Thứ Ba, 1 tháng 6, 2021

VỀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO ĐẤU TRANH TƯ TƯỞNG

Một là, cấp ủy các cấp xây dựng nghị quyết, kế hoạch, chỉ thị về lãnh đạo đấu tranh tư tưởng. Bên cạnh phương thức lãnh đạo bằng nghị quyết, hầu hết cấp ủy các cấp hiện nay lãnh đạo bằng việc ra các kế hoạch, chỉ thị thực hiện Nghị quyết 35, trong đó có đề cập nhiệm vụ đấu tranh tư tưởng. Theo chúng tôi, sẽ hiệu quả hơn nếu Ban chỉ đạo 35 của các cấp ủy xây dựng được kế hoạch đấu tranh tư tưởng. Hai là, cấp ủy lãnh đạo đấu tranh tư tưởng thông qua tổ chức đảng và đảng viên. Tổ chức đảng và đảng viên là những người tiên phong đưa Nghị quyết 35 của Bộ Chính trị vào cuộc sống, vào thực tiễn đấu tranh tư tưởng. Trước hết, tổ chức đảng và đảng viên là người quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, xây dựng thành nghị quyết, kế hoạch thực hiện của cấp mình. Tổ chức đảng và đảng viên cũng là những người trực tiếp tiến hành công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động, thuyết phục quần chúng, xây dựng nhận thức đúng đắn cho mình và cho quần chúng về nhiệm vụ đấu tranh tư tưởng. Tổ chức đảng và đảng viên cũng là những người trực tiếp, thường xuyên tiến hành tự phê bình và phê bình, phê phán những suy nghĩ, quan điểm, tư tưởng sai trái, lệch lạc; chấn chỉnh những biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cùng những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đó là cơ sở để những cán bộ, đảng viên được phân công làm nhiệm vụ nòng cốt, chuyên trách đấu tranh tư tưởng, củng cố trận địa tư tưởng, phát huy tài năng và trí tuệ của mình vào thực tiễn đấu tranh tư tưởng hằng ngày, hoàn thành các mục tiêu đấu tranh tư tưởng mà Nghị quyết 35 đề ra. Mỗi tổ chức đảng cần xây dựng lực lượng chuyên trách theo hướng tinh gọn, đủ mạnh để tiến hành đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Đây vừa phương thức lãnh đạo, vừa là một nhiệm vụ, giải pháp đã được xác định trong Nghị quyết 35. Ba là, cấp ủy lãnh đạo đấu tranh tư tưởng thông qua phát huy vai trò chính quyền nhân dân. Cấp ủy lãnh đạo chính quyền cùng cấp cụ thể hóa các chủ trương, quan điểm của Đảng về đấu tranh tư tưởng, đặc biệt là mục tiêu, quan điểm, nhiệm và giải pháp theo Nghị quyết 35 vào hoạt động quản lý Nhà nước, vào các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, trong mọi hoạt động kinh tế - xã hội, chính quyền các địa phương cần coi trọng tuyên truyền, giáo dục nhân dân nhận rõ về âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực kinh tế; bao gồm những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, phủ nhận những quan điểm kinh tế của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách kinh tế của Đảng, Nhà nước ta; làm chệch hướng XHCN nền kinh tế nước ta, phá hoại nền kinh tế. Đồng thời, phải đẩy mạnh tuyên truyền về tác hại của sự chống phá đó đối với nền kinh tế nói chung, kích hoạt quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng chính trị trong nội bộ ta nói riêng. Bốn là, cấp ủy lãnh đạo đấu tranh tư tưởng thông qua các đoàn thể chính trị - xã hội. Phương thức này huy động sức mạnh tổng hợp vào công tác đấu tranh tư tưởng. Cấp ủy đảng trong các tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt là Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Công đoàn... đều có lực lượng tuyên giáo làm nòng cốt, cần xây dựng chương trình, kế hoạch đấu tranh tư tưởng trong tổ chức mình, phù hợp với tâm tư, nguyện vọng và lợi ích chính trị của đoàn viên, hội viên. Năm là, thường xuyên kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết công tác đấu tranh tư tưởng. Kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết là một khâu rất quan trọng trong quy trình lãnh đạo của tổ chức đảng. Kiểm tra, giám sát là khâu không thể thiếu nhằm bảo đảm nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch của cấp ủy đảng về đấu tranh tư tưởng được thực thi trên thực tế. Sơ kết, tổng kết để nhìn ra ưu điểm và hạn chế, nguyên nhân và cách khắc phục. Sơ kết, tổng kết còn giúp cấp ủy phát hiện điển hình tiên tiến, những mô hình hay, cách làm tốt để tiến hành công tác thi đua, khen thưởng; kịp thời làm công tác cổ vũ, động viên; làm lan tỏa những tập thể, cá nhân có thành tích tốt trên mặt trận đấu tranh tư tưởng. Việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm đấu tranh tư tưởng phải được duy trì thành nền nếp, thường xuyên, có hiệu quả thiết thực, định kỳ hằng năm, nửa năm hoặc qua các đợt đấu tranh cao điểm, qua từng nhiệm vụ đấu tranh tư tưởng cụ thể. Từ những mô hình hay, những điển hình tốt, những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tế là cơ sở để cấp ủy xây dựng nghị quyết, chỉ thị về lãnh đạo đấu tranh tư tưởng thu được thắng lợi lớn hơn. Chỉ đạo công tác đấu tranh tư tưởng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng từng nhấn mạnh: “Những luận điệu của các thế lực thù địch và các phần tử phản động, cơ hội chính trị nói trên tuy không có gì mới, nhưng nó được tung ra, truyền bá vào lúc này là hết sức độc hại, nguy hiểm, gieo rắc hoang mang, nghi ngờ, phân tâm, mất niềm tin trong nội bộ ta, tác động hòng làm đội ngũ ta “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”(1). Trong bối cảnh đó, nếu cấp ủy các cấp không coi trọng lãnh đạo công tác đấu tranh tư tưởng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, ra sức góp phần làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối của Đảng thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam thì không thể đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chính vì lẽ đó, nắm chắc nội dung, phương thức lãnh đạo đấu tranh tư tưởng trở thành một nhiệm vụ then chốt của cấp ủy đảng các cấp hiện nay./.

Thực hiện khát vọng "Bắc Nam sum họp một nhà" theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa tròn 50 năm, song khát vọng và nỗ lực hoạt động của Người trong hành trình đấu tranh vì độc lập, tự do, thống nhất đất nước vẫn trường tồn. 50 năm sau, sức mạnh toàn dân đoàn kết - kết tinh bản lĩnh, trí tuệ, ý chí và sức mạnh nội sinh dân tộc Việt dưới sự lãnh đạo của Đảng ta để thực hiện thắng lợi hoài bão của Người vẫn đồng hành cùng dân tộc trên hành trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Độc lập, tự do, hoà bình và thống nhất đất nước là khát vọng cháy bỏng của mọi người dân Việt Nam yêu nước; là mục tiêu phấn đấu, thể hiện rõ trong mọi thời điểm và trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Vì vậy mà, trong những thời điểm khác nhau, phát biểu ở các diễn đàn khác nhau, nhưng hoài bão của Người về một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất đều thể hiện sự nhất quán, xuyên suốt, đó là: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”[1](12/1920); “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” (9/1945); “Kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”(1946), “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” (7/1966); “Tiến lên! Chiến sĩ đồng bào/Bắc Nam sum họp/Xuân nào vui hơn” (Thơ mừng xuân 1969); “Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà” (Di chúc, 1969),v.v.. Trong hành trình hoạt động cách mạng và đấu tranh để đạt được hoài bão đó, Người đã không chỉ đến với chủ nghĩa Mác- Lênin mà còn truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin về Việt Nam - vào trong phong trào công nhân và phong trào đấu tranh yêu nước; chuẩn bị về mọi mặt và sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam; đào tạo đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa hồng vừa chuyên; tập hợp, cổ vũ, động viên quần chúng nhân dân tham gia đấu tranh cách mạng trong Mặt trận dân tộc thống nhất, trong các đoàn thể chính trị, các hình thức hội phù hợp yêu cầu từng giai đoạn cách mạng để nhân nguồn sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc… Ngay sau khi ra đời ngày 3/2/1930, trong Cương chính trị đầu tiên, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định đường lối cách mạng Việt Nam là trải qua hai giai đoạn: trước hết là tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sau đó tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển của chế độ tư bản chủ nghĩa, thực hiện chủ nghĩa cộng sản ở nước ta. Vì độc lập, tự do của Tổ quốc, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tập hợp quần chúng, đã lãnh đạo và đưa quần chúng ra đấu tranh với tinh thần và ý chí “toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Người đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mùa Thu năm 1945, sáng lập nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; đồng thời, khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và dân tộc. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”[2] trong bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945. Tuy nhiên, trước dã tâm xâm lược của thực dân Pháp và trước nguy cơ mất nước một lần nữa; trân trọng giá trị thiêng liêng của độc lập, tự do và không cam tâm làm nô lệ, với tinh thần và ý chí “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, hưởng ứng lời hịch cứu nước của Người: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!”, toàn thể nhân dân Việt Nam đã quyết tâm “thà hy sinh tất cả, nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”[3]. Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp đầy khó khăn, thử thách ấy, không chỉ đề ra chủ trương, đường lối đúng đắn, Người và Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, cổ vũ, động viên đồng bào và chiến sĩ cả nước kiên trì kháng chiến và kiến quốc; từng bước giành thắng lợi và và kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bằng một "Điện Biên Phủ chấn động địa cầu". Ngày 20/7/1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết. Theo tinh thần của Hiệp định, cuộc tổng tuyển cử tự do, thống nhất hai miền Nam - Bắc sẽ được thực hiện vào năm 1956. Tuy nhiên, thực hiện học thuyết Trurman; lo ngại sự sụp đổ dây chuyền của khu vực Đông Nam Á bởi cộng sản, Mỹ đã phá hoại hiệp định Giơnevơ, can thiệp vào miền Nam Việt Nam, dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam. Vậy là, khát vọng về một nước Việt Nam độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất - non sông liền một dải của Người và toàn thể nhân dân ta chưa thể trở thành hiện thực. Tiếp tục thực hiện khát vọng độc lập, tự do và thống nhất đất nước, để tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã căn cứ vào tình hình quốc tế, trong nước, so sánh thế và lực giữa ta và địch, nắm vững phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin để giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng (cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc) phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước. Trong khi tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ đã liên tục thay đổi các chiến lược chiến tranh ở miền Nam, âm mưu và tìm mọi cách chia rẽ hai miền Nam - Bắc; ngày càng mở rộng quy mô cuộc chiến tranh, tăng cường xây dựng chế độ ngụy quyền Sài Gòn, xây dựng quân đội ngụy và tăng cường đội quân của các nước chư hầu vào tham chiến; tăng cường đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân, nhằm hủy diệt cơ sở vật chất và tinh thần của miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Trước tình hình và nhiệm vụ mới, Đảng ta và Hồ Chí Minh đã một mặt nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ trong việc hoạch định đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tạo sức mạnh tổng hợp để đánh Mỹ và thắng Mỹ; đồng thời, tăng cường đoàn kết, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, phát huy sức mạnh của dân tộc và thời đại. Mặt khác, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, cổ vũ đồng bào và chiến sĩ cả nước quyết tâm xây dựng, bảo vệ vững chắc hậu phương miền Bắc, chi viện cho miền Nam đánh Mỹ; giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhiệm vụ xây dựng hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đấu tranh giải phóng miền Nam, để miền Nam ruột thịt, với vị trí là tiền tuyến lớn, trực tiếp đương đầu với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai luôn nhận được sự chi viện không ngừng nghỉ sức người, sức của từ hậu phương lớn miền Bắc. Sau phong trào Đồng Khởi 1959-1960, cách mạng miền Nam ngày càng phát triển... Quân dân ta đã lần lượt đánh bại hoàn toàn chiến lược “Chiến tranh đơn phương” và “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Trong bối cảnh đó, tháng 3/1965, Tổng thống Mỹ Johnson đã quyết định thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở Việt Nam. Tình hình cách mạng miền Nam diễn biến hết sức phức tạp, chiến tranh lan rộng ra cả nước, vận mệnh dân tộc đứng trước thử thách thức nghiêm trọng. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước diễn ra ngày càng quyết liệt. Để khẳng định niềm tin và quyết tâm đánh thắng Mỹ, ngày 17/7/1966, trong Lời kêu gọi chống Mỹ, cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa (…), song nhân dân việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do”[4], nêu cao tinh thần và thúc giục quân dân cả nước quyết đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Trên toàn miền Nam, quân dân ta đã giành được những thắng lợi quan trọng sau gần hai năm trực tiếp đương đầu với quân Mỹ, quân đồng minh và quân đội Việt Nam cộng hòa. Tuy gặp nhiều tổn thất, song đế quốc Mỹ chưa chịu từ bỏ chiến tranh xâm lược ở miền Nam. Chúng tiếp tục thực hiện chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc… Trong những năm tháng đó, thực tiễn cuộc đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng ở miền Nam, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và sự chi viện về mọi mặt của hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam đã chứng minh rằng, càng mở rộng chiến tranh, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai ngày càng lún sâu vào “đường hầm không lối thoát”. Bởi rằng, dù đế quốc Mỹ đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam và phá hoại, hủy diệt miền Bắc xã hội chủ nghĩa, song chúng cũng “không thể lay chuyển được chí khí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng” với với sự đồng tâm, đồng chí, đồng lòng của một dân tộc quyết tâm thực hiện khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Không áp lực nào ngăn cản được sự thật, ngăn cản được tinh thần và ý chí của nhân dân hai miền Nam- Bắc đấu tranh cho hòa bình, độc lập, tự do và thống nhất nước nhà. Tinh thần, quyết tâm của quân dân cả nước về nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước được thể hiện rõ trong từng quyết sách của Trung ương Đảng, trong nghị quyết của Quốc hội, đặc biệt trong bản Di chúc lịch sử Người để lại trước khi đi xa. Trong Di chúc của Hồ Chí Minh, khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và niềm tin tất thắng về cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân ta được Người nhắc đến nhiều lần, cháy bỏng hơn bao giờ hết: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể sẽ kéo dài mấy năm nữa. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn”; “Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải rút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”; “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”; “Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ và góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc”[5]… Bản Di chúc vốn không dài; nội dung Người viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng không nhiều, song chữ “nhất định” được lặp lại trong từng câu, thể hiện khát vọng cháy bỏng và niềm tin tưởng tuyệt đối của Người vào thắng lợi của nhân dân ta vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập và thống nhất.

GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC THEO DI HUẤN CỦA NGƯỜI

Khát vọng và niềm tin của Người đã trở thành lời thề thiêng liêng của cả dân tộc khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa. Trước anh linh của Người, quyết tâm thực hiện hoài bão của Người, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta thề: “Gương cao mãi mãi ngọn cờ độc lập dân tộc, quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước để thỏa lòng mong ước của Người”[6]. Trong những năm sau đó, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta từng bước giành được thắng lợi quan trọng trên các chiến trường. Giữa tháng 6/1972, chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của Ních xơn thất bại nghiêm trọng và đứng trước nguy cơ bị phá sản. Trong bối cảnh đó, Mỹ đưa B.52 đánh phá Hà Nội, Hải Phòng nhằm "phá hủy khả năng của Bắc Việt Nam ủng hộ các lực lượng ở Nam Việt Nam". Tuy nhiên, chiến thắng của trận “Điện Biên Phủ trên không” 12 ngày đêm cuối năm 1972 của quân dân Hà Nội đã buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Paris ngày 27/1/1973 về “chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam”. “Mỹ đã cút”, nhưng để thực hiện trọn vẹn lời hứa “đánh cho ngụy nhào”, đồng bào và chiến sĩ cả nước đã không ngừng tiến lên, kiên trì thực hiện hoài bão của Người. Vẫn có Người bên cạnh soi đường, dẫn lối; có nguồn sức mạnh nội lực của khát vọng hòa bình, độc lập, tự do và thống nhất được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước oai hùng của dân tộc cổ vũ, động viên, chiến dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng và cuối cùng là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kéo dài 21 năm của nhân dân ta. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa xuân năm 1975 đã giành thắng lợi hoàn toàn, cả nước đã thống nhất, non sông liền một dải, làm thỏa lòng mong ước của Người. Tâm nguyện của Người trong Di chúc và khát vọng của toàn dân tộc về một nước Việt Nam thống nhất đã trở thành hiện thực. 50 năm sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đi xa và 50 năm thực hiện Di chúc của Người (1969-2019), toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; đoàn kết một lòng, phát huy những bài học kinh nghiệm trong chiến tranh để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục thực hiện hoài bão của Người trong Di chúc: “Còn non, còn nước, còn người, Thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!” và cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta không chỉ đề ra, đảm bảo sự đồng bộ, nhất quán giữa đường lối chiến lược và chủ trương, chính sách cụ thể; giữa chỉ đạo chiến lược và hình thức, bước đi cụ thể trong mỗi kỳ Đại hội về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ mà còn tiếp tục bồi dưỡng, phát huy tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự do, thống nhất đất nước của mỗi người dân Việt Nam yêu nước trong Mặt trận Tổ quốc để nhân nguồn sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Vì vậy, những thành tựu về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh,v.v.. của Việt Nam, nhất là trong hơn 30 năm đổi mới và hội nhập quốc tế là không thể phủ nhận và ngày càng được khẳng định trên trường quốc tế. Trong xu thế toàn cầu hóa, tình hình quốc tế và trong nước ngày càng có những diễn biến phức tạp, với nhiều vận hội, thời cơ đi liền khó khăn, thách thức. Các thế lực phản động, thù địch không ngừng thực hiện âm mưu, chiến lược “diễn biến hòa bình”, với nhiều thủ đoạn mới ngày càng tinh vi và xảo quyệt, quyết liệt và thâm độc. Trong khi đó, sự suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã làm giảm sút niềm tin của nhân dân với Đảng, đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ,v.v.. Tinh hình và nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới càng phải đòi hỏi mỗi người phải thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Người, thực hiện lời căn dặn của Người về độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và phát huy sức mạnh của khối toàn dân đoàn kết để dựng xây và bảo vệ non sông, gấm vóc Việt Nam liền một dải. Càng gian nan, thử thách, nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt được tạo ra bởi khối đại đoàn kết toàn dân tộc; được nuôi dưỡng bởi ngọn nguồn văn hóa Việt Nam, bởi lịch sử anh hùng, bất khuất qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước; được tiếp nối, phát huy cao độ và thăng hoa trong thời đại Hồ Chí Minh - thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử dân tộc sẽ lại càng được nhân lên, kết dính bởi nhân dân - bởi thế trận lòng dân vững chắc. Nguồn sức mạnh đại đoàn kết dân tộc đó được trao truyền bởi bao thế hệ người Việt Nam yêu nước luôn tràn đầy khát vọng và niềm tin chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”; được bổ sung, phát triển không ngừng dưới sự lãnh đạo của Đảng; được chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường, dẫn lối sẽ tiếp thêm sức mạnh cho nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và ngày một phát triển phồn vinh “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, lời thề năm xưa trước anh linh Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đem hết sức mình, tiếp tục phấn đấu thực hiện lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa cao đẹp mà Người đã vạch ra cho giai cấp công nhân và nhân dân ta, đem lại phồn vinh cho đất nước, hạnh phúc cho đồng bào”[7] và nguyện "suốt đời học tập đạo đức, tác phong của Người, bồi dưỡng phẩm chất cách mạng, không sợ gian khổ, không sợ hy sinh, rèn luyện mình thành những chiến sĩ trung thành với Đảng, với dân, xứng đáng là đồng chí, là học trò của HỒ CHỦ TỊCH. Noi gương Người, toàn thể nhân dân ta, thanh niên ta nguyện ra sức trau dồi mình thành những con người mới, làm chủ đất nước, làm chủ xã hội mới, mang lá cờ bách chiến bách thắng của HỒ CHỦ TỊCH tới đích cuối cùng"[8] sẽ trở thành mệnh lệnh trái tim, khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Trên tinh thần đó, mỗi cấp ủy Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên cần tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với phòng, chống và ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII để luôn xứng đáng với vai trò “là người lãnh đạo, người đày tớ thật trung thành của nhân dân” như Người mong muốn. Mỗi cấp ủy, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu và đội ngũ cán bộ, đảng viên cần phải tự giác thực hiện Quy định 47-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Những điều đảng viên không được làm”, Quy định 101-QĐ/TW của Ban Bí thư khóa XI về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp”, Quy định số 55-QĐ/TW ngày của Bộ Chính trị khóa XII về “Một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”, Quy định 08 về "Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương",v.v.. nhất là Nghị quyết 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về “Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”, góp phần vào thành công Đại hội Đảng bộ các cấp và Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị xã hội và các tổ chức chính trị - xã hội cần quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng về “lấy dân làm gốc” và “dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng”; triển khai thực hiện Quyết định số 218-QĐ/TW của Bộ Chính trị quy định “Về việc Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”, Quy định 124-QĐ/TW của Ban Bí thư khóa XII về “Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên”,v.v.. Trong đó, Mặt trận phải thực sự thể hiện rõ vai trò tập hợp, mở rộng, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức, tổ chức hoạt động; nâng cao hiệu quả việc tập hợp, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở tiếp tục phát huy dân chủ, sức sáng tạo, ý thức tự lực, tự cường, tự hào, tự tôn dân tộc và đồng thuận xã hội. Tăng cường khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đồng thời, phát huy dân chủ, tạo điều kiện thuận lợi và nêu cao vai trò của các cá nhân tiêu biểu, người có uy tín trong các dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài,v.v.. để mỗi người dân có thể phát huy khả năng sáng tạo của mình, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước ngày một phồn vinh, nhân dân được ấm no, hạnh phúc như Hồ Chí Minh mong muốn./.

Cuộc tình chứng khoán

Như ngồi trên tàu lượn siêu tốc, tôi từng hưng phấn, đau tim, choáng váng khi tham gia chứng khoán Việt Nam. Tôi đến với VN-Index sau khi được một bạn nước ngoài giới thiệu đầu năm 2018. Dù không làm trong lĩnh vực tài chính, kênh đầu tư này khiến tôi thích thú. Tôi học một khóa trực tuyến về chiến lược đầu tư rồi đăng ký mở tài khoản tại công ty chứng khoán.Tôi bắt đầu giao dịch đúng thời điểm VN-Index lên đỉnh lịch sử vào tháng 4/2018 rồi thình lình lao dốc không phanh. Trải qua cú sốc chỉ số từ 1.204 xuống 892, tài khoản của tôi, gồm số tiền tiết kiệm trong nhiều năm, bị cháy rụi. Tôi hoang mang nhưng quyết cắn răng chịu đựng, không bán. Phía sau mỗi cổ phiếu là một doanh nghiệp. Tôi đầu tư vào giá trị của nó, còn giá cổ phiếu lên hay xuống là chuyện bình thường, sớm muộn nó phải hồi phục. Thị trường lại sập ''trắng bên mua'' khi đại dịch Covid-19 bùng phát vào năm 2020. Tài khoản của tôi lại chìm vào thua lỗ, nhưng tôi chỉ đứng ngoài và giữ bình tĩnh bằng niềm tin. Nhiều người đã vội bán cắt lỗ, mất tiền tỷ. Ngược lại, một số người tận dụng cơ hội nhảy vào chứng khoán, mua giá thấp, sau đó lãi đậm. Thị trường hồi phục ngoạn mục như bạn thấy, và tài khoản của tôi cũng tăng đáng kể, bù đắp đầy đủ cho hai năm vốn âm. Giai đoạn 2020-2021 là chiến thắng rực rỡ của các nhà đầu tư Việt Nam khi VN-Index lọt vào top chỉ số tăng mạnh nhất châu Á. Thời điểm này cũng chứng kiến sự trỗi dậy của nhà đầu tư cá nhân F0 - một sức mạnh mới. ''Khối ngoại càng xả, F0 ta càng cân'', tôi nghe nhiều người nói, giọng đầy tự hào. Bởi bất chấp khối ngoại bán ròng liên tục, VN-Index vẫn băng băng tiến về phía trước. Giờ nó đã khỏe mạnh, đã trưởng thành, không còn phụ thuộc vào dòng tiền bên ngoài. Thú vị thay, cú sốc Covid-19 đã làm cho chứng khoán tỏa sáng và thu hút thêm dòng tiền, sự chú ý của công chúng. Đại dịch căng, giãn cách diện rộng, kiếm tiền khó hơn, ít kênh đầu tư nên tiền càng chảy vào chứng khoán. Nhiều người không đi làm, quay sang chứng khoán để "bù đắp thu nhập", ngày nào cũng dán mắt vào bảng điện. Số tài khoản mới phá kỷ lục khiến hệ thống giao dịch cũng lao đao vì quá tải. HoSE hôm qua đã phải ngừng giao dịch. Nhiều người đang nghĩ rằng, "đánh chứng", chơi Bitcoin, forex có vẻ dễ hơn đi làm thuê, ngồi văn phòng và làm đến kiệt sức. Cơn sốt chứng khoán lan truyền, nhóm tư vấn, diễn đàn mọc như nấm, truyền tai nhau cổ phiếu nào sắp có ''game'' hay ''phím hàng''. Nghe hàng xóm khoe lãi, nhiều người càng sốt ruột, càng muốn ăn ngay. Họ mua bán theo cảm tính hay tin đồn, hùa theo ''chuyên gia'' nọ kia trên các diễn đàn, không đa dạng hóa danh mục. Họ lướt sóng, "đánh chứng" như đánh bạc hay chơi xổ số. Non kinh nghiệm, thiếu kiến thức, không tìm hiểu về thị trường nhưng vẫn tự tin rót vốn. Nhưng nuôi ảo vọng như vậy chẳng khác gì phó mặc tiền cho may rủi. Không ăn may thì "đu đỉnh", vứt dép chạy khi thị trường sập, kêu oan bị ''kẹp hàng'' và ''củi lửa'', bị đội lái ''lùa gà'' và ''úp bô''. Bên cạnh một tư duy nguy hiểm, họ còn giúp tôi nhận ra: tiếng Việt vô cùng giàu hình ảnh. Khi nói về rủi ro của đầu tư chứng khoán, lại có người hay đưa ra thống kê rằng 90% nhà đầu tư đều thua lỗ. Tôi xin làm rõ, con số này chỉ đúng trong trường hợp các nhà mua - bán trong ngày và không bao gồm các quỹ, nhà đầu tư dài hạn. Cũng theo thống kê của một công ty chứng khoán, 40% nhà đầu tư từ bỏ chứng khoán trong tháng đầu và 80% từ bỏ trong hai năm đầu. Điều này chứng minh rằng nhiều F0 nhảy vào thị trường với ham muốn giàu nhanh. Người Việt vẫn tin rằng ''phi thương bất phú'' - muốn làm giàu phải kinh doanh. Nhưng để khởi nghiệp thành công, bạn phải đáp ứng rất nhiều yếu tố: có vốn, đam mê, lòng kiên trì, vô vàn kiến thức, kỹ năng nền tảng và chuyên môn, có đội ngũ và quan hệ xã hội. Và thật nhiều may mắn. Thế nhưng, thống kê cho thấy khả năng thất bại khi khởi nghiệp lên tới khoảng 70%-80%. Mọi việc đầu tư đều chứa đựng rủi ro, chứng khoán không phải ngoại lệ. Đó là lý do tôi cho rằng, chứng khoán là kênh đầu tư phù hợp với người kiên trì, sẵn sàng học hỏi và biết quan sát. Nó có lẽ là con đường đầy chông gai và nhiều bài học xương máu, nhưng với tôi, nó cũng là đam mê, một cách tuyệt vời để thử sức bản thân. Bên cạnh đó, chứng khoán giúp tôi tìm hiểu sâu hơn về kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam. Đó là nhóm kiến thức nền tảng ai cũng nên có. Khi nghe tôi kể về chứng khoán, nhiều bạn bè phản ứng theo định kiến phổ biến. Họ cảnh báo tôi không nên liều ''dính'' vào chứng khoán vì là ''trò chơi bẩn của tay to, đội lái'', nó dựa trên ''số liệu ảo'', khả năng tôi sẽ làm mồi cho "cá mập" và mất sạch tiền rất lớn. Tôi hy vọng rằng cách nghĩ này sẽ thay đổi. Chính phủ sẽ tìm cách cải thiện năng lực của thị trường chứng khoán, sự tín nhiệm của người dân vào chứng khoán và bảo vệ quyền lợi của cổ đông nhỏ lẻ, làm cho thị trường thêm minh bạch, lành mạnh. Chúng đều là những việc cần làm ngay. Tại Mỹ, nền kinh tế lớn nhất thế giới, một nửa số hộ dân đầu tư vào chứng khoán. Tại Việt Nam, mới có hơn 2% dân số tham gia thị trường chứng khoán. Đó là lý do tôi cho rằng, kênh đầu tư chứng khoán sẽ là xu hướng chủ chốt trong tương lai. "Cuộc tình" của tôi với chứng khoán cho tới hôm nay vẫn ổn. Chúng ta nên gạt định kiến rằng chứng khoán chỉ dành cho người giàu, nhà đầu cơ hay kẻ trong cuộc. VN-Index có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế, hỗ trợ sự phát triển của các doanh nghiệp và cả nước.

Minh chứng sống động phản bác luận điệu sai trái

 


Theo đánh giá của các chuyên gia, trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến phức tạp, tỷ lệ cử tri đi bầu như trên là một thành công lớn của cuộc bầu cử. Trong số những người không đi bầu, chủ yếu do các yếu tố khách quan như đau ốm hay các lý do đột xuất, vắng mặt tại thời điểm bầu cử. Con số trên một lần nữa minh chứng cho cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 đã diễn ra thành công tốt đẹp, người dân tự giác, tích cực thực hiện quyền, trách nhiệm công dân cao cả của mình. 

Đây là kỳ bầu cử ấn tượng không chỉ bởi quy mô lớn nhất với gần 69 triệu lá phiếu của cử tri trên cả nước để bầu ra 500 đại biểu Quốc hội khóa XV, gần 4.000 đại biểu HĐND cấp tỉnh, hơn 2 vạn đại biểu HĐND cấp huyện và hơn 24 vạn đại biểu HĐND cấp xã, mà còn bởi cuộc bầu cử diễn ra trong bối cảnhdiễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19.

Trong sự kiện chính trị đặc biệt này, cử tri trên cả nước, từ những cụ già, già làng, trưởng bản, những người có uy tín, những vị chức sắc, chức việc trong các tôn giáo cho đến các lực lượng đang trực tiếp làm nhiệm vụ phòng, chống dịch COVID-19 hay cả những người đang thuộc diện cách ly, những khu dân cư đang bị phong tỏa và những người bị tạm giữ, tạm giam đều hào hứng tham gia vào ngày hội chung của đất nước, được tự bản thân mình thực hiện quyền, trách nhiệm công dân.

An ninh, trật tự trong suốt quá trình chuẩn bị và diễn ra bầu cử được đảm bảo an toàn. Sự thành công đó được dư luận quốc tế đánh giá cao, nhiều tờ báo có uy tín của các nước đã đăng tải thông tin, hình ảnh về thành công cuộc bầu cử của Việt Nam.

Với kết quả bỏ phiếu như vậy rõ ràng hoàn toàn trái ngược với luận điệu chống phá của các thế lực thù địch, khi trong suốt thời gian qua, họ rốt ráo thực hiện “chiến tranh tâm lý”, phát tán vô số các luận điệu xuyên tạc nhằm tạo dựng một viễn cảnh xấu trong ngày bầu cử. Âm mưu của các đối tượng là bằng nhiều cách để kêu gọi càng nhiều người dân không đi bầu cử càng tốt, lấy cớ lên án Việt Nam, kể cả việc kích động biểu tình, gây rối phá hoại bầu cử.

Trên nhiều trang mạng xã hội, các đối tượng còn rêu rao những thông tin tiêu cực, cho rằng bầu cử Quốc hội chỉ là hình thức, quyền lực trong Quốc hội đã được các “phe nhóm” của Đảng “an bài”, “thỏa hiệp”, “phân chia”. Họ lan truyền những bài viết “xếp ghế” cho nhân sự trong Quốc hội. Hay như thông tin về số lượng, cơ cấu đại biểu Quốc hội, nhất là về số lượng đại biểu là người ngoài Đảng cũng trở thành chủ đề để các đối tượng xuyên tạc, biến tướng bản chất vấn đề...

Trong ngày bầu cử, đi ngược lại với ngày hội của toàn dân tộc, một số người tự phong “đấu tranh dân chủ đã tự tước bỏ quyền và nghĩa vụ công dân của mình khi không tham gia bầu cử, thậm chí họ còn tuyên truyền, kích động, lên án những người tham gia bầu cử với những lời lẽ xúc phạm. Có trường hợp như linh mục X.C, là linh mục quản xứ tại một tỉnh miền Trung nhưng lại rêu rao không đi bầu cử và còn đăng tải trên facebook cá nhân lời lẽ mỉa mai những người đi bầu cử từ sớm.

Sau khi đăng tải, linh mục X.C bị dư luận phản ứng gay gắt, nhất là từ các chức sắc tôn giáo tại địa bàn nên linh mục X.C đã phải gỡ dòng trạng thái trên. Trong khi đó, trong ngày bầu cử, hòa chung với không khí phấn chấn của cử tri cả nước, các chức sắc, giáo dân trên địa bàn đã cùng thực hiện quyền, nghĩa vụ công dân, tham gia bầu cử tích cực để lựa chọn những người xứng đáng vào cơ quan quyền lực Nhà nước ở Trung ương và địa phương.

Bên cạnh đó, một số cơ quan truyền thông hải ngoại đưa các bài viết, hình ảnh lắp ghép, cắt xén để làm sai lệch tình hình bầu cử ở Việt Nam.Điển hình như trang mạng của tổ chức khủng bố Việt Tân sau khi thay ảnh đại diện với khẩu hiệu “không biết, không bầu” đã đăng tải bài viết “Phơi bày bản chất phi dân chủ trong cuộc bầu cử Quốc hội hiện nay”.

Trang mạng BBC Tiếng Việt nói rằng “Nghịch lý bầu cử ở Việt Nam: Cử tri đi bầu chỉ để cho xong”, xuyên tạc rằng người dân Việt Nam thờ ơ với bầu cử… Nội dung của những bài viết trên vẫn không có gì khác ngoài những luận điệu tuyên truyền sai lệch về quá trình diễn ra cuộc bầu cử, đả kích, bôi nhọ các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh đạo chính quyền địa phương.

Hành động của một số cá nhân tự tước đi quyền, trách nhiệm công dân không đi bầu cử hay hành động xuyên tạc, bóp méo về cuộc bầu cử nói trên là những hành động lạc lõng, đi ngược lại với lợi ích của quốc gia, dân tộc khi không hòa chung với ngày hội của toàn dân.

Những luận điệu xuyên tạc trên mạng xã hội như một thứ virut độc hại được các đối tượng phát tán nhằm đầu độc tư tưởng, nhận thức của nhân dân. Thế nhưng, sức đề kháng của mỗi người dân Việt Nam ngày càng tốt khi nhận thức, hiểu biết chính trị từng bước được nâng cao, trở thành “tấm khiên” vững chắc để ngăn chặn virut độc hại. Do đó, những luận điệu xuyên tạc như vậy chỉ đánh lừa một bộ phận rất nhỏ người nhẹ dạ cả tin hoặc với đối tượng hám lợi, vì động cơ xấu để cổ súy, hùa theo. Bằng chứng của sức đề kháng đó được thể hiện rõ nét trong ngày bầu cử, không chỉ dừng lại ở số liệu thống kê từ Hội đồng Bầu cử Quốc gia về kết quả bầu cử trên cả nước mà còn là không khí, sự thể hiện tình cảm, niềm tin của người dân.

Mạng xã hội chia sẻ những hình ảnh đẹp về ngày bầu cử, những câu chuyện xúc động.Từ hình ảnh về cụ bà Nguyễn Thị Năm, cử tri lớn tuổi nhất - 102 tuổi được con cháu đưa đi bỏ phiếu, cho đến hình ảnh về các thế hệ trẻ lần đầu đi bầu cử với niềm vui, sự hãnh diện khi cầm lá phiếu và thực hiện quyền công dân cao cả. Có những người dậy từ rất sớm để chuẩn bị trang phục đẹp nhất, ấn tượng nhất để tô hồng cho ngày hội toàn dân. Mỗi người dân đều ý thức được rằng, mỗi lá phiếu của cử tri đều mang sứ mệnh cao cả, góp phần dựng xây đất nước.

Thêm một lần nữa, thành công của cuộc bầu cử Quốc hội khóa XV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 thể hiện niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN. Bầu cử thể hiện nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” và vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của Nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc đã được thể hiện trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Đồng thời, thành công của cuộc bầu cử trong bối cảnh đại dịch COVID-19 tiếp tục khẳng định được vị thế, vai trò của Việt Nam đối với các nước trong khu vực và trên trường quốc tế.

 

CEO 'siêu doanh nghiệp' 500.000 tỷ đồng: Tôi sẽ góp đủ vốn

Ông Nguyễn Vũ Quốc Anh cho biết đăng ký vốn công ty 500.000 tỷ đồng không phải nhầm lẫn và sẽ góp đủ vốn trong 90 ngày. Theo dữ liệu về đăng ký doanh nghiệp, ngày 20/5, Công ty cổ phần Tập đoàn Đầu tư Công nghệ Tự động Toàn Cầu (Auto Investment Group) được thành lập với vốn điều lệ 500.000 tỷ đồng. Quy mô vốn này vượt xa các doanh nghiệp lớn trên thị trường chứng khoán như Vingroup, Hoà Phát, Vietcombank... Ông Nguyễn Vũ Quốc Anh sinh năm 1986 là cổ đông lớn nhất khi đăng ký góp 99,996% vốn, tương đương 499.998 tỷ đồng. Ông đồng thời là người đại diện pháp luật, tổng giám đốc công ty này. Chia sẻ với VnExpress, ông Quốc Anh cho biết đã cân nhắc rất kỹ trước khi ra quyết định nên số vốn đăng ký thậm chí còn ít, chứ không có sự nhầm lẫn. Ông dự kiến làm việc với một số ngân hàng như Vietcombank, Techcombank, OceanBank và các tập đoàn bất động sản Novaland, FLC, Hà Đô... để huy động vốn. "Ngày xưa tôi toàn làm cho những tập đoàn lớn, xuất thân từ Central Group, Vingroup, SCI Group, K-Group nên quen biết nhiều. Tôi không thiếu vốn", ông Quốc Anh nói, sau đó nhắc đến việc có nguồn tài chính từ các nhà đầu tư nước ngoài. Ông Quốc Anh cho hay rất nhiều người thắc mắc nếu không thực hiện được thì doanh nghiệp này sẽ giảm vốn điều lệ còn bao nhiêu. Sở Kế hoạch và Đầu tư cũng nhắc ông phải hoàn thành việc góp vốn, tránh tình trạng công bố vốn ảo. Tuy nhiên, ông Anh cho rằng những người đặt câu hỏi này không hiểu về hoạt động của một doanh nghiệp công nghệ. Đồng thời, ông khẳng định chưa bao giờ nghĩ đến trường hợp không góp đủ 500.000 tỷ đồng. "Tôi cam kết sẽ hoàn thành việc này trong vòng 90 ngày theo quy định. Nếu mọi người nghĩ đây là ảo thì hãy chờ kết quả", ông nói. Auto Investment Group đăng ký địa chỉ trụ sở tại tầng 46, tòa nhà Bitexco Financial Tower nhưng ông Quốc Anh cho biết không có nhân sự làm việc tại đây. Hiện 20 nhân sự đều làm việc từ xa, dự kiến trong tháng tới sẽ thuê mặt bằng tại đây để đặt văn phòng. Ông cho biết chi phí vận hành 3 nhóm phát triển dự án, các nhân viên tiếp thị rất thấp dù "lực lượng này toàn siêu nhân, không phải người thường". Theo người đứng đầu "siêu doanh nghiệp", công ty này đăng ký ngành nghề lập trình máy vi tính và dự kiến giữa tháng 6 mới họp báo ra mắt. Tuy nhiên, trên website công ty hiện cho biết đã có 17 đơn vị thành viên và gần 1,5 triệu khách hàng. Công ty này và các thành viên sẽ tập trung hoạt động trong lĩnh vực chuyển đổi số cho các doanh nghiệp trong nước và đầu tư khởi nghiệp với cam kết thành công 100%. Theo quy định, cơ quan đăng ký doanh nghiệp không thẩm định số vốn góp ngay tại thời điểm đăng ký mà các cổ đông phải góp đủ vốn trong 90 ngày từ ngày được cấp giấy đăng ký doanh nghiệp. Nếu cổ đông không thanh toán đủ số cổ phần đã đăng ký mua, doanh nghiệp điều chỉnh số vốn điều lệ bằng mệnh giá số cổ phần đã được trả đủ. Bên cạnh đó, pháp luật cấm và có chế tài xử phạt việc khai khống đăng ký doanh nghiệp. Nhưng trên thực tế, không dễ để áp dụng và đủ chứng cứ chứng minh. Kể cả bị xử phạt về khai khống, mức tối đa chỉ 15 triệu đồng. Để chứng minh việc góp vốn, cổ đông là tổ chức phải góp vốn bằng chuyển khoản ngân hàng. Còn cổ đông cá nhân không bắt buộc qua tài khoản ngân hàng mà có thể góp vốn bằng tiền mặt hoặc các cách khác (tài sản). Do đó, chỉ cần công ty lập chứng nhận góp vốn bằng tiền mặt và đưa vào hồ sơ sổ sách kế toán.

Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (Tiếp)

 


XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ĐƯỢC TIẾN HÀNH NHƯ THẾ NÀO?

Xuyên suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, văn kiện của Đảng qua các kỳ Đại hội đều khẳng định nhất quán độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tại Đại hội II (1951), Đảng khẳng định, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam sẽ tiến triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa và nước Việt Nam sẽ thành một nước xã hội chủ nghĩa. Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội lần thứ II, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954) đã giành được thắng lợi. Với Hiệp định Giơnevơ (20/7/1954), miền Bắc được giải phóng đã từng bước khôi phục, cải tạo kinh tế, xã hội, văn hóa và đi lên chủ nghĩa xã hội; còn ở miền Nam, đồng bào ta tiếp tục thực hiện cuộc đấu tranh giải phóng, thực hiện khát vọng thống nhất nước nhà.

Đại hội Đảng lần thứ III (1960) - Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà đã xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là: Đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời, đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất đất nước, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Khi miền Bắc quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xã định rõ rằng: “Ở miền Bắc, chúng ta đang ở trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta... Chúng ta phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xóa bỏ giai cấp bóc lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới không có bóc lột áp bức. Muốn thế chúng ta phải dần dần biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp... Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc"(9).

Đồng thời thực hiện hai chiến lược cách mạng ở hai miền Nam - Bắc, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa đấu tranh cách mạng ở miền Nam, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đầy gian khổ sau 21 năm gian nan, thử thách đã kết thúc thắng lợi bằng cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Miền Nam được giải phóng, hai miền Nam - Bắc đã sum họp một nhà. Sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi, cả nước thống nhất, cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vững bước trên hành trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được Đảng ta, nhân dân ta kiên định thực hiện, nhất là trong hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, bất chấp sự chống phá điên cuồng của các thế lực thù địch, bất chấp sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. (còn tiếp)

 

 

THỰC TIỄN XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA?

 



Trong mọi thời điểm, mọi hoàn cảnh, Đảng ta, nhân dân ta không chỉ kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà còn xác định rõ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam chính là quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Những nội dung quan trọng này đã được khẳng định từ trong Chương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, trong văn kiện từ Đại hội II đến Đại hội VI và tiếp tục được khẳng định trong Cương lĩnh 1991(Đại hội VII): "Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất thấp"(10) và “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt trong quá trình cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam vẫn là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ hữu cơ với nhau”(11).

Kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và xuất phát từ thực tiễn, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp đúng như Nghị quyết Đại hội VIII (1996) của Đảng nhấn mạnh: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn. Xét trên tổng thể, việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa”(12).

Tại Đại hội IX (2001), Đảng tiếp tục khẳng định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”(13) và "con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại"(14). Cùng với đó, Báo cáo chính trị tại Đại hội cũng khẳng định nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn, với 8 đặc trưng cơ bản; đồng thời, nhấn mạnh bài học số một là: Trong quá trình đổi mới, phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tiếp đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) tại Đại hội XI của Đảng (Cương lĩnh 2011) đã nêu những nội dung cơ bản của con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; bổ sung, phát triển những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng với 8 đặc trưng cơ bản, 8 phương hướng cơ bản và những mối quan hệ lớn cần phải nắm vững và giải quyết tốt trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều đó cũng khẳng định rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc và là hai mặt không thể tách rời của con đường phát triển đất nước, hướng tới mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Như vậy, có thể thấy “đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”(15) và trong hơn 9 thập niên lãnh đạo cách mạng Việt Nam, dù trong hoàn cảnh khó khăn, thử thách nào, Đảng ta vẫn luôn kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Lý luận và thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đều khẳng định con đường duy nhất đúng để đất nước phát triển bền vững là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Việc Đảng quyết định đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội và cả nước đồng thời thực hiện 2 chiến lược cách mạng ở hai miền; quyết định đưa cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội sau khi nước nhà thống nhất; tiến hành sự nghiệp đổi mới và tiếp tục kiên định hành trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong hơn 35 qua… chính là sự lựa chọn kiên quyết và đúng đắn, kiên định và sáng tạo của Đảng dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh. Thế giới có thể đổi thay, song con đường đó là phù hợp quy luật, đúng như Đảng khẳng định tại Đại hội XII (2016): “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”(16).

Vì thế, từ lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng Bí thư đã khẳng định trong bài viết của mình rằng, "lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa". Hơn nữa, thực tiễn đi lên chủ nghĩa xã hội cho thấy, việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là hình thức tối ưu để thực hiện quyền lực của nhân dân. Việc phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, để văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc được chú trọng… chính là thành tựu về lý luận của Đảng, là kết quả sự tổng kết thực tiễn và tiếp thu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như những thành tựu của về văn hóa của nhân loại…

Đồng thời, việc "đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng". Bởi, thực tiễn công cuộc đổi mới cho thấy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách, trong suốt quá trình phát triển và đó chính là/được coi là công cụ, phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng mô hình kinh tế tổng quát ở Việt Nam... Vì thế, những luận điểm của Tổng Bí thư nêu ra trong bài viết là khoa học, thuyết phục, không chủ quan, duy ý chí; là minh chứng sắc bén bác bỏ sự xuyên tạc, xảo trá của các đối tượng cơ hội, phản động, thù địch…

Hơn nữa, trong bài viết của mình, Tổng Bí thư đã không chỉ trả lời rất rõ, lập luận sắc sảo về những nội dung đã nêu ra mà còn khẳng định rõ: Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp. Việc đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại, cho nên lại càng khó khăn, phức tạp; cho nên nhất thiết phải trải qua một thời kỳ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới… Đây chính là gắn lý luận với thực tiễn, không hề mơ  hồ, càng không ảo tưởng như các luận điệu thù địch xuyên tạc.

Tổng Bí thư xác định: "Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt cá bé" vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm"; "xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm"; "Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới”… Đây chính là sự cụ thể hóa Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011, Nghị quyết các kỳ Đại hội; thể hiện rõ tính nhân văn của chủ nghĩa xã hội; là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội; là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi, dù thế giới có đổi thay!

Bên cạnh đó, trong bài viết, Tổng Bí thư khẳng định những thành tựu của chủ nghĩa tư bản là không thể phủ nhận: “Chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học - công nghệ”… Tuy nhiên, khi quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa (chỉ bỏ qua những mặt hạn chế của chủ nghĩa tư bản như áp bức, bất công, bóc lột...), song không bỏ qua những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đạt được trong thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa.

Cuối bài viết, Tổng Bí thư cũng đã chỉ ra những hạn chế cần phải khắc phục như: Về kinh tế, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu bền vững… Về xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hóa, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp… Về xây dựng và chỉnh đốn Đảng: tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên... Trong khi đó, các thế lực xấu, thù địch lại luôn tìm mọi thủ đoạn để can thiệp, chống phá, gây mất ổn định, thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình" nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam…

Vì thế, việc Tổng Bí thư khẳng định: "Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh"; đồng thời, kết luận rằng vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng; sự kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; sự đồng lòng, đoàn kết của nhân dân chính là nguồn sức mạnh sâu xa, cội nguồn của thắng lợi và sự phát triển… chắc chắn không phải là "sự hoang tưởng", lại càng không phải là "cái bánh vẽ của Đảng Cộng sản Việt Nam" như các thế lực thù địch bôi nhọ, phủ nhận.

Lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam đều cho thấy, bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam rất rõ ràng và chặt chẽ; phản ánh đúng lý luận, thực tiễn và cả những vấn đề đặt ra cần phải tiếp tục giải quyết. Bài viết không chỉ thể hiện tầm nhìn xa, tư duy sắc sảo mà còn cho thấy bản lĩnh chính trị của người đứng đầu Đảng trước những đổi thay của tình hình trong nước và quốc tế, góp phần giúp mỗi cấp ủy, mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên và người dân nhận thức sâu sắc hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội - đi đến tương lai tươi sáng của dân tộc để không dao động, không ngả nghiêng trước các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch; đồng thời, nêu cao tinh thần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn, kiên định và làm tròn trách nhiệm của mình cao hơn nhằm khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045 như Nghị quyết Đại hội XIII đã nêu ra./.

 -------------------------------

(1) (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội, 2011, t.13, tr.30, 438.

(2) (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội, 2011, t.1, tr.404, 496,

(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội, 2011, t.12, tr.415. 

(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.9, tr.30.

(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.2, tr.304.

(8)   Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.3, tr.1.

(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội, 2011, t.11, tr.91-92.

(10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t.51, tr.133.

(11) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t.51, tr.129-130

(12) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.68

(13) (14) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.83, 70.

(15) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.70.

(16) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.167.

Bệnh nhân Covid-19 thứ 48 tử vong

Bộ Y tế tối 1/6 công bố "bệnh nhân 3354", 76 tuổi, tử vong vì viêm phổi nặng do nCoV, biến chứng suy đa tạng, sốc mất máu. Theo Tiểu ban điều trị, bệnh nhân nam, địa chỉ tại huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn. Bệnh nhân có tiếp xúc với F0, được cách ly tại Trung tâm y tế huyện Hữu Lũng. Ngày 7/5, bệnh nhân được xét nghiệm nCoV và cho kết quả dương tính. Bệnh nhân được chuyển đến Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương cơ sở Đông Anh với chẩn đoán viêm phổi do nhiễm nCoV, điều trị tại khoa cấp cứu, quá trình điều trị bệnh nhân sốt liên tục, tức ngực khó thở, suy hô hấp tăng dần. Ngày 23/5 bệnh nhân xuất hiện suy hô hấp nặng, tụt huyết áp, được chỉ định đặt ống nội khí quản, thở máy, duy trì vận mạch. Bệnh nhân có tình trạng chảy máu phổi, nhiễm nấm huyết, được điều trị tích cực bằng truyền chế phẩm máu nhiều lần, thở máy, ECMO, lọc máu liên tục, kháng sinh, kháng nấm theo kháng sinh đồ. Tình trạng bệnh nhân xấu dần mặc dù tình trạng chảy máu phổi giảm. Bệnh nhân đã được Hội đồng chuyên môn của Bộ Y tế hội chẩn ngày 28/5 kết luận tình trạng bệnh lý nặng trên bệnh nhân cao tuổi, nguy cơ tử vong cao. Ngày 31/5, bệnh nhân vẫn có tình trạng chảy máu phổi tiếp diễn, suy đa tạng tăng, vô niệu, toan chuyển hóa ngày càng nặng. Bệnh nhân tử vong tối 31/5 với chẩn đoán viêm phổi nặng do nCoV, biến chứng suy đa tạng, sốc mất máu. Đây là bệnh nhân tử vong thứ 13 của đợt dịch này và là thứ 48 kể từ đầu dịch. Những biến chủng nCoV mới đã phát tán mầm bệnh nhanh hơn trước. Các y bác sĩ phải chạy đua với tốc độ lây nhiễm hàng trăm ca mỗi ngày. Để hỗ trợ lực lượng tuyến đầu, các cá nhân và doanh nghiệp có thể đồng hành cùng báo VnExpress trong chương trình "Tiếp sức cho tâm dịch".

Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

 


Nhân kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 -19/5/2021) và bầu cử Đại biểu Quốc hội khóa XV, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 (23/5/2021), ngày 16/5/2021, GS.TS. Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam công bố bài viết "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam". Đây là bài viết có giá trị to lớn cả về lý luận và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Qua đó, tiếp tục kiên định con đường đã chọn, thiết thực đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào cuộc sống, giúp mỗi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân hiểu đúng bản chất vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời, thấu triệt nguyên tắc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Xin giới thiệu một số nội dung trong bài viết như sau:

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI LÀ GÌ VÀ VÌ SAO PHẢI ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI?

Trong bài viết của mìnhTổng Bí Thư nêu rõ: "Chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: chủ nghĩa xã hội là một học thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ... Chủ nghĩa xã hội đề cập ở đây là chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên học thuyết Mác - Lênin trong thời đại ngày nay".

Chủ nghĩa xã hội dựa trên học thuyết Mác - Lênin trong tư tưởng Hồ Chí Minh, "nói một cách đơn giản và dễ hiểu là: Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động"(1); "là công bằng hợp lý: Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không hưởng. Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom"(2); "chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần được xóa bỏ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt"(3)… Vì thế, "nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”(4).

Cũng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì “chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”(5). Vì thế, về bản chất, chủ nghĩa xã hội được hiểu với tư cách là một chế độ xã hội thuộc hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó chính là một chế độ xã hội do Đảng Cộng sản lãnh đạo; trong đó, nhân dân lao động làm chủ và mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân; là xã hội luôn chăm lo đến lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần của mỗi người dân. Đó là một xã hội kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân với tập thể và lợi ích xã hội, giải quyết thỏa đáng giữa cống hiến và hưởng thụ; đồng thời, cũng là một xã hội mà sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người,v.v.. Chủ nghĩa xã hội thực sự là một chế độ mới, khác biệt, ưu việt, đầy tính nhân văn so với các chế độ xã hội trước đó như công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tư bản chủ nghĩa và đó là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản, mà việc xây dựng, hoàn thiện nó là một quá trình lịch sử lâu dài, để từng bước đạt tới mục tiêu.

Từ đó, có thể thấy, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội được Tổng Bí thư khẳng định trong bài viết: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới"… là hoàn toàn phù hợp lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội. 

