Thứ Tư, 3 tháng 5, 2023

XEM BỘ ĐỘI ĐẶC CÔNG HUẤN LUYỆN

 Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Trung đoàn Đặc công 113 (nay là Lữ đoàn Đặc công 113, Binh chủng Đặc công) chiến đấu xuất quỷ nhập thần, lập nhiều chiến công vang danh sử sách.

Giai đoạn hiện nay, cùng với nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, Lữ đoàn Đặc công 113 còn triển khai phương án ứng phó với các tình huống an ninh phi truyền thống. Để có được những chiến đấu viên đặc biệt tinh nhuệ, đơn vị đã triển khai phương pháp huấn luyện đặc biệt, kết hợp truyền thụ những bài học từ lịch sử và kinh nghiệm trong chiến đấu.
Tác chiến đặc biệt
Đúng 8 giờ, tôi có mặt tại phòng khách Sở chỉ huy Lữ đoàn Đặc công 113 như đã hẹn. Thượng tá Nguyễn Quang Hòa, Lữ đoàn trưởng niềm nở tiếp chúng tôi. Anh có phom người khá chuẩn so với tuổi gần 50. Cuộc trò chuyện của chúng tôi bắt đầu bên cốc trà nóng. Ngoài trời, mưa bụi bay lất phất và thỉnh thoảng vọng về tiếng hô “đánh”, “diệt” của các lực lượng đang huấn luyện ngoài sân vận động. Anh Hòa cho biết, nhiều năm nay, do yêu cầu nhiệm vụ thay đổi nên ngoài huấn luyện kỹ, chiến thuật đặc công thì Lữ đoàn tập trung khá nhiều thời gian huấn luyện chống khủng bố, giải thoát con tin và thực hiện một số nhiệm vụ đặc biệt.
Theo anh Hòa, những nhiệm vụ ấy có tính chất và yêu cầu khác so với tác chiến truyền thống. Thực tế, để có một chiến đấu viên đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ phải tổ chức huấn luyện rất nhiều thời gian, công phu, tỉ mỉ đến từng chi tiết, từng hành động. Từ việc rèn thể lực, di chuyển, vận động cho đến sử dụng thuần thục các loại vũ khí, võ thuật... ở các loại địa hình, thời tiết, nhất là trong điều kiện đêm tối. Đặc biệt, công tác hiệp đồng phải công phu, kỹ lưỡng, chính xác đến từng giây. Thế nên, cường độ huấn luyện với chiến đấu viên của đơn vị là rất cao.
Thượng tá Nguyễn Quang Hòa đã gắn bó với Lữ đoàn Đặc công 113 hơn 20 năm trong tổng thời gian gần 30 năm tại ngũ. Anh từng trải qua rất nhiều vị trí công tác, từ chiến sĩ rồi mũi trưởng... cho đến vị trí đang đảm nhận. Anh chia sẻ, trong tác chiến khu vực phòng thủ, đặc công có nhiệm vụ đặc thù so với bộ binh và các lực lượng khác... Các anh không chỉ có nhiệm vụ bí mật đánh phá mục tiêu quan trọng, hiểm yếu phía sau lưng địch mà còn đánh trận then chốt, mở màn trong các chiến dịch lớn. Thế nên, bài học đầu tiên với Bộ đội Đặc công không phải là võ thuật, chiến thuật mà là trách nhiệm chính trị, sẵn sàng đối mặt với thách thức, hiểm nguy, thậm chí cả sự hy sinh trong điều kiện độc lập tác chiến, nhưng vẫn luôn bình tĩnh, tỉnh táo để có phương án hành động mau lẹ, tối ưu.
Phải đặc biệt tinh nhuệ cả về bản lĩnh chính trị
Gần 10 giờ, tôi cùng Thiếu tá Bùi Tiến Dũng, Liên đội trưởng Liên đội 27 có mặt tại thao trường, xem mũi đặc công của Đội 1 luyện tập đội ngũ chiến thuật đề mục "Mũi đặc công tập kích bí mật địch phòng ngự". Tôi hỏi, sao nhiều cờ trắng thế. Anh Dũng bảo, đó là trận địa của địch. Mỗi chiếc cờ có các ký hiệu màu xanh với những hình vẽ khác nhau. Có cờ tượng trưng cho tên lửa chống tăng, cối và nhiều ổ hỏa lực khác. Có cờ ở giữa tượng trưng cho trung tâm chỉ huy, hầm ngủ... Nhiệm vụ của mũi đặc công là phải bí mật tiếp cận và tiêu diệt các mục tiêu theo nhiệm vụ trong khoảng thời gian ngắn nhất.
- Mũi trưởng bố trí lực lượng thế nào, ưu tiên đánh hướng nào trước? Tôi chẳng thấy họ đâu cả?
Anh Dũng nhìn tôi cười và nói, đây là bí mật, không thể nói được. Rồi anh nói tiếp: "Anh cứ chờ đi, nhanh thôi".
Tôi kiễng chân, nghển cổ căng mắt quan sát xung quanh để tìm bóng dáng bộ dã chiến nhưng chỉ thấy mưa bụi lất phất trong gió và những lùm cây đặc trưng vùng đồi trung du. Bỗng tôi nghe âm thanh tạo giả mô phỏng tiếng thủ pháo, tiếng lựu đạn và cả tiếng tiểu liên rộ từng tràng. Rồi vài bóng người lao nhanh, thoắt ẩn thoắt hiện trên trận địa. Tiếng nổ vang lên theo bước chạy của họ rồi tan vào gió. Chưa đầy 10 phút sau, âm thanh tạo giả mất hẳn. Thao trường im lặng, vắng vẻ như lúc ban đầu. Anh Dũng bảo tôi, chỉ khi chứng kiến diễn tập tổng hợp thì mới thấy tính chất quyết liệt, thiện chiến, tinh nhuệ của Bộ đội Đặc công. Lúc ấy, sẽ có nhiều bất ngờ vì đó là một trận đánh gay cấn giữa quân xanh và quân đỏ. Rất nhiều tình huống diễn ra.
Lúc này, Đại úy Nguyễn Văn Đức, Đội trưởng Đội 1 xuất hiện. Thiếu tá Bùi Tiến Dũng mời chúng tôi về liên đội bởi đơn vị đã chuyển sang nội dung huấn luyện khác. Liên đội trưởng Dũng kéo chúng tôi vào nhà chòi gần nhà chỉ huy liên đội. Ngồi chưa ấm chỗ, anh Dũng đã lấy tờ giấy trong cuốn sổ ra và vẽ lên đó mặt bằng một chiếc cầu. Anh hỏi Đội trưởng Đức: Ngay sau khi chiếm được cầu, trên yêu cầu đại đội tổ chức chốt giữ, bảo vệ. Đội trưởng triển khai thế nào?
Sau một lát suy tính, anh Đức trình bày kế hoạch sơ lược khá mạch lạc và hấp dẫn. Tôi cũng chụm đầu với hai anh trên mảnh giấy, chăm chú nhìn những hình vẽ tượng trưng cách bố trí lực lượng. Cùng với đó, hai anh thảo luận cách xử trí một số tình huống.
Bỗng chúng tôi nghe có tiếng người từ sau lưng. Quay lại, tôi thấy Thượng tá Nguyễn Quang Hòa đứng đó từ bao giờ. Nhìn tờ giấy trên bàn với những hình vẽ mô phỏng, anh cười rồi góp vào câu chuyện dở dang của chúng tôi. Anh nói: "Ai cũng nghĩ đặc công chỉ đánh lướt, tiêu diệt mục tiêu trọng yếu, chiếm được mục tiêu thì bàn giao cho đơn vị bạn và rút. Nhưng kỳ thực, trong chiến tranh, đã có những trường hợp đặc công của Lữ đoàn phải chốt giữ, bảo vệ mục tiêu nhiều ngày, vô cùng ác liệt. Thế nên hiện nay trong huấn luyện, chúng tôi luôn tập luyện nhiều phương án chiến đấu chốt giữ, bảo vệ mục tiêu, làm cơ sở cho bộ đội chuẩn bị tâm lý, kỹ thuật, chiến thuật để thực hiện tốt nhiệm vụ khi có tình huống xảy ra".
Hướng mặt về phía những hạt mưa đan chéo trong không gian, anh Hòa cho biết: "Qua nghe nhiều cựu chiến binh về thăm đơn vị kể lại, chúng tôi thu được những bài học kinh nghiệm rất quý báu trong tổ chức chiến đấu. Ví như câu chuyện về Tiểu đoàn 23 của Trung đoàn Đặc công 113 phối hợp với 2 đại đội pháo phản lực ĐKB của Tiểu đoàn 174 vừa đánh chiếm, vừa chốt giữ, bảo vệ cầu Ghềnh (Biên Hòa, Đồng Nai) trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử tháng 4-1975".
Chuyện là, theo kế hoạch tác chiến trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Tiểu đoàn 23 của Trung đoàn Đặc công 113 sẽ phối hợp với Tiểu đoàn Pháo binh 174 đánh chiếm, chốt giữ, bảo vệ cầu Hóa An và cầu Ghềnh, bảo đảm cho lực lượng của Quân đoàn 4 cơ động vào nội đô Sài Gòn. Sáng sớm 27-4-1975, Tiểu đoàn 23 nổ súng, tấn công lực lượng bảo vệ cầu, sau 30 phút đã tiêu diệt và kiểm soát được mục tiêu và nhanh chóng xây dựng các chốt, sẵn sàng bảo vệ cầu. Gần 9 giờ, địch pháo kích dữ dội, sau đó cho bộ binh tấn công chiếm lại cầu, nhưng bị bẻ gãy. Sáng 28-4, sau khi pháo kích, địch cho trực thăng tới bắn phá, sau cùng là các đợt tấn công bằng bộ binh, xe tăng có máy bay trinh sát L-19 chỉ đường. Đến chiều cùng ngày, địch chiếm lại cầu. Tối 28-4, Tiểu đoàn 23 và Tiểu đoàn 174 phản công chiếm lại cầu. Hai bên giằng co quyết liệt từng mét mặt cầu. Mãi đến nửa đêm 29-4, Tiểu đoàn 23 mới chiếm được toàn bộ cầu và bảo vệ thành công để 11 giờ ngày 30-4, lực lượng của Quân đoàn 4 và xe tăng cơ động vào nội đô Sài Gòn. Trong trận đánh chiếm và giữ cầu Ghềnh, riêng Tiểu đoàn 23 đã có hơn 40 cán bộ, chiến sĩ hy sinh.
Cuối câu chuyện, Thượng tá Nguyễn Quang Hòa tâm tình, có lẽ trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, đánh chiếm, chốt giữ, bảo vệ cầu Ghềnh là một trong những trận chiến khốc liệt và ta bị tổn thất nhiều. Lặng đi giây lát, anh nói tiếp với giọng trầm xuống: "Mỗi năm đến dịp kỷ niệm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cán bộ, chiến sĩ Lữ đoàn Đặc công 113 luôn tổ chức nhiều hoạt động tưởng nhớ, tri ân đồng đội đã hy sinh, qua đó hun đúc tinh thần sẵn sàng hy sinh và quyết thắng cho thế hệ cán bộ, chiến sĩ hôm nay".
Qua câu chuyện lịch sử và công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu hôm nay, tôi nhận ra, Lữ đoàn Đặc công 113 không chỉ là lực lượng đặc biệt tinh nhuệ trong chiến đấu. Với tôi, họ còn đặc biệt tinh nhuệ cả về bản lĩnh chính trị và ý chí quyết chiến, quyết thắng. Sự tinh xảo của họ thật đúng với ý nghĩa của câu thành ngữ “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”./.
ST


