Trong mọi thời điểm, mọi hoàn cảnh, Đảng ta,
nhân dân ta không chỉ kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà còn xác
định rõ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam chính là quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội. Những nội dung quan trọng này đã được khẳng định từ trong Chương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, trong văn kiện từ Đại hội II đến Đại
hội VI và tiếp tục được khẳng định trong Cương lĩnh 1991(Đại hội
VII): "Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một
xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất thấp"(10) và “Nắm
vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt
trong quá trình cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để
thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho
độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam vẫn là hai
nhiệm vụ chiến lược có quan hệ hữu cơ với nhau”(11).
Kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và
xuất phát từ thực tiễn, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội đã được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp đúng như Nghị quyết Đại
hội VIII (1996) của Đảng nhấn mạnh: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta ngày càng được xác định rõ hơn. Xét trên tổng thể, việc hoạch định và thực
hiện đường lối đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng xã
hội chủ nghĩa”(12).
Tại Đại hội IX (2001), Đảng tiếp tục khẳng
định: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường
xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh”(13) và "con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng
tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản
chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại"(14). Cùng với đó, Báo cáo chính trị
tại Đại hội cũng khẳng định nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn, với 8 đặc trưng cơ
bản; đồng thời, nhấn mạnh bài học số một là: Trong quá trình đổi mới, phải kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tiếp đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm
2011) tại Đại hội XI của Đảng (Cương lĩnh 2011) đã nêu những nội dung cơ bản
của con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; bổ sung, phát triển những
đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng với 8 đặc trưng
cơ bản, 8 phương hướng cơ bản và những mối quan hệ lớn cần phải nắm vững và
giải quyết tốt trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều đó
cũng khẳng định rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm vững chắc cho độc lập
dân tộc và là hai mặt không thể tách rời của con đường phát triển đất nước,
hướng tới mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Như vậy, có thể thấy “đi lên chủ nghĩa xã hội
là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”(15) và
trong hơn 9 thập niên lãnh đạo cách mạng Việt Nam, dù trong hoàn cảnh khó khăn,
thử thách nào, Đảng ta vẫn luôn kiên định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Lý luận và thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đều khẳng định con đường duy
nhất đúng để đất nước phát triển bền vững là độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Việc Đảng quyết định đưa miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội và cả
nước đồng thời thực hiện 2 chiến lược cách mạng ở hai miền; quyết định đưa cả
nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội sau khi nước nhà thống nhất; tiến hành sự
nghiệp đổi mới và tiếp tục kiên định hành trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong
hơn 35 qua… chính là sự lựa chọn kiên quyết và đúng đắn, kiên định và sáng tạo
của Đảng dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh. Thế giới có thể đổi thay, song con
đường đó là phù hợp quy luật, đúng như Đảng khẳng định tại Đại hội XII (2016):
“Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của
Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”(16).
Vì thế, từ lý luận và thực tiễn xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng Bí thư đã khẳng định trong bài viết của mình
rằng, "lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường lên
chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực
hóa". Hơn nữa, thực tiễn đi lên chủ nghĩa xã hội cho thấy, việc xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là hình thức tối ưu để thực hiện quyền lực
của nhân dân. Việc phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, để văn
hóa trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc
được chú trọng… chính là thành tựu về lý luận của Đảng, là kết quả sự tổng kết
thực tiễn và tiếp thu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh cũng như những thành tựu của về văn hóa của nhân loại…
Đồng thời, việc "đưa ra quan niệm phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất
cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng". Bởi,
thực tiễn công cuộc đổi mới cho thấy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế
với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách, trong suốt quá trình phát
triển và đó chính là/được coi là công cụ, phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã
hội, xây dựng mô hình kinh tế tổng quát ở Việt Nam... Vì thế, những luận điểm
của Tổng Bí thư nêu ra trong bài viết là khoa học, thuyết phục, không chủ quan,
duy ý chí; là minh chứng sắc bén bác bỏ sự xuyên tạc, xảo trá của các đối tượng
cơ hội, phản động, thù địch…
Hơn nữa, trong bài viết của mình, Tổng Bí thư
đã không chỉ trả lời rất rõ, lập luận sắc sảo về những nội dung đã nêu ra mà
còn khẳng định rõ: Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu
dài, vô cùng khó khăn và phức tạp. Việc đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước
nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất
thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực
thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại, cho nên lại càng khó khăn, phức tạp;
cho nên nhất thiết phải trải qua một thời kỳ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều
hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và
cái mới… Đây chính là gắn lý luận với thực tiễn, không hề mơ hồ, càng
không ảo tưởng như các luận điệu thù địch xuyên tạc.