Việt Nam lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là bởi rằng, trên hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với con đường cứu nước trong thời đại mới và khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(6). Từ bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, Người đã lựa chọn và đứng trên lập trường của giai cấp vô sản để xác định rằng: 1) Phải thành lập Đảng Cộng sản - đội tiền phong của giai cấp công nhân và dân tộc; 2) Đảng phải lãnh đạo nhân dân tiến hành giải phóng dân tộc bằng một cuộc cách mạng vô sản và bước phát triển tiếp theo là xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Luận cứ để độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có thể trở thành hiện thực sinh động ở Việt Nam chính là cách mạng giải phóng dân tộc được đặt trong quỹ đạo cách mạng vô sản; là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội và điều kiện trước hết chính là “muốn cách mệnh thành công thì dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”(7)… Vì thế, khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930), trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội để đi tới xã hội cộng sản chủ nghĩa được chỉ rõ là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(8) - tức là tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng, từng bước đưa đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hai giai đoạn cách mạng này có quan hệ biện chứng; trong đó: Để xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải giành được độc lập dân tộc và đó là cơ sở; còn đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là điều kiện tiên quyết để giữ vững được độc lập dân tộc, xây dựng được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Dưới ngọn cờ độc lập, tự do có hướng đích chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tập hợp và phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội (giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa) - mục tiêu định hướng tương lai của dân tộc Việt Nam là sự lựa chọn chính xác, đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ thập niên 1930, đã góp phần khơi nguồn sức mạnh của toàn dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhận thức rõ, độc lập dân tộc - điều kiện đầu tiên để xây dựng và phát triển đất nước chỉ được bảo đảm vững chắc khi gắn liền với chủ nghĩa xã hội và giành được độc lập dân tộc mà không đi lên chủ nghĩa xã hội thì chẳng những không bảo vệ được độc lập dân tộc mà còn không thể mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được Đảng ta, nhân dân ta đã luôn kiên định thực hiện; đồng thời, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng được tiếp tục bổ sung, phát triển, phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam qua văn kiện các kỳ Đại hội Đảng. (còn tiếp)

 

Tấm vé cuối ngày của chàng trai về thăm bố

TP HCMNhận tin bố bị tai biến, Nguyễn Quốc Phương vội ra sân bay Tân Sơn Nhất định hỏi chuyến sớm nhất về quê, dù trong người chỉ còn 350.000 đồng. Đứng trước quầy vé giờ chót trong ngày cuối cùng của tháng 5, chàng trai quê Tiên Động, Tứ Kỳ, Hải Dương khẩn khoản trình bày với cô nhân viên bán vé: "Em bị cụt không có bàn tay, không có vân tay nên không được làm giấy chứng minh nhân dân mà chỉ có giấy chứng nhận khuyết tật của ủy ban xã cấp. Nay bố em ngoài quê bị tai biến đang mong em về nên mới hỏi để đi máy bay". Quốc Phương còn kể thêm, anh vào Sài Gòn được ba năm nay, hàng ngày làm nghề bán vé số để kiếm tiền gửi về quê. Vì không có giấy tờ tùy thân nên trước đây, mỗi lần về thăm bố anh đều đi xe khách. Nghe anh Phương nói, nữ nhân viên quầy vé Lương Thị Thu Thảo mủi lòng. Cô sang hỏi trưởng ca, nhờ báo cáo với bộ phận an ninh và cấp trên về trường hợp của chàng trai khuyết tật này. Dù biết là sẽ khó, nhưng trưởng ca Nguyễn Đoàn Trí vẫn hy vọng giúp được Phương nên đồng ý dẫn anh đến gặp bộ phận an ninh và cấp trên để xin "giải quyết linh động". Bất ngờ là mọi chuyện khá suôn sẻ, cả hai nhận được câu trả lời "Được, em!" từ cấp trên. Sau khi anh Trí lo xong giấy tờ hỗ trợ bay cho anh Phương, đến lượt Thu Thảo làm thủ tục xuất vé thì chàng trai khựng lại, hỏi: "Vé bây giờ nhiều tiền không?". Thảo báo giá vé thấp nhất cho chuyến bay cuối cùng lúc 17h50 về sân bay Nội Bài, Hà Nội là 900.000 đồng. Phương móc trong chiếc túi đựng vé số cũ mèm ra một xấp tiền tiền lẻ và nói đây là toàn bộ "gia tài" của mình. Chị Thảo đếm được tổng cộng 350.000 đồng. Chàng trai tần ngần rồi nhờ chị Thảo giữ hộ số tiền còn mình định bắt xe ôm về quận 7 vay tiền của bạn rồi quay lại mua vé. Có điều, như thế chắc chắn anh sẽ lỡ chuyến bay cuối cùng trong ngày về Hà Nội. Chị Thảo và trưởng ca Nguyễn Đoàn Trí cùng kéo tay anh Phương lại nói: "Anh cứ ở đây, tiền thiếu này tụi em sẽ bù cho anh". Ngay lập tức, tấm vé mang tên Nguyễn Quốc Phương được xuất. Trong lúc anh Trí dẫn Phương lên cổng an ninh để đảm bảo chàng trai lên được máy bay, chị Thảo cũng kịp chạy quanh, kêu gọi các anh an ninh ở cổng, nhân viên quầy vé ủng hộ thêm cho anh Phương ít tiền làm lộ phí. Sau khi nhận vé và lên phòng chờ, anh Phương bịn rịn nói lời cám ơn nhiều lần và hỏi tên mọi người. Đêm đó, sau khi đáp xuống sân bay Nội Bài, anh đi xe khách về đến nhà vào lúc 21h30. "Tôi rất vui và xúc động khi được các anh chị ở sân bay giúp đỡ. Bố tôi đã đỡ hơn. Tôi sẽ ở nhà chăm sóc ông cho đến khi hết dịch thì sẽ vào lại Sài Gòn", anh Phương cho biết.

CUỘC CHIẾN TRANH CHÍNH NGHĨA

 

          Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta là một trong những chiến công lớn của thế kỷ XX. Đối với dân tộc ta, đây là cuộc chiến tranh chính nghĩa, một thiên anh hùng ca bất hủ của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Năm tháng trôi qua càng làm nổi bật tầm vóc lịch sử và ý nghĩa thời đại của nó.

          Nhìn cả quá trình lâu dài của cuộc chiến tranh, trước sau bọn ngụy quân, ngụy quyền miền Nam dù có mang chiêu bài quốc gia dân tộc và dù có là một lực lượng chiến lược, song vẫn chỉ là tay sai của đế quốc Mỹ. Lúc có quân Mỹ viễn chinh cũng như khi không có quân Mỹ tham chiến chúng cũng chỉ là công cụ tiến hành chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ theo chính sách “dùng người Việt đánh người Việt” mà sau này được gọi là “thay màu da trên xác chết” trong chiến lược chiến tranh cuối cùng của chúng. Vì vậy, tính chất bao trùm nhất của chúng vẫn là chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa thực dân giấu mặt, trá hình. Chúng tiến hành chiến tranh xâm lược toàn diện, coi trọng các mặt quân sự, chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa, tâm lý, xã hội nhưng biện pháp chủ yếu xuyên suốt vẫn là quân sự. Nhân dân ta phải tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng, chiến tranh nhân dân toàn dân và toàn diện, với trình độ phát triển cao chống lại và đánh thắng được cuộc chiến tranh xâm lược dã man, tàn khốc nhất của đế quốc Mỹ trong thế kỷ XX. Đặc điểm lớn của cuộc chiến tranh nhân dân này là phương pháp cách mạng và phương thức tiến hành chiến tranh của ta thống nhất làm một. Chúng ta tiến công địch bằng cả quân sự, chính trị, ngoại giao, kết hợp tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng, tiêu diệt địch giành quyền làm chủ. Từ khởi nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh cách mạng, song vẫn tiếp tục kết hợp chiến tranh cách mạng với khởi nghĩa vũ trang trong quá trình tiến hành chiến tranh; phát huy sức mạnh tổng hợp của ta, hạn chế chỗ mạnh về quân sự của Mỹ, khoét sâu chỗ yếu về chính trị ngoại giao của chúng; đánh bại từng chiến lược chiến tranh, tiến hành làm phá sản các mục tiêu quân sự, chính trị của chủ nghĩa thực dân kiểu mới của Mỹ. Bản chất của cuộc đụng đầu lịch sử này là chiến tranh chính nghĩa chống xâm lược với nội dung đấu tranh giai cấp rất quyết liệt. Đây không phải cuộc nội chiến mà về phía địch là cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ, kẻ bóc lột lớn nhất thế giới; về phía ta là một cuộc đấu tranh chính nghĩa chống xâm lược để giành và giữ vững nền độc lập dân tộc. Phải khẳng định rằng, đương đầu và đánh thắng đế quốc Mỹ và bọn tay sai ở miền Nam là một cuộc đấu tranh giai cấp cực kỳ quyết liệt. Ta nêu cao ngọn cờ độc lập tự do, ngọn cờ giải phóng dân tộc, nhưng rõ ràng đây không chỉ có vấn đề chống đế quốc Mỹ để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước mà còn là nhằm giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa hai thế lực cách mạng và thế lực phản cách mạng.

          Là một bộ phận của cuộc đấu tranh giai cấp giữa hai trận tuyến trên phạm vi thế giới, cuộc chiến giữa nhân dân ta và đế quốc Mỹ đã diễn ra gay go, quyết liệt và phức tạp đến nhường nào, nhưng thắng lợi vẫn về phía chúng ta những người cách mạng chính nghĩa./.

                                                                                                               HB: 02

 

Học viện Quân y đề nghị thi tốt nghiệp sớm để chi viện vùng dịch

Bộ Quốc phòng giao Bộ Tổng tham mưu nghiên cứu đề xuất của Học viện Quân y cho sinh viên năm cuối thi tốt nghiệp sớm nhằm chi viện vùng dịch. "Sau khi thi, lực lượng này sẵn sàng cơ động tăng cường cho Bắc Ninh, Bắc Giang, hoặc đến các địa bàn khác có Covid-19 diễn biến phức tạp", trung tướng Vũ Hải Sản, Thứ trưởng Quốc phòng, cho biết tại cuộc họp Ban chỉ đạo phòng chống Covid-19 của Quân đội ngày 1/6. Ngoài sinh viên Học viện Quân y, nhân lực từ các Học viện, nhà trường Quân y cũng sẵn sàng tăng cường tham gia phòng, chống Covid-19. Ba ngày trước, Học viện Quân y đã tổ chức lễ phát động phong trào thi đua cao điểm "Tuổi trẻ Học viện xung kích, tình nguyện tham gia phòng chống Covid-19". Trong đợt bùng phát dịch lần thứ 4 này, gần 400 cán bộ, nhân viên và học viên Học viện đã tham gia phòng chống dịch tại Bắc Ninh, Bắc Giang với nhiều hoạt động như lấy mẫu, xét nghiệm, lập bệnh viện dã chiến. Quân khu 7, 9 được giao chuẩn bị kế hoạch triển khai bệnh viện dã chiến sẵn sàng hỗ trợ các địa phương tiếp nhận bệnh nhân Covid-19 khi dịch bùng phát trên địa bàn. Các đơn vị đóng quân trên địa bàn Quân khu 1, 2, 3, Bộ tư lệnh thủ đô Hà Nội chủ động thiết lập các khu cách ly, sẵn sàng hỗ trợ cho địa phương trong tình huống dịch tăng nhanh. Các Quân khu 4, 5, 7, 9 có phương án thiết lập khu cách ly dã ngoại để ứng phó khi làn sóng nhập cảnh ồ ạt từ các nước đang có dịch. Thứ trưởng Quốc phòng yêu cầu Tổng cục Hậu cần rà soát, bổ sung các trang bị, phương tiện phòng chống dịch, sẵn sàng bảo đảm ứng phó mức độ dịch cao nhất. Theo phương châm "4 tại chỗ", các đơn vị chủ động mua sắm vật tư, phương tiện phòng chống dịch bằng nguồn kinh phí đã được phân bổ. Cục Quân y hoàn thành thủ tục mua 5 xe cơ động xét nghiệm. Các đơn vị biên phòng phía sau, quân khu có biên giới cũng phải sẵn sàng lực lượng tăng cường cho biên phòng. Riêng Bộ đội Biên phòng cần phối hợp tốt với Bộ chỉ huy quân sự các tỉnh để tham mưu cho tỉnh ủy, HĐND tỉnh và các lực lượng, hệ thống Chính trị cùng tham gia quản lý toàn tuyến biên giới, không để người nước ngoài xâm nhập bất hợp pháp vào nội địa. "Toàn quân phải thực hiện nhiệm vụ kép, ngoài thực hiện phòng, chống Covid-19 ở mức cao nhất, còn phải trực sẵn sàng chiến đấu, nắm chắc tình hình trên không, trên biển, biên giới, không gian mạng để kịp thời xử ý các tình huống, không để bị động bất ngờ", tướng Sản nhấn mạnh. Hiện, 1.045 quân nhân đã được tăng cường hỗ trợ Bắc Ninh, Bắc Giang chống dịch với 43 tổ lấy mẫu tăng cường, ba bệnh viện Truyền nhiễm hỗ trợ điều trị bệnh nhân Covid-19. Tại hai tỉnh này, quân đội thành lập 9 đội và 56 Tổ cơ động phòng chống dịch với 280 người và 65 xe cứu thương; 8 Tổ chuyên khoa tăng cường (4 tổ truyền nhiễm; 4 tổ Hồi sức cấp cứu); 51 tổ truy vết Covid-19 với 266 người từ cấp tiểu đoàn và tương đương trở lên... Ở biên giới, Bộ đội Biên phòng duy trì hơn 1.900 tổ chốt chặn với trên 12.800 người kiểm soát, ngăn chặn xuất nhập cảnh trái phép. 27 tàu và 448 cán bộ, chiến sỹ được huy động tuần tra vùng biển Tây Nam.

Giám đốc lừa bán đất biệt thự cho nhiều người

KHÁNH HÒA Ông Nguyễn Việt Hùng, 47 tuổi, bị cáo buộc lừa nhiều người mua nền đất dự án biệt thự cao cấp ở Nha Trang, chiếm đoạt hơn 25 tỷ đồng. Với sai phạm này, ông Nguyễn Việt Hùng (Giám đốc Công ty TNHH Thương mại, dịch vụ Thiên Nhân 2) bị TAND Khánh Hòa đưa ra xét xử về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, hôm 31/5, sau khi nghị án, tòa trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung nhiều vấn đề, trong đó làm rõ hành vi chiếm đoạt tiền của các nạn nhân. Theo cáo trạng, năm 2006, Công ty Thiên Nhân 2 do ông Hùng làm giám đốc được tỉnh Khánh Hòa cho thuê hơn 72.800 m2 đất tại phường Vĩnh Trường để thực hiện dự án Khu đô thị Ocean View. Trong đó, hơn 27.700 m2 đất để xây biệt thự. Trong năm này, ông Hùng không đủ tài chính thực hiện dự án, đã mang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khu thế chấp ngân hàng để vay tiền. Đồng thời, sau khi được cấp 69 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của các lô biệt thự (từ 5 giấy chứng nhận ban đầu), Hùng tiếp tục mang tới các ngân hàng khác nhau tại TP HCM để thế chấp. Từ năm 2011 đến 2015, ông Hùng bị xác định có hành vi gian dối trong việc ký hợp đồng góp vốn xây dựng nhà ở, hợp đồng chuyển nhượng đất để chiếm đoạt tiền của một số ngân hàng cùng 10 khách hàng với hơn 25,4 tỷ đồng. Đầu năm 2017, người mua đóng đủ tiền, nhưng Công ty Thiên Nhân 2 không được thực hiện thủ tục giải chấp, chuyển sổ đỏ như đã cam kết, nên gửi đơn tố cáo. Ông Hùng bỏ trốn, bị Công an Khánh Hòa ra quyết định truy nã. Gần hai năm sau, giám đốc công ty bất động sản ra đầu thú.

219 ca Covid-19 cộng đồng TP HCM trong 6 ngày

TP HCM ngày 1/6 ghi nhận 19 ca nhiễm Covid-19 cộng đồng, nâng tổng số mắc 6 ngày qua lên 219, chủ yếu liên quan ổ dịch Hội thánh Truyền giáo Phục hưng. Theo Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật TP HCM (HCDC), 20 trong số 22 quận, huyện của thành phố đã có ca bệnh, trừ quận 11 và huyện Cần Giờ. Trong ngày 1/6, các quận huyện của thành phố đã triển khai các biện pháp truy vết, khoanh vùng dập dịch, lấy mẫu xét nghiệm khẩn khi nhận thông tin ca mắc mới. Các khu vực xử lý truy vết chủ yếu tập trung nơi cư trú và nơi làm việc của các trường hợp nghi nhiễm. Ngành y tế cũng mở rộng giám sát các hộ gia đình, các khu vực xung quanh nơi người nghi nhiễm cư trú hoặc làm việc. Thành phố ghi nhận hai cụm dịch xuất hiện trong 6 ngày qua. Trong đó, cụm liên quan Hội thánh Truyền giáo Phục hưng lớn nhất từ trước đến nay, cùng cụm lây nhiễm liên quan hai vợ chồng ở quận Tân Phú. Hai cụm này đến nay đã được xác định là liên quan nhau qua "bệnh nhân 6907" làm việc tại tòa nhà quận 1, và cùng biến chủng Ấn Độ. Hiện nay thành phố ghi nhận nhiều ca nhiễm là đồng nghiệp, tiếp xúc tại nơi làm việc. Dịch bệnh cũng đã xuất hiện tại các khu công nghiệp, khu chế xuất. Theo giám đốc Sở Y tế TP HCM Nguyễn Tấn Bỉnh, một số người sinh hoạt trong hội truyền giáo cũng làm việc tại các công ty trong khu công nghiệp. Điều này cho thấy nguy cơ hiện hữu dịch lây lan từ cộng đồng dân cư vào khu công nghiệp hoặc ngược lại thông qua người lao động. Môi trường làm việc và sinh hoạt tập thể tập trung rất đông người là điều kiện thuận lợi cho dịch lây lan nhanh và mạnh ra cộng đồng. Đáng kể là sự lây nhiễm trong các tòa nhà văn phòng, thường là môi trường kín, sử dụng máy lạnh trung tâm. Ông Bỉnh nhận định, với đặc điểm biến chủng virus lây nhanh, mạnh, mức độ người dân đi lại và giao lưu, tiếp xúc trong lao động, học tập, sinh hoạt, nên nguy cơ dịch tiếp tục lây lan trong thành phố là rất cao. Dịch cũng có thể lây lan đến các tỉnh thành lân cận. Hiện, nhiều tỉnh khác đã ghi nhận các ca nhiễm, liên quan các ca cộng đồng TP HCM như Long An, Bình Dương, Trà Vinh, Đăk Lăk, Bạc Liêu, Tây Ninh... Để ứng phó đợt dịch này, thành phố đã huy động lực lượng toàn ngành y tế tham gia lấy mẫu xét nghiệm, đạt công suất trung bình 100.000 người mỗi ngày (khoảng 20.000 mẫu gộp). Xét nghiệm được triển khai tầm soát diện rộng để đánh giá nguy cơ hiện nay tại cộng đồng. Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thanh Long đánh giá ổ dịch Hội thánh Truyền giáo Phục hưng đã lây 4-5 chu kỳ, hàng chục công ty, 3 khu công nghiệp xuất hiện ca nhiễm, dự báo thêm các ổ dịch không rõ nguồn lây. Thành phố đã chuẩn bị ứng phó cho các tình hình dịch bệnh khác nhau. HCDC khuyến cáo người dân không hoang mang, thực hiện theo các khuyến cáo phòng dịch của ngành y tế. Đi khám bệnh ngay khi có dấu hiệu sốt, ho, khó thở... Trung thực trong khai báo y tế khi đi khám bệnh.