Hội chứng chỉ trích, chê bai trên mạng xã hội

Chỉ trích, chê bai mà thiếu căn cứ tìm hiểu, thậm chí với cả những người, sự việc chưa từng gặp, tham gia rất gần với thóa mạ, xúc phạm, trong một số trường hợp còn có thể bị coi là vi phạm pháp luật. Đó không đơn thuần là hành động, thói quen xấu, mà ở mức độ nhất định còn phản ánh một tư duy, lối sống tiêu cực, thiếu văn minh trong đời sống.

Bởi khi xuất hiện quá nhiều sự chê bai, chỉ trích như vậy sẽ khiến cho xã hội mất đi nguồn năng lượng tích cực, ảnh hưởng tiêu cực tới động lực làm việc, sáng tạo, cũng như khiến giảm sút niềm tin vào cuộc sống. Do đó trước thói quen thích chê bai của không ít người thậm chí có chiều hướng lây lan, gia tăng như hiện nay, nhất là trên mạng xã hội rất cần có những giải pháp chấn chỉnh, điều chỉnh kịp thời.

Không ai có thể phủ nhận tính hữu dụng của mạng xã hội nếu người sử dụng biết khai thác để phục vụ cho nhu cầu học hỏi, kết nối, lan tỏa những giá trị tốt đẹp. Tuy nhiên thực tế đang có một bộ phận không nhỏ người Việt sử dụng mạng xã hội chỉ để thể hiện những khía cạnh thiếu văn minh, thiếu hiểu biết, làm cho môi trường mạng trở nên tiêu cực, xấu xí, gây tổn thương cho người khác. Đáng lo ngại là tình trạng thích chỉ trích, chê bai đang nguy cơ trở thành một thói quen phổ biến trong các hội nhóm mạng xã hội và ngày càng có khả năng lan rộng, trầm trọng hơn về mức độ và quy mô. Mới đây nhất có thể kể đến câu chuyện chê bai show diễn của một nam nghệ sĩ tại Ninh Bình. Việc một số khán giả chuyển nhượng lại vé đã mua nhưng hiện không còn nhu cầu của show diễn vốn là bình thường theo quy luật thị trường nhưng lại bị một số hội nhóm trên mạng đẩy lên thành cao trào, đưa ra những nghi vấn về khâu tổ chức, về chất lượng đêm diễn. Đáng buồn thay không chỉ các hội nhóm trên mạng mà thậm chí có một vài trang báo mạng cũng "hùa" theo chê bai, nghi vấn, cho đăng tải các bài viết với dụng ý nghi hoặc, soi mói bất lợi cho show diễn của nghệ sĩ. Trong khi thực tế đêm diễn đã thu hút được sự quan tâm rất lớn của khán giả, và được nhiều người đánh giá cao.

Bất kỳ ai sử dụng mạng xã hội đều không lạ lẫm khi bắt gặp các hội nhóm "Anti" (chống lại, phản đối) xuất hiện nhan nhản trên mạng. Có thể thấy bản chất của không ít các hội nhóm như vậy là để bóc phốt, nói xấu, khui những chuyện đời tư của một tổ chức hay cá nhân. Đôi khi đối tượng bị chê bai còn là các nhãn hàng, hoặc sản phẩm văn hóa (như bộ phim, cuốn sách, chương trình nghệ thuật...) đang được dư luận quan tâm. Tuy nhiên thay vì đưa ra những nhận xét, đánh giá thấu đáo, công tâm, một số hội nhóm "Anti" thực chất là nơi để các "anh hùng bàn phím" trút vào đó những điều không ưng ý, không hài lòng về một đối tượng mà họ thấy... ghét.

Những "cuộc chiến chê bai" trên mạng ảo đã gây không ít hệ lụy trong đời thực. Như trong lĩnh vực điện ảnh, thời gian vừa qua có hiện tượng phim Việt bị "chết" ngay sau khi ra rạp, ngoài lý do chủ quan và khách quan như chất lượng chưa đồng đều, suất chiếu không phù hợp, còn một lý do không kém phần quan trọng đến từ việc trước đó bị khán giả dập vùi chê bai không thương tiếc. Cụ thể, một số khán giả thiếu thiện chí khi xem phim, bắt lỗi những điểm không hài lòng, thay vì góp ý mang tính xây dựng, họ dùng từ ngữ nặng nề "kết án" bộ phim trên mạng xã hội, rồi những người khác dù chưa xem phim cũng hùa theo, tạo thành một hội chứng đám đông, mặc nhiên phủ nhận công sức sáng tạo của các nghệ sĩ, nhà sản xuất. Những yếu tố đó cộng lại khiến cho một vài bộ phim phải tức tưởi chịu cảnh rời rạp chiếu sớm, chấp nhận thua lỗ.

Chứng kiến những sự việc đáng buồn ấy, nhiều người không khỏi lo lắng bởi, dường như ý thức, tinh thần trân trọng, cổ vũ các sáng tạo, cái mới để qua đó khích lệ, nâng niu khuyến khích, sử dụng các giá trị lao động của các cá nhân trong xã hội đang nguy cơ giảm sút trong lối sống, cách suy nghĩ ở không ít người Việt trẻ đang ngày đêm lướt bàn phím thể hiện "quyền lực" của mình. Đặc biệt, ở lĩnh vực văn hóa, trong khi Nhà nước ta đang cố gắng tạo mọi điều kiện để bảo vệ, phát huy, khuếch trương các sản phẩm văn hóa nội địa, nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm văn hóa Việt ở trong nước cũng như trên trường quốc tế thì thói quen thích chỉ trích, chê bai này đang nguy cơ gây ra những ảnh hưởng không nhỏ. Thành công trong phát triển công nghiệp văn hóa, tại một số quốc gia đã chỉ ra rằng, bên cạnh sự nỗ lực của đội ngũ sáng tạo giá trị văn hóa, cơ chế, chính sách, hành lang pháp lý thuận lợi thì còn có vai trò rất lớn đó là sự động viên, khích lệ của công chúng trong nước, những người luôn sẵn sàng tiêu thụ, cổ vũ, trân trọng các sản phẩm của văn hóa dân tộc mình.

Đáng buồn là trong một số vụ việc xảy ra thời gian qua, người sử dụng mạng xã hội đã đi quá xa, để lại những hậu quả hết sức nặng nề. Thói quen hùa nhau chỉ trích, chê bai mà không cần suy xét, không cần chứng cứ là một tính xấu thể hiện sự kém văn minh của người sử dụng mạng. Tiện ích của mạng xã hội đã được chứng minh, nhưng cũng chính mạng xã hội đang là mảnh đất phơi bày nhiều lỗ hổng trong văn hóa của một bộ phận không nhỏ người sử dụng. Đã đến lúc cần quyết liệt phê phán, thậm chí có hình thức xử lý nghiêm việc một số bạn trẻ lên mạng xã hội tham gia vào các nhóm "Anti", cho mình quyền được chửi bới, thóa mạ bất cứ điều gì mình "chướng tai gai mắt" thay vì chỉ góp ý, nhắc nhở rồi cho qua. Mạng xã hội cũng như ngoài đời, khi những lời chê bai, nói xấu xuất hiện thường xuyên sẽ làm cho môi trường sống bị vẩn đục, ảm đạm, tiêu cực, ảnh hưởng đến tâm trạng và lối sống của những người chung quanh.

Cũng không nên đánh đồng việc chê bai, thóa mạ với việc "đánh giá" hay "phê bình" để rồi xuề xòa cho đó là chuyện nhỏ, là bình thường. Vì đánh giá hay phê bình đều phải dựa trên những cơ sở mang tính khách quan, khoa học, thông qua việc sử dụng ngôn ngữ chừng mực, thuyết phục, giúp cho đối tượng nhận diện vấn đề rõ ràng hơn. Người ta sử dụng cụm từ "văn hóa phê bình" là vì vậy. Còn chê bai, thóa mạ, công kích, là hành vi phản văn hóa, bởi nó không dựa trên tính khách quan khoa học, tệ hơn nữa, nó còn ẩn dưới đó những dụng ý xấu, và cái tâm không trong sáng của người phát ngôn. Trong một số trường hợp nó thậm chí trở thành "thuốc độc", có thể lấy đi danh dự, thậm chí mạng sống của người bị chê bai. Đó là loại vũ khí vô hình nhưng mang tính sát thương cao, không hề có tác dụng xây dựng cho môi trường đời sống trở nên tốt đẹp, có ích hơn. Theo số liệu khảo sát của Microsoft mới nhất, Việt Nam đứng tốp 5/25 quốc gia có hành vi ứng xử không văn minh trên môi trường internet. Con số đáng buồn này rất đáng để những người có trách nhiệm và những "cư dân mạng" suy ngẫm để có những biện pháp điều chỉnh kịp thời.

Trong thời đại số, đời sống của thế hệ trẻ gắn bó ngày càng chặt chẽ với môi trường internet. Đang dần hình thành những thế hệ lớn lên, trưởng thành từ mạng xã hội. Những tiếp xúc của một người mỗi ngày trong đời thường đôi khi còn ít hơn cả tiếp xúc trên mạng xã hội. Ở chiều ngược lại, cách sống, cách cư xử của một người trong đời thường đang chịu tác động mạnh mẽ từ môi trường mạng. Do vậy, rất cần đặt vấn đề nghiêm túc và sâu sắc về việc xây dựng văn hóa ứng xử trên mạng xã hội cho người sử dụng, đặc biệt là lớp trẻ. Vấn đề này không thể tách rời vấn đề xây dựng văn hóa con người trong thời đại mới. Bởi một lớp người trẻ biết ứng xử có văn hóa trên mạng có thể giúp ích rất nhiều trong lan tỏa các giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc mình, biết trân trọng những sáng tạo của người khác, biết lắng nghe và chia sẻ. Khi tham gia các diễn đàn sẽ biết phân định đúng sai, biết dùng kiến thức và khả năng phân tích để đánh giá con người, sự việc, không bị cuốn theo đám đông, không hùa vào nói xấu, lăng mạ một ai đó khi chưa có cơ sở thuyết phục. Lớp người trẻ có văn hóa sử dụng mạng xã hội sẽ tạo ra những nguồn năng lượng tích cực, giúp cho bạn bè thế giới yêu mến Việt Nam hơn, và góp phần hiệu quả để mang văn hóa Việt ra thế giới.

Việc chê bai, chửi bới, thóa mạ đến mức vi phạm pháp luật chắc chắn sẽ bị xử lý theo quy định. Nhưng xét đến cùng, mọi quy định mang tính bắt buộc chỉ là công cụ cảnh báo hoặc răn đe, quan trọng nhất vẫn là ý thức cá nhân của mỗi người khi tham gia sử dụng mạng xã hội. Gia đình và nhà trường cần phải không ngừng giáo dục thế hệ trẻ trong việc ứng xử văn hóa khi là một "công dân mạng". Theo đó, chính người lớn phải là tấm gương trong việc nhận xét, bình phẩm, đánh giá một ai đó, và có thái độ rõ ràng với con em mình khi tham gia vào các hội nhóm trên mạng. Mỗi một người phải tự nhận thức về sự nguy hại của hội chứng đám đông, nhân danh đám đông để ném đá, bôi xấu, hạ nhục, làm tổn hại dù đó là một cá nhân hay một tổ chức. Phải khách quan, trung thực, đặt mình vào vị trí của người khác trước khi phát ngôn, bình luận. Đó là cách giúp mỗi cá nhân tự nâng cao tinh thần trách nhiệm khi tham gia mạng xã hội, góp phần làm cho môi trường sống ngày càng trở nên lành mạnh, văn minh hơn./.

 

Ý nghĩa và tầm quan trọng của mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân

Mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân luôn là nguồn sức mạnh to lớn, làm nên những thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được đáng ghi nhận, thời gian qua việc tăng cường mối quan hệ này vẫn còn bộc lộ một số hạn chế nhất định. Chính vì vậy, Đại hội XIII của Đảng đã đề ra những nhiệm vụ, giải pháp củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn phát triển mới.

Thứ nhất, là nhân tố quyết định sức mạnh của Đảng và thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”; “có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”.

Trong mọi giai đoạn lịch sử của cách mạng Việt Nam, Đảng ta đều gắn bó mật thiết với nhân dân, luôn lấy lợi ích của nhân dân làm nền tảng cho những quyết sách, đường lối của mình; đồng hành, chia sẻ cùng nhân dân và vận động, động viên nhân dân trong quá trình thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng. Chính thông qua mối quan hệ mật thiết với nhân dân mà Đảng phát huy được vai trò, trách nhiệm của nhân dân trong công tác xây dựng Đảng, chính quyền, đặc biệt là trong việc kiểm tra, giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên; đồng thời, tập hợp, phát huy được sức mạnh, trí tuệ và lực lượng to lớn của nhân dân, tiếp thu những đột phá, sáng tạo trong nhân dân để tiếp tục quá trình đổi mới có hiệu quả hơn.

 Thứ hai, là nhân tố bảo đảm cho các phong trào cách mạng của nhân dân phát triển mạnh mẽ, phát huy tốt nhất sức mạnh và quyền làm chủ của nhân dân.

Tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân là để Đảng lãnh đạo, định hướng các phong trào cách mạng của nhân dân một cách hiệu quả. Các phong trào cách mạng của nhân dân chỉ phát triển đúng hướng khi đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhân dân ta có truyền thống yêu nước, kiên cường, bất khuất, cần cù, chịu khó, đoàn kết, đồng cam cộng khổ. Đây là những nhân tố quan trọng để cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đi đến thắng lợi trong các cuộc chiến tranh đầy hy sinh, gian khổ. Thông qua mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, nhân dân được tập hợp, được tổ chức trong những tổ chức cách mạng, nhờ đó mà sức mạnh của nhân dân lại được phát huy, nhân lên gấp bội.

Thứ ba, góp phần quyết định tính đúng đắn của chủ trương, đường lối của Đảng trong phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế sâu rộng.

Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội trước hết bằng cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách và lãnh đạo, tổ chức thực hiện thông qua các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Một mặt, chủ trương, đường lối của Đảng muốn “đi vào” cuộc sống một cách thuận lợi thì phải lấy lợi ích của nhân dân làm cơ sở và phải bám sát với thực tế cuộc sống; quá trình thực hiện phải vận động được sự tham gia tích cực và ủng hộ nhiệt tình của nhân dân; mặt khác, thông qua cương lĩnh, đường lối của Đảng để thu hút, tập hợp lực lượng nhân dân đi theo Đảng. Thông qua mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân mà nhân dân phản ánh, góp ý, phản biện đường lối, chủ trương, chính sách cho Đảng, Nhà nước; thông qua ý kiến của nhân dân mà Đảng chắt lọc, chọn lọc thông tin để đề ra, hoàn thiện, điều chỉnh chủ trương, đường lối cho phù hợp. Đó là con đường và quá trình hoàn thiện cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách của một đảng cộng sản cầm quyền chân chính.

Thứ tư, là điều kiện bảo đảm cho công tác tuyên truyền, thuyết phục của Đảng đạt hiệu quả cao nhất.

Hiệu quả công tác tuyên truyền phụ thuộc rất lớn vào mối quan hệ gắn bó, sự hiểu biết, tin tưởng giữa chủ thể tuyên truyền và đối tượng tuyên truyền. Đối tượng tuyên truyền là nhân dân khi đã tin vào Đảng, gắn bó mật thiết với Đảng, thì mọi thông tin tuyên truyền sẽ đến với nhân dân một cách nhanh chóng, đầy đủ hơn. Ngược lại, nếu mối quan hệ giữa chủ thể tuyên truyền và đối tượng tuyên truyền không gắn bó chặt chẽ, thiếu sự tin cậy, nếu cán bộ, đảng viên chỉ tuyên truyền lý thuyết suông, giáo điều, tuyên truyền một chiều, nói không đi đôi với làm, không tiên phong, gương mẫu... thì dù có cố gắng bao nhiêu, nhân dân cũng không tin theo.

Thứ năm, góp phần nâng cao vai trò, uy tín và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Thông qua mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, đội ngũ cán bộ, đảng viên thể hiện vị trí, vai trò, trách nhiệm trước nhân dân, sẵn sàng để nhân dân đánh giá, kiểm tra, giám sát, góp ý; từ đó, tiến hành sàng lọc đảng viên, để nhân dân giới thiệu cho Đảng những nhân tố mới, tiêu biểu. Bên cạnh đó, thông qua mối quan hệ mật thiết với nhân dân để Đảng phát huy vai trò, trách nhiệm của nhân dân trong công tác xây dựng Đảng, chính quyền, góp phần làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Thứ sáu, tăng cường hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.

Thông qua mối quan hệ mật thiết với nhân dân để Đảng nắm thông tin về đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tổ chức đảng trong việc chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nắm rõ phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, để có thể phát hiện những tiêu cực, tham nhũng trong bộ máy công quyền. Trong thực tế hiện nay, hơn 70% các vụ việc tiêu cực, tham nhũng được phát hiện là do báo chí và người dân cung cấp thông tin. Điều đó cho thấy, nếu Đảng, chính quyền thực sự dựa vào nhân dân, tin nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân thì cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực sẽ đạt được kết quả cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Với Đảng, “Nếu không có nhân dân giúp sức, thì Đảng không làm được việc gì hết”. Bởi vậy, “một giây, một phút cũng không thể giảm bớt mối liên hệ giữa ta và dân chúng”.

Thứ bảy, là cơ sở để phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.

Thông qua mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân để nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, để các tổ chức này thể hiện được vai trò, trách nhiệm và sự tín nhiệm của mình trước nhân dân; đồng thời, để nhân dân thể hiện được ý chí, chính kiến của mình, thể hiện được quyền làm chủ và vai trò giám sát, phản biện chính sách của mình trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc./.

"CHỈ SỢ LÒNG DÂN KHÔNG YÊN"

 Trong di sản Hồ Chí Minh có những từ “sợ”, “lòng dạ”, “lòng dân”, “lương tâm”, “chính tâm”, “niềm tin”. Đáng chú ý nhất khi Người nói “chỉ sợ lòng dân không yên”.

Có mấy trường hợp điển hình Bác nói đến những cụm từ trên. Thứ nhất, chuyện kể rằng sau Cách mạng Tháng Tám thành công, có cán bộ cao cấp hỏi Bác: “Thưa Bác, cách mạng thành công rồi, chính quyền về tay nhân dân, Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, Bác có điều gì sợ không ạ?” Bác trầm ngâm suy nghĩ một lát rồi trả lời: “Bác vẫn còn một điều sợ, đó là sợ các chú làm bậy, ảnh hưởng đến uy tín của Chính phủ, dẫn đến mất lòng tin của nhân dân”.
Đối chiếu câu chuyện ở trên với những bài viết, bài nói của Bác ngay sau Cách mạng Tháng thành công nhận thấy rất logic, rất hợp lý. Đúng nửa tháng sau Tuyên ngôn độc lập, trong “Thư gửi các đồng chí tỉnh nhà”, Người đã nói đến việc đề phòng hủ hóa, cán bộ lên mặt làm quan cách mạng, độc hành độc đoán, hoặc dĩ công dinh tư (lấy của chung làm của riêng), v.v.. Những khuyết điểm trên, nhỏ thì làm cho dân chúng hoang mang, lớn thì làm cho nền đoàn kết lung lay. Trong bài “Sao cho được lòng dân” Người viết: “Muốn cho dân yêu, muốn được lòng dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh. Phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư”. Ngày 17-10-1945, trong bài “Gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng” đăng báo Cứu quốc, sau khi nêu thành tích nhiều người làm theo đúng chương trình của Chính phủ và rất được lòng dân, Bác chỉ ra sáu lầm lỗi rất nặng nề như: Trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Những người mắc lỗi lầm đó tưởng mình là thần thánh, coi khinh dân gian, huênh hoang, khoác lác, kiêu ngạo, cử chỉ vác mặt “quan cách mạng”, làm mất lòng tin cậy của dân, hại đến uy tín của Chính phủ.
Thứ hai, tháng 6-1949, trong tác phẩm Cần Kiệm Liêm Chính, khi bàn về chữ Liêm, Bác viết “cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”. Thứ ba, tháng 9-1950, trên đường đi chiến dịch Biên giới, ghé thăm một đơn vị thanh niên xung phong, Bác làm bài thơ có 4 câu: “Không có việc gì khó/Chỉ sợ lòng không bền/Đào núi và lấp biển/Quyết chí ắt làm nên”. Thứ tư, tại kỳ họp Hội đồng Chính phủ cuối năm 1966, Bác nói: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng/ Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”. Thứ năm, tháng 6-1968, khi nêu ý kiến về làm và xuất bản loại sách “Người tốt việc tốt”, Bác nói: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
Một lần duy nhất khi trả lời một nhà báo nước ngoài của báo Frères D’armes, khi được hỏi: “Chủ tịch sợ gì nhất?”, Bác trả lời: “Chẳng sợ gì cả. Một người yêu nước không sợ gì hết và nhất thiết không được sợ gì”. Như vậy theo Bác, một người yêu nước, người cách mạng thì không sợ gì cả, chỉ sợ lòng dân không yên, vì lòng dân không yên, mất lòng dân là mất tất cả.
Xâu chuỗi những bài viết, bài nói của Bác liên quan tới những cụm từ trên cần nhận thức thấu đáo rằng Bác cho ta thấy sức mạnh của nhân dân gồm hệ thống một nguồn lực như tài dân, sức dân, của dân, quyền hành, lực lượng; khôn khéo, trí tuệ, thông minh, sáng tạo, hăng hái, anh hùng, dũng cảm, cần cù. Đó là sức mạnh chúng ta có thể nhìn thấy. Còn một nguồn “sức mạnh mềm” tiềm ẩn bên trong có ý nghĩa nền tảng, động lực, tiền đề của những sức mạnh trên, đó là lòng tốt, lòng trung thành của nhân dân. Lòng dân là sức mạnh vô biên, vô địch, có ý nghĩa quyết định thành bại của cách mạng. Bác viết “dân rất tốt”. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng. Cán bộ, đảng viên phải ghi tạc vào đầu cái chân lý ấy. Nếu cán bộ, đảng viên có tâm trong sáng, chính trực, biết nuôi dưỡng, vun bồi, khơi dậy lòng tốt của dân - tuyệt đối không được lạm dụng, lợi dụng lòng tốt đó - thì dân sẽ ủng hộ, giúp đỡ ta. Nói với Công an nhân dân, Bác chỉ rõ ta được lòng dân thì không sợ gì cả. Nếu không được lòng dân thì không thể làm tốt công tác. Nói về Chính phủ lo phấn đấu cho lợi ích của nhân dân nên nhân dân hăng hái, hoàn toàn tin tưởng và nhiệt liệt ủng hộ Chính phủ, Bác kết luận: “Được lòng dân, thì việc gì cũng làm được; trái ý dân thì chạy ngược chạy xuôi”.
Khi Bác nói “nước lấy dân làm gốc”, “dân là gốc” cần được hiểu lõi cốt của gốc là lòng dân. Việc gì đúng với nguyện vọng và hợp lòng dân thì được quần chúng ủng hộ và hăng hái đấu tranh. Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thành công hoàn toàn.
2. Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, ngay khi bước vào sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã rút ra bài học kinh nghiệm đầu tiên là trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2021), nghị quyết các Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII nhấn mạnh sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, quan liêu, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ.
Trong thời gian gần đây, Tổng Bí thư Đảng ta trăn trở nhiều về hai chữ “lòng dân” bởi nó liên quan tới vận mệnh của Đảng, của Tổ quốc, dân tộc và chế độ. Ông viết: “Cần khẳng định, ta làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả” (Nguyễn Phú Trọng: Quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2019, tr.80). Từ đó, ông nhấn mạnh: “Phải biết dựa vào dân, lắng nghe dân, cái gì mà quần chúng nhân dân hoan nghênh, ủng hộ thì chúng ta phải quyết tâm làm và làm cho bằng được; ngược lại, cái gì nhân dân không đồng tình, thậm chí căm ghét, phản đối thì chúng ta phải cương quyết ngăn ngừa, uốn nắn và xử lý nghiêm các sai phạm” (Nguyễn Phú Trọng: Quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng, Sđd, tr.116-117). Gần đây, khi bàn về một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, người đứng đầu Đảng ta suy nghĩ nhiều về các giải pháp thúc đẩy công cuộc đổi mới. Cùng với việc chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế, ông nhấn mạnh hai nhân tố có ý nghĩa quyết định. Đó là cùng với việc xác định chủ trương, đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân. Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển.
Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, Đại hội XIII rút ra một số bài học kinh nghiệm quý báu, trong đó bài học thứ hai có tinh thần, nội dung cốt lõi là lòng dân, sức dân, niềm tin của nhân dân. Đảng ta khẳng định: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”.
Trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh khi Người viết Di chúc được coi như cương lĩnh xây dựng đất nước sau chiến tranh theo tinh thần đổi mới (quốc bảo). Theo Bác, xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn là một nhiệm vụ hết sức to lớn, nặng nề và phức tạp, mà cũng là rất vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này, cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn cho thấy chỉ có dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân, làm hợp lòng dân thì mới đi tới thắng lợi hoàn toàn./.
ST


Về năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam

Có nhiều cách tiếp cận về khái niệm lãnh đạo nhưng nhìn chung lãnh đạo được quan niệm là quá trình chủ thể ra quyết định (tức là xác định được mục tiêu, tầm nhìn, định hướng phát triển của tổ chức); tổ chức lực lượng, phương tiện, hình thành cơ chế, bộ máy... để thực hiện quyết định nhằm thực hiện mục tiêu, tầm nhìn, định hướng phát triển, mục tiêu chiến lược đã đề ra; tổ chức kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyết định; tổng kết việc thực hiện quyết định và rút ra các bài học kinh nghiệm cho việc ra quyết định tiếp theo.

Theo đó, năng lực lãnh đạo bao gồm năng lực ra quyết định; năng lực tổ chức thực hiện quyết định; năng lực tổ chức kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyết định; năng lực tổng kết việc thực hiện quyết định và rút ra các bài học kinh nghiệm để điều chỉnh quyết định, tức là điều chỉnh mục tiêu, tầm nhìn, định hướng phát triển, mục tiêu chiến lược.

Đảng lãnh đạo trong điều kiện nắm giữ chính quyền được gọi tắt là đảng cầm quyền. Đảng cầm quyền là đảng chính trị giành được quyền lực nhà nước và sử dụng quyền lực nhà nước thông qua và bằng pháp luật cùng các công cụ, phương tiện khác để thực hiện tầm nhìn, định hướng phát triển, mục tiêu chiến lược của đảng. Năng lực cầm quyền của đảng là năng lực giữ chính quyền nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước hợp lý để đề ra được chủ trương, đường lối, mục tiêu phát triển đúng đắn, lãnh đạo nhà nước và nhân dân thực hiện được mục tiêu, tầm nhìn, định hướng phát triển của đảng.

Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, sự cầm quyền của Đảng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, mục tiêu chiến lược của Đảng là xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Hiện nay, tình hình thế giới có những diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, khó dự báo, đặt ra yêu cầu đối với đảng cầm quyền là phải nắm bắt kịp thời những vấn đề của thời đại như: vấn đề an ninh phi truyền thống, vấn đề biến đổi khí hậu, tác động đa chiều của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thế giới đang có xu hướng chuyển sang đa cực, sự tranh giành quyền lực giữa các nước lớn, v.v.. Từ đó, có những chủ trương, chính sách phù hợp.

Ở trong nước, nền kinh tế đang phục hồi nhưng vẫn còn nhiều vấn đề xã hội đặt ra; vẫn còn những cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, v.v.. Những vấn đề này đang đặt ra yêu cầu mới đối với Đảng trong lãnh đạo, cầm quyền.

Để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng thì phải nâng cao năng lực giữ vững vai trò lãnh đạo toàn diện đối với chính quyền nhà nước và năng lực lãnh đạo Nhà nước thực hiện mục tiêu, tầm nhìn, định hướng phát triển mà Đảng đã xác định.

Hai năng lực này liên hệ, tác động lẫn nhau. Năng lực giữ vững vai trò lãnh đạo toàn diện đối với chính quyền nhà nước sẽ tăng cường năng lực lãnh đạo Nhà nước thực hiện mục tiêu, tầm nhìn, định hướng phát triển mà Đảng đã xác định. Ngược lại, năng lực lãnh đạo Nhà nước thực hiện mục tiêu, tầm nhìn, định hướng phát triển mà Đảng đã xác định sẽ góp phần củng cố, tăng cường năng lực giữ vững vai trò lãnh đạo toàn diện đối với chính quyền nhà nước.

Để thực hiện tốt các giải pháp trên, toàn Đảng cần phải nâng cao trình độ tư duy lý luận, trau dồi, rèn luyện phương pháp biện chứng duy vật cho cán bộ, đảng viên. Bởi lẽ, phương pháp biện chứng duy vật với các nguyên tắc khách quan, phát triển, lịch sử cụ thể, thống nhất giữa lý luận với thực tiễn sẽ giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng có cơ sở, căn cứ để nâng cao năng lực giữ vững vai trò lãnh đạo toàn diện đối với chính quyền nhà nước và năng lực lãnh đạo Nhà nước thực hiện mục tiêu, tầm nhìn, định hướng phát triển mà Đảng đã xác định. Hai nhóm giải pháp cho việc giữ vững vai trò lãnh đạo toàn diện đối với chính quyền nhà nước và năng lực lãnh đạo Nhà nước thực hiện mục tiêu, tầm nhìn, định hướng phát triển mà Đảng đã xác định có mối quan hệ biện chứng, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau.

Nâng cao được năng lực giữ vững vai trò lãnh đạo toàn diện đối với chính quyền nhà nước là cơ sở tiền đề nâng cao năng lực lãnh đạo Nhà nước thực hiện mục tiêu, tầm nhìn, định hướng phát triển mà Đảng đã xác định. Nâng cao năng lực lãnh đạo Nhà nước thực hiện mục tiêu, tầm nhìn, định hướng phát triển mà Đảng đã xác định là củng cố, tăng cường năng lực giữ vững vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với Nhà nước trong mọi thời kỳ cách mạng./.

ANH HÙNG BẾ VĂN ĐÀN - LẤY THÂN MÌNH LÀM GIÁ SÚNG !!!

 Thân làm giá súng, thân làm cành xuân;

Đang khi trận địa gian truân,
Vai khiêng núi lửa diệt quân bạo tàn.
Quân ta cờ thắm khải hoàn,
Mà người chiến sĩ đã tàn thịt xương.
Mộ Bế Văn Đàn trong sáng trong gương:
Hai đế giày cao su rách sờn.
Giản đơn một cây bút máy.
Một túi ni lông.
Tám khuy cúc áo.
Một mảnh đại bác - còn lại trong người.
Tất cả tình anh đã hiến cho đời.
Không giữ cho mình, dù chỉ là hài cốt.
Mộ Bế Văn Đàn trong sáng trong gương.
Mộ Bế Văn Đàn trong viện Bảo tàng Quân đội.
Khách viếng qua đây
Dừng chân đứng lại:
Nơi đây mộ Bế Văn Đàn,
Nơi đây gió nội trăng ngàn,
Nơi đây chim ca hoa nở,
Đất Tổ quốc là một nền nhung đỏ,
Nơi đây bốn mùa muôn thuở vãng lai...
Tất cả tinh anh đã hiến cho đời...
ST


Những giấy tờ thay thế sổ hộ khẩu giấy từ năm 2023

 

Từ 1/1/2023, người dân có thể dùng một trong các loại giấy tờ làm thủ tục hành chính là thẻ căn cước công dân, chứng minh nhân dân, giấy thông báo số định danh cá nhân.

Ngày 21/12, Phó thủ tướng Vũ Đức Đam ký ban hành Nghị định 104 sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định liên quan đến nộp, xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy khi thực hiện thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công.

Từ đầu năm 2023, nhiều thủ tục sẽ không cần xuất trình sổ hộ khẩu, như: Hỗ trợ tạo việc làm; bảo hiểm y tế; hỗ trợ học sinh và trường phổ thông ở xã, thôn đặc biệt khó khăn; phát triển giáo dục mầm non; quản lý học phí với cơ sở giáo dục công lập; miễn giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập; giá dịch vụ lĩnh vực giáo dục, đào tạo; điện lực; nhà ở; đất đai; y tế...

Khi thực hiện thủ tục ở các lĩnh vực nói trên, người dân chỉ cần trình một trong các loại giấy tờ sau: Thẻ căn cước công dân, chứng minh nhân dân, giấy tờ xác nhận thông tin về cư trú (văn bản ghi nhận thông tin cư trú do cơ quan có thẩm quyền cấp), giấy thông báo số định danh cá nhân, thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.

Chính phủ yêu cầu cán bộ, công chức, viên chức sử dụng thông tin về cư trú của công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công. Thông tin về cư trú của công dân tại thời điểm làm thủ tục hành chính được ghi nhận và lưu giữ trong hồ sơ trên Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp bộ, tỉnh.

Các phương thức khai thác thông tin về cư trú của công dân gồm: Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp bộ, cấp tỉnh đã kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư hoặc qua Cổng dịch vụ công quốc gia; tài khoản định danh điện tử của công dân hiển thị trong ứng dụng VNEID; sử dụng thiết bị đầu đọc đã được kết nối trực tuyến với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, gồm thiết bị đọc mã QRCode hoặc thiết bị đọc chip trên thẻ căn cước công dân gắn chip.

Nếu không thể khai thác được thông tin cư trú của công dân theo các phương thức nêu trên, cán bộ có thể yêu cầu công dân nộp bản sao hoặc xuất trình một trong số giấy tờ có giá trị chứng minh thông tin về cư trú.

Nghị định có hiệu lực từ 1/1/2023.

Cuối năm 2020, Quốc hội thông qua Luật Cư trú (sửa đổi), trong đó quy định sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy có giá trị đến hết năm 2022, sau đó người dân sẽ chuyển sang sử dụng mã số định danh cá nhân để chứng minh nơi cư trú.

Luật có hiệu lực từ tháng 7/2021, song có điều khoản chuyển tiếp, người dân tiếp tục được dùng sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy đến hết năm 2022 để chứng minh nơi cư trú, giải quyết thủ tục hành chính khi cần thiết.

Quốc hội yêu cầu Chính phủ và các cơ quan rà soát văn bản có nội dung liên quan đến sổ hộ khẩu, sổ tạm trú hoặc yêu cầu xuất trình giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú, để sửa đổi cho phù hợp.

Nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở

Nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng về thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, bảo đảm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, tạo lập cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân và của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, tạo sự chuyển biến tích cực trong đời sống chính trị - xã hội, tại Kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở (Luật số 10/2022/QH15). Luật gồm 6 chương, 91 điều; trong đó quy định việc thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và tổ chức sử dụng lao động.

Luật nêu rõ quyền của công dân trong thực hiện dân chủ ở cơ sở như sau:

- Được công khai thông tin và yêu cầu cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời theo quy định của pháp luật.

- Đề xuất sáng kiến, tham gia ý kiến, bàn và quyết định đối với các nội dung thực hiện dân chủ ở cơ sở theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.

- Kiểm tra, giám sát, kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo, khởi kiện đối với các quyết định, hành vi vi phạm pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở theo quy định của pháp luật.

- Được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp trong thực hiện dân chủ ở cơ sở theo quy định của pháp luật.

Thực hiện dân chủ ở cơ sở là phương thức phát huy quyền làm chủ của nhân dân, để công dân, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động được thông tin, thể hiện ý chí, nguyện vọng, chính kiến của mình thông qua việc thảo luận, tham gia ý kiến, quyết định và kiểm tra, giám sát các vấn đề ở cơ sở theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Do vậy, cần tập trung một số nhiệm vụ sau:

Một là, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền đẩy mạnh thực hiện QCDC ở cơ sở.

Chất lượng, hiệu quả công tác tuyên truyền việc đẩy mạnh thực hiện QCDC trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân phải cụ thể: Xây dựng cơ chế thông tin đa chiều, thực hiện minh bạch, công khai thông tin, đáp ứng quyền được thông tin của cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân. Đa dạng hóa phương pháp, hình thức tuyên truyền theo hướng tăng cường đối thoại, trao đổi, tương tác phù hợp với đặc điểm của từng đối tượng. Hiện đại hóa và sử dụng các phương tiện tuyên truyền hiện đại, nhiều chức năng, dịch vụ, tiện ích nhằm góp phần hữu ích, thiết thực trong việc tương tác, chia sẻ. Do vậy, cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy các cấp phải thực sự gương mẫu trong việc chấp hành các nguyên tắc tập trung dân chủ, trong thực hiện nhiệm vụ đảng viên, trong sinh hoạt, lối sống… Đồng thời, kịp thời phê phán những biểu hiện cực đoan, lợi dụng dân chủ để xuyên tạc, kích động, lôi kéo quần chúng phục vụ cho “lợi ích nhóm”, lợi ích cá nhân, đồng thời cần khắc phục, chấm dứt những việc làm mang tính dân chủ hình thức trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước trong đẩy mạnh thực hiện QCDC ở cơ sở.

Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý Nhà nước để bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của nhân dân. Nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy các cấp trong phát huy quyền làm chủ của nhân dân; đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với việc thực hành dân chủ; phát huy hiệu lực, hiệu quả vai trò các cơ quan, tổ chức trong thực hành dân chủ; tổ chức bộ máy gọn nhẹ, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đồng thời, thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng. Cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong bộ máy nhà nước phải được lựa chọn theo những tiêu chí cụ thể và công khai, có uy tín trong nhân dân, có năng lực, bảo đảm liêm, chính.

Ba là, phát huy hiệu quả vai trò giám sát, phản biện xã hội của mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong thực hiện QCDC ở cơ sở.

Sự nghiệp đổi mới đất nước đặt ra yêu cầu phải phát huy đầy đủ quyền làm chủ, tiềm năng sáng tạo của các tầng lớp nhân dân và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Do vậy, không ngừng đổi mới phương thức hoạt động và cơ chế để phát huy vai trò của nhân dân và dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị của mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Đồng thời, làm tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội đối với cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ, công chức, góp phần xây dựng Đảng và bộ máy chính quyền các cấp thật sự trong sạch, vững mạnh. Thường xuyên kiện toàn tổ chức, bộ máy theo hướng tinh gọn, phù hợp với các chức năng, vai trò và nhiệm vụ; nâng cao chất lượng hoạt động theo hướng hiệu quả, thiết thực, khắc phục triệt để tình trạng phô trương, hình thức; đổi mới phương thức hoạt động, bảo đảm đúng tôn chỉ, mục đích, hướng về cơ sở, tập trung cho cơ sở; bảo đảm lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN. Tăng cường giám sát việc lãnh đạo và thực hiện QCDC ở cơ sở, việc tổ chức tiếp công dân, đối thoại với công dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân của chính quyền các cấp nhằm giải đáp nguyện vọng, kiến nghị chính đáng, hợp pháp của nhân dân.

Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất, đạo đức cách mạng trong sáng, chí công vô tư trong thực hiện QCDC ở cơ sở.

Để thực hành dân chủ, công tác cán bộ là một trong những khâu quan trọng và mang tính quyết định nhất. Do đó, cần: Nâng cao nhận thức cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân về vai trò của việc giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng; nhất là trong xu thế hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ như hiện nay. Kết hợp thực hiện các biện pháp cụ thể về tổ chức quản lý, hành chính, pháp luật và đề cao sức mạnh của dư luận xã hội. Kiên quyết đấu tranh, xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi dụng dân chủ, gây rối loạn nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc vi phạm dân chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ của nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu phải quán triệt sâu sắc, có nhận thức đầy đủ các quan điểm, đường lối của Đảng về công tác cán bộ, về thực hiện dân chủ trong Đảng. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy quyền và trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ. Mỗi cán bộ đủ điều kiện, tiêu chuẩn, đã được quy hoạch đều có cơ hội và điều kiện như nhau để có thể phát huy tốt những phẩm chất, năng lực của mình trong tuyển dụng, tuyển chọn vào các chức danh lãnh đạo, quản lý./.

KHỔ MẤY CŨNG PHẢI GIỮ, CÓ CHẾT CŨNG PHẢI GIỮ

 Tướng Giáp Văn Cương (Đô đốc đầu tiên của Hải quân Nhân dân Việt Nam) bảo: “Tớ đâu có muốn đày đọa các cậu. Giá trị gì mấy cái hòn đá cằn cỗi này mà phải gìn giữ? Nhưng đây là Tổ quốc của mình, là máu thịt của mình. Có phải chúng ta giữ mấy hòn đá hoang dại này đâu mà là giữ biển đấy! Mất đảo là mất biển, mà biển lại bao bọc suốt từ Bắc đến Nam. Tất cả kẻ thù đánh ta đều đi từ đường biển vào. Thế nên chúng ta phải giữ đảo, giữ biển. Khổ mấy cũng phải giữ, có chết cũng phải giữ! Thế nên chúng mày mới phải chịu cảnh này”.

“Tớ già rồi, ngoài 70 rồi, lẽ ra được ở nhà an thú tuổi già, vậy mà vẫn phải lọ mọ lặn lội sóng gió ra đây với chúng mày, vẫn phải làm tư lệnh. Tất nhiên tớ biết, các cậu vất vả hơn tư lệnh nhiều, khổ hơn tư lệnh nhiều vì tư lệnh còn được ở đất liền. Hay là các cậu vào đất liền, làm tư lệnh thay tớ, để tớ giữ đảo cho? Ở đây có cậu nào làm được tư lệnh không, xung phong nào! Cậu nào làm được tư lệnh, tớ sẽ báo cáo quân chủng, báo cáo Bộ Chính trị cho thay ngay Giáp Văn Cương”.
Ông tâm tình: “Còn việc về phép của các cậu, chúng tớ có tiếc gì đâu. Nhưng Bộ Tư lệnh nghèo quá, đất nước nghèo quá. Chúng ta vừa qua chiến tranh, còn hàng triệu bà mẹ liệt sĩ thiếu ăn, hàng triệu trẻ con không có trường học. Đưa một cậu về phép, Bộ Tư lệnh phải xuất 20 tấn dầu cả tàu ra, tàu về, rồi tàu lại ra. Mà dầu thì ta không có, phải mua của nước ngoài, rất đắt. Mỗi đứa bớt một lần về phép thì một trăm bà mẹ liệt sĩ có được đến mấy tháng ăn...”.
Thế rồi ông khóc, lính cũng khóc: “Thôi, chúng con hiểu rồi. Bố đừng nói nữa, chúng con thương bố lắm”. Tướng Cương bảo: “Chẳng ai nỡ làm cái việc táng tận lương tâm là cắt phép của các cậu. Nhưng hôm nay tớ phải làm cái việc táng tận lương tâm ấy đấy. Cắt phép. Còn nếu cậu nào có thể tự túc về được thì tớ cho đi ngay, bất cứ lúc nào. Có ai bơi được về đất liền không? Không à? Trai trẻ gì mà kém thế! Tớ mà trẻ trai như các cậu là tớ trốn đấy”. Thế là tướng với lính cười bò. Cười mà nước mắt giàn giụa.
Vậy đấy, Tổ quốc sẽ không bao giờ bị ''trôi dạt'' bởi chúng ta đã có những vị tướng như thế, những người lính như thế./.
ST


Chủ trương của Đảng về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về dân chủ theo cách rất dễ hiểu: Dân chủ nghĩa là dân là chủ và dân làm chủ. Người còn nhấn mạnh: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”. Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng, Điều 3, Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.

Trong tiến trình đổi mới, việc vi phạm dân chủ ở nông thôn khi nhân dân tham gia đóng góp xây dựng hạ tầng đường, trường, trạm... đã không được bàn bạc, mức đóng góp quá sức dân, gây bức xúc trong nhân dân, làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, gây nên tình trạng mất an ninh và trật tự xã hội ở một số địa phương. Trước tình hình đó, ngày 18-2-1998, Bộ Chính trị (khóa VIII) đã ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW “Về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở”. Chỉ thị nhấn mạnh: “Khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất”, nhằm cụ thể hóa phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đảm bảo dân chủ cơ sở, phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân. Trên cơ sở đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành các Nghị quyết số 45/1998, Nghị quyết số 55/1998, Nghị quyết số 60/1998, Pháp lệnh số 34/2007 và Chính phủ ban hành các Nghị định số: 29/1998, 71/1998, 07/1999, 79/2003, 87/2007 về ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, cơ quan hành chính, doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn đã tạo ra cơ chế cụ thể về quyền làm chủ của nhân dân.

Trong từng thời kỳ cách mạng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư kế thừa, bổ sung và phát triển nhận thức về thực hiện QCDC ở cơ sở cho phù hợp với tình hình thực tiễn, nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở; là khâu quan trọng, then chốt trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Ngày 22-6-2000, Bộ Chính trị ban hành Thông báo số 304-TB/TW “Về tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW Về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở”. Tiếp sau đó, ngày 4, 5-3-2002, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) tổ chức Hội nghị toàn quốc sơ kết việc thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị giai đoạn 1998-2001. Đến ngày 28-3-2002, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) ban hành Chỉ thị số 10-CT/TW “Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở”. Ngày 28, 29-9-2004, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) đã tổ chức Hội nghị toàn quốc tổng kết 6 năm thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị và ra Thông báo số 159-TB/TW “Kết quả 6 năm thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) và tiếp tục chỉ đạo xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở”. Đến ngày 4-3-2010, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) đã ban hành Kết luận số 65-KL/TW “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII). Nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở trong thời kỳ mới. Ngày 7-1-2016, Bộ Chính trị (khóa XI) đã ban hành Kết luận số 120-KL/TW “Về tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở”.

Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định “Nhân dân làm chủ”, “Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân” và tập trung làm rõ tình hình, phương hướng, nhiệm vụ tiếp tục phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Đồng thời, khẳng định: “Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện”.

Đại hội XIII, kế thừa và phát triển tư tưởng “trọng dân” trong truyền thống lịch sử của dân tộc, bài học “dân là gốc” tiếp tục được phát triển bổ sung nội dung “dân giám sát” và “dân thụ hưởng” vào phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” để tạo thuận lợi, có cơ sở chính trị, pháp lý tổ chức thực hiện, mở rộng, tăng cường, phát huy dân chủ, vai trò chủ thể của nhân dân.

Bài học “dân là gốc”, phải thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ đó tạo thuận lợi, có cơ sở chính trị, pháp lý tổ chức thực hiện, mở rộng, tăng cường, phát huy dân chủ, vai trò chủ thể của nhân dân. Sự phát triển, hoàn thiện đó có ý nghĩa thiết thực, quan trọng trong xây dựng và phát triển đất nước như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”./.

Có thể dùng tài khoản định danh điện tử khi đi máy bay

 

Thay vì phải xuất trình các loại giấy tờ tùy thân, hành khách có thể sử dụng tài khoản định danh điện tử (VNeID) để làm thủ tục đi máy bay từ hôm nay.

Ngày 2/5, Cục Hàng không Việt Nam yêu cầu các sân bay, hãng hàng không sử dụng thông tin của hành khách đã được tích hợp trên VNeID để xác thực danh tính khi làm thủ tục bay. Ngoài ra, hành khách vẫn có thể dùng các loại giấy tờ tùy thân như chứng minh thư, căn cước công dân, giấy phép lái xe, thẻ nhà báo, giấy xác nhận nhân thân để làm thủ tục bay.

Quy định trên nhằm thực hiện hướng dẫn của Bộ Công an về định danh và xác thực điện tử (Nghị định 59/2022). Theo đó, khi người dân sử dụng tài khoản VNeID mức độ 2 trong giao dịch điện tử thì có giá trị tương đương với việc xuất trình giấy tờ cá nhân đã được tích hợp vào tài khoản. Bộ đã cập nhật tính năng kiểm tra thông tin, giấy tờ tích hợp trên VNeID khi thực hiện thủ tục hành chính.

Hành khách làm thủ tục bay tại Nội Bài. Ảnh: Ngọc Thành

Hành khách có thể trình thông tin cá nhân qua tài khoản VNeID trên điện thoại, hoặc các giấy tờ khác khi làm thủ tục đi máy bay.

Tài khoản định danh điện tử mức độ 2 áp dụng đối với người đã được cấp căn cước công dân gắn chíp điện tử. Người dân đến công an xã, phường, thị trấn hoặc nơi làm thủ tục cấp thẻ căn cước công dân để làm thủ tục cấp tài khoản VNeID.

Cán bộ tiếp nhận nhập thông tin của người dân cung cấp vào hệ thống định danh và xác thực điện tử; chụp ảnh chân dung, thu nhận vân tay để xác thực với cơ sở dữ liệu căn cước công dân và khẳng định tạo lập tài khoản định danh điện tử. Cơ quan quản lý định danh điện tử thông báo kết quả đăng ký tài khoản qua ứng dụng VNelD, hoặc tin nhắn SMS, hoặc địa chỉ thư điện tử.

Các khoản đóng - hưởng tăng theo lương cơ sở

 

Lương cơ sở tăng từ 1,49 lên 1,8 triệu đồng từ ngày 1/7 kéo các khoản đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp của lao động khối nhà nước tăng theo.

Tăng tiền lương tháng trích đóng bảo hiểm

Theo quy định hiện hành, người lao động trích 8% tiền lương hàng tháng đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc. Nếu mức lương cao hơn 20 tháng lương cơ sở thì lương tháng đóng bảo hiểm bắt buộc bằng 20 tháng lương cơ sở, tương đương 36 triệu đồng. Với quy định đóng 8%, tiền lương trích đóng tối đa sẽ tăng từ 2,384 lên 2,88 triệu đồng mỗi tháng.

Tiền đóng bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) mỗi tháng bằng 1% tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc, nên mức trích tối đa cũng tăng lên 360.000 đồng sau ngày 1/7 thay vì 298.000 đồng như hiện nay.

Tương tự với BHYT, lao động mỗi tháng trích 1,5% tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc. Nếu lương tháng cao hơn 20 lần mức lương cơ sở, tức 36 triệu đồng trở lên thì tiền trích đóng BHYT sẽ là 540.000 đồng thay vì 447.000 đồng như hiện nay.

Với BHYT hộ gia đình, mức đóng theo quy định hiện hành áp dụng cho người thứ nhất bằng 4,5% lương cơ sở, tương ứng tăng từ 67.050 lên 81.000 đồng mỗi tháng; người thứ hai, thứ ba, thứ tư đóng lần lượt bằng 70%, 60% và 50% mức đóng của người đầu tiên, tương ứng 56.700, 48.600 và 40.500 đồng. Người thứ năm trở đi đóng bằng 40% mức của người thứ nhất, tức 32.400 đồng.

Người đóng BHYT từ đủ 5 năm liên tục trở lên và có số tiền cùng chi trả phí khám chữa trong năm lớn hơn 6 tháng lương cơ sở thì được Quỹ Bảo hiểm y tế thanh toán toàn bộ, mức này sẽ tăng lên 10,8 triệu đồng từ ngày 1/7 so với 8,94 triệu như hiện nay.

Mức hưởng trợ cấp, phụ cấp tăng

Theo nguyên tắc đóng - hưởng của bảo hiểm xã hội, một số loại trợ cấp, phụ cấp của lao động làm việc trong cơ quan, doanh nghiệp nhà nước sẽ tăng.

Cụ thể, lao động nữ khi sinh con hoặc nhận con nuôi (dưới 6 tháng tuổi) được nhận trợ cấp một lần cho mỗi con bằng 2 lần mức lương cơ sở. Trường hợp sinh con nhưng chỉ có cha tham gia BHXH thì người cha được nhận trợ cấp. Từ ngày 1/7, mức này tăng từ 2,98 lên 3,6 triệu đồng.

Mức trợ cấp mỗi ngày cho lao động sau ốm đau phải dưỡng sức, phục hồi; người sau điều trị thương tật; lao động nữ phải phục hồi sau thai sản theo quy định bằng 30% mức lương cơ sở, tương đương 540.000 đồng, thay vì 447.000 đồng như hiện nay. Riêng với người suy giảm khả năng lao động 31% trở lên, nếu sau đó bị suy giảm thêm thì cứ 1% được hưởng thêm 2% lương cơ sở, tức 36.000 đồng.

Người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, suy giảm 5% khả năng lao động hưởng trợ cấp một lần bằng 5 lần mức lương cơ sở, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì hưởng thêm 0,5 lần lương cơ sở. Mức trợ cấp này sau ngày 1/7 sẽ tăng từ 7,45 triệu lên 9 triệu đồng; sau đó nếu lao động bị suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 900.000 đồng.

Người suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên mà liệt cột sống, liệt chi hoặc bị tâm thần, ngoài trợ cấp hàng tháng được hưởng trợ cấp phục vụ bằng với lương cơ sở. Mức này sẽ từ 1,49 lên 1,8 triệu đồng khi lương cơ sở tăng.

Người tử vong do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc qua đời trong thời gian điều trị mà chưa được giám định thì thân nhân được hưởng trợ cấp một lần bằng 36 lần lương cơ sở, tức 64,8 triệu đồng từ 1/7 (hiện nay là 53,64 triệu).

Trợ cấp mai táng theo quy định bằng 10 lần mức lương cơ sở tại tháng mà lao động tử vong, tương đương 18 triệu đồng. Tiền tuất hàng tháng với mỗi thân nhân đủ điều kiện hưởng bằng 50% mức lương cơ sở, lên 900.000 đồng mỗi tháng so với 745.000 đồng như hiện nay. Trường hợp thân nhân không có người trực tiếp nuôi dưỡng thì trợ cấp tuất bằng 70% lương cơ sở, tức 1,26 triệu đồng so với 1,043 triệu đồng như hiện nay.

Mức lương cơ sở được áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức, người hưởng lương, phụ cấp và người lao động làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị sự nghiệp của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội được ngân sách nhà nước hỗ trợ kinh phí hoạt động ở trung ương, ở cấp tỉnh, huyện, xã, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt và lực lượng vũ trang. Lương cơ sở cũng được dùng làm căn cứ để điều chỉnh lương hưu.

Mức lương này không áp dụng với lao động trong doanh nghiệp. Nhóm này sẽ hưởng lương tối thiểu vùng.