Chủ Nhật, 1 tháng 9, 2024

Giữ gìn, phát huy truyền thống đoàn kết của Đảng trong tác phẩm Di chúc với công cuộc đổi mới hiện nay

Tiếp tục thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, với cơ hội và thách thức mới, lại càng đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách là Đảng duy nhất cầm quyền không ngừng nâng cao nhận thức, không ngừng tự củng cố và phát huy cao hơn nữa sức mạnh của sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng để đảm đương sứ mệnh cao cả của mình, để thật sự là “đạo đức, văn minh”, là người lãnh đạo xứng đáng và người phụng sự trung thành của Tổ quốc, của nhân dân.

Nhân dân bản Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng vui mừng chào đón Bác Hồ về thăm, ngày 20/2/1961. Ảnh: Tư liệu TTXVN

Nhân dân bản Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng vui mừng chào đón Bác Hồ về thăm, ngày 20/2/1961. Ảnh: Tư liệu TTXVN

NHỮNG LUẬN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ GIỮ GÌN, PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG ĐOÀN KẾT CỦA ĐẢNG TRONG TÁC PHẨM DI CHÚC

Đoàn kết trong Đảng là vấn đề cần quan tâm hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng

Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Truyền thống đoàn kết trong Đảng bắt nguồn từ truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, được Đảng kế thừa và phát huy trong điều kiện lịch sử mới và được nâng tầm dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Truyền thống đó được xây dựng, bồi đắp qua quá trình hình thành và phát triển của Đảng, được thử thách qua các thời kỳ đấu tranh đầy gian khổ, trở thành sức mạnh nội sinh to lớn, thành giá trị văn hóa của Đảng.

Trong rất nhiều nội dung của công tác xây dựng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng khối đoàn kết trong Đảng. Không phải ngẫu nhiên mà trong “Di chúc” - văn kiện kết tinh những tâm huyết trọn đời của cuộc đời Hồ Chí Minh - chỉ trong một đoạn văn ngắn viết về Đảng, Người đã 5 lần nhắc đến chữ “đoàn kết” và nhấn mạnh “đoàn kết chặt chẽ”, “đoàn kết nhất trí”, “đoàn kết và thống nhất”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Hợp tác xã nông nghiệp Tân Lập, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây (8-7-1958)_Nguồn: hochiminh.vn

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Hợp tác xã nông nghiệp Tân Lập, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây (8-7-1958)_Nguồn: hochiminh.vn

Là người sáng lập và rèn luyện, lãnh đạo Đảng qua những chặng đường cách mạng đầy cam go, gian khổ, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ tầm quan trọng của việc thực hiện đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng, bởi vậy, có đoàn kết trong Đảng mới là hạt nhân đoàn kết được toàn dân tộc, đoàn kết với cách mạng thế giới để tạo nên sức mạnh tổng hợp. Trong cuộc vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Thiếu một đảng cách mạng thống nhất lãnh đạo phong trào công nhân, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta sẽ như con tàu không có người cầm lái. Sau khi Đảng Cộng sản ra đời, Hồ Chí Minh luôn chăm lo giữ gìn sự đoàn kết thống nhất, kiên quyết đấu tranh chống lại mọi hiện tượng bè phái, chia rẽ trong Đảng. Người khẳng định “Sở dĩ Đảng ta có thể lãnh đạo giai cấp công nhân và toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, là vì Đảng ta có chính sách đúng đắn và lãnh đạo thống nhất. Mà lãnh đạo thống nhất là vì toàn thể đảng viên tư tưởng nhất trí và hành động nhất trí”. Người yêu cầu nghiêm khắc đối với mỗi cán bộ đảng viên: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Với Đảng, sự đoàn kết chính là nguồn sức mạnh nội sinh quan trọng nhất, đảm bảo vững chắc nhất cho sự tồn tại và phát triển của Đảng, của cách mạng. Đoàn kết trong Đảng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là vấn đề có tính nguyên tắc, phải được quán triệt trong lý luận và thực tiễn xây dựng Đảng, phải được thực hiện một cách nhất quán, xuyên suốt qua các chặng đường của cách mạng Việt Nam.

Trong Di chúc, Hồ Chí Minh đưa ra một nhận định mang tính tổng kết về quy luật phát triển Đảng, đó là: Toàn bộ sức mạnh của Đảng, uy tín của Đảng, thành công của Đảng có được là ở truyền thống đoàn kết chặt chẽ trong Đảng và sự trung thành, hết lòng hết sức phục vụ giai cấp, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Người viết: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Đặt hai yếu tố “đoàn kết chặt chẽ” và “một lòng, một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc” trong một mệnh đề, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ, sự tác động hai chiều giữa đoàn kết và việc kiên định lý tưởng, mục tiêu của Đảng. Đảng có đoàn kết chặt chẽ mới thực hiện mục tiêu, lý tưởng phụng sự giai cấp, nhân dân và Tổ quốc. Ngược lại, mục tiêu, lý tưởng phụng sự giai cấp, nhân dân và Tổ quốc là nền tảng để xây dựng và củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Nếu xa rời mục tiêu, lý tưởng ấy, sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng sẽ trở nên hình thức, không có cơ sở tồn tại. Sự kết hợp của hai yếu tố đó là nguyên nhân thắng lợi của Đảng, của cách mạng Việt Nam.

Phương thức xây dựng, giữ gìn và phát huy khối đại đoàn kết trong Đảng

Để xây dựng và phát huy khối đoàn kết trong Đảng, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung vào ba nội dung chủ yếu là: 1) Trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên; 2) Nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình; 3) Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Chiều sâu của tư tưởng Hồ Chí Minh trong những vấn đề trên đây là ở chỗ: Người đã chọn ra những vấn đề cốt lõi nhất trong hàng loạt vấn đề cần phải thực hành và chỉ ra phương pháp giải quyết tối ưu để đưa tới sự chuyển biến có tính cách mạng của Đảng