Tổng Bí thư xác định: "Chúng ta cần một
xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi
nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển
về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng
khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân
ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ
không phải cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt cá bé" vì lợi ích vị kỷ
của một số ít cá nhân và các phe nhóm"; "xã hội xã hội chủ nghĩa là
xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung
của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất
so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và
phe nhóm"; "Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát
triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của công cuộc đổi mới”… Đây chính là sự cụ thể hóa Cương lĩnh 1991,
Cương lĩnh 2011, Nghị quyết các kỳ Đại hội; thể hiện rõ tính nhân văn của
chủ nghĩa xã hội; là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội; là mục tiêu,
là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và
đang kiên định, kiên trì theo đuổi, dù thế giới có đổi thay!
Bên cạnh đó, trong bài viết, Tổng Bí thư khẳng
định những thành tựu của chủ nghĩa tư bản là không thể phủ nhận: “Chủ nghĩa tư
bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đạt được nhiều thành
tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát
triển khoa học - công nghệ”… Tuy nhiên, khi quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Việt
Nam bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa (chỉ bỏ qua những mặt hạn chế của chủ nghĩa
tư bản như áp bức, bất công, bóc lột...), song không bỏ qua những thành tựu,
giá trị văn minh mà nhân loại đạt được trong thời kỳ phát triển tư bản chủ
nghĩa.
Cuối bài viết, Tổng Bí thư cũng đã chỉ ra
những hạn chế cần phải khắc phục như: Về kinh tế, chất lượng tăng
trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu bền vững… Về xã hội, khoảng
cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ
công ích khác còn không ít hạn chế; văn hóa, đạo đức xã hội có mặt xuống
cấp… Về xây dựng và chỉnh đốn Đảng: tình trạng tham nhũng, lãng
phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống vẫn diễn ra trong một
bộ phận cán bộ, đảng viên... Trong khi đó, các thế lực xấu, thù địch lại
luôn tìm mọi thủ đoạn để can thiệp, chống phá, gây mất ổn định, thực hiện âm
mưu "diễn biến hòa bình" nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam…
Vì thế, việc Tổng Bí thư khẳng định: "Độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của
cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh"; đồng thời, kết luận rằng vai trò lãnh đạo và cầm quyền của
Đảng; sự kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; sự đồng lòng, đoàn kết của nhân dân chính là
nguồn sức mạnh sâu xa, cội nguồn của thắng lợi và sự phát triển… chắc chắn
không phải là "sự hoang tưởng", lại càng không phải là "cái bánh
vẽ của Đảng Cộng sản Việt Nam" như các thế lực thù địch bôi nhọ, phủ nhận.
Lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam
đều cho thấy, bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam rất rõ ràng và chặt chẽ; phản ánh
đúng lý luận, thực tiễn và cả những vấn đề đặt ra cần phải tiếp tục giải quyết.
Bài viết không chỉ thể hiện tầm nhìn xa, tư duy sắc sảo mà còn cho thấy bản
lĩnh chính trị của người đứng đầu Đảng trước những đổi thay của tình hình trong
nước và quốc tế, góp phần giúp mỗi cấp ủy, mỗi tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng
viên và người dân nhận thức sâu sắc hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội - đi
đến tương lai tươi sáng của dân tộc để không dao động, không ngả nghiêng trước
các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch; đồng thời, nêu cao tinh thần
tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn, kiên định và làm tròn trách
nhiệm của mình cao hơn nhằm khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trở thành nước
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045 như Nghị quyết Đại hội
XIII đã nêu ra./.
-------------------------------
(1) (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị
quốc gia- Sự thật, Hà Nội, 2011, t.13, tr.30, 438.
(2) (5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị
quốc gia- Sự thật, Hà Nội, 2011, t.1, tr.404, 496,
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc
gia- Sự thật, Hà Nội, 2011, t.12, tr.415.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.9, tr.30.
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.2, tr.304.
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t.3, tr.1.
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc
gia- Sự thật, Hà Nội, 2011, t.11, tr.91-92.
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng
toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t.51, tr.133.
(11) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng
toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, t.51, tr.129-130
(12) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.68
(13) (14) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001,
tr.83, 70.
(15) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011,
tr.70.
(16)
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Chính
trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.167.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét