chủ quyền tiền lệ chưa từng có.

• Nhượng bộ, trao quyền cho người Pháp trong triều đình thời Gia Long, tạo tiền đề cho ảnh hưởng ngoại bang và sự xâm lược sau này.

Một người mưu cầu quyền lực đến mức tán tận lương tâm như vậy, dù có xây vài miếu vài tháp, hay có cho vẽ bản đồ biển đảo, cũng không thể được xem là anh hùng bảo vệ chủ quyền! Trái lại, chính Nguyễn Ánh đã để lại vết nhơ “cõng voi về dày mả tổ” trong sử sách – điều mà ông cha ta đời đời nguyền rủa. Những kẻ hôm nay cố tình đổi trắng thay đen, tôn vinh Nguyễn Ánh bằng luận điệu xuyên tạc về chủ quyền thực chất đang xúc phạm sự thật lịch sử và vong linh tiền nhân.

Tóm lại, quan điểm cho rằng Nguyễn Ánh là người Việt đầu tiên xác lập chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa là một ngụy thuyết hoàn toàn phản lịch sử. Chủ quyền biển đảo thiêng liêng đã được triều Lê xác lập và thực thi lâu đời trước khi Nguyễn Ánh ra đời. Không những không có công mở cõi, Nguyễn Ánh còn phạm tội phản quốc trầm trọng: quay lưng với vua Lê, cầu viện giặc ngoại xâm, chấp nhận cắt đất dâng cho người ngoài. Triều Lê Thánh Tông và các danh thần như Lê Quý Đôn mới là những tấm gương tiên phong về xác lập chủ quyền lãnh thổ – họ xứng đáng được tôn vinh trong lịch sử. Trái lại, Nguyễn Ánh – kẻ vì thù nhà mà quên nghĩa nước – không thể được thanh minh bằng bất cứ thủ đoạn tẩy trắng nào.

Lịch sử vốn công bằng và nghiêm khắc: Công trạng thì lưu danh, tội nghiệt ắt lưu xú sử. Việc bảo vệ chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa là một hành trình dài của dân tộc, gắn liền với mồ hôi, trí tuệ và cả máu xương của biết bao thế hệ. Thế hệ Lê Thánh Tông, Lê Quý Đôn đã đi những bước tiên phong, để lại chứng tích rõ ràng về bờ cõi đất nước. Đó là sự thật hiển nhiên không thể phủ nhận. Bất kỳ luận điệu nào bóp méo sự thật ấy nhằm lật sử cho Nguyễn Ánh đều đáng bị phản bác và phê phán kịch liệt. Chúng ta, con cháu của tiền nhân, cần tỉnh táo và kiên quyết bảo vệ sự thật lịch sử, bởi lẽ “Uống nước phải nhớ nguồn” – không thể để công lao người xưa bị lãng quên, cũng như không thể để kẻ phản quốc được tôn vinh bằng những mỹ từ giả trá.

Hoàng Sa – Trường Sa mãi mãi là của Việt Nam, điều đó đã được khẳng định từ hàng trăm năm trước. Bảo vệ chủ quyền ấy là nhiệm vụ thiêng liêng của mỗi thế hệ. Tôn vinh đúng người, đúng công trạng – đó cũng là cách chúng ta bảo vệ nền tảng lịch sử và chính nghĩa của dân tộc, để muôn đời sau vẫn còn những trang sử trong sạch, vẹn toàn./.
---------
Nguồn tài liệu tham khảo: 
1. Hồng Đức bản đồ (1490): https://laodong.vn/thoi-su/tu-lieu-quy-chung-minh-chu-quyen-cua-viet-nam-voi-hoang-sa-truong-sa-750897.ldo
2. Phủ biên tạp lục - Lê Quý Đôn (1776): https://dlib.vn/uploads/files/tai-lieu-hoang-sa-truong-sa/phu-bien-tap-luc-le-quy-don.pdf
3. Đại Nam Thực Lục – Quốc sử quán triều Nguyễn: https://lib.nomfoundation.org/collection/1/volume/1/page/386
4. Hiệp ước Versailles 1787 - Giám mục Bá Đa Lộc - Nguyễn Ánh: https://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BB%87p_%C6%B0%E1%BB%9Bc_Versailles_(1787)
5. Nguyễn Ánh tiếp tế 50 vạn cân gạo cho giặc Thanh khi chúng xâm lược Thăng Long.: https://xuanhiep.blogspot.com/2022/12/nhung-su-that-lich-su-ve-nguyen-anh-gia.html
6. Quang Trung - Phù Lê diệt Trịnh. Lý tưởng chính nghĩa của Tây Sơn trong chiến dịch ra Bắc 1786: https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Hu%E1%BB%87
... cùng các nghiên cứu lịch sử liên quan.



Khuyết danh ST.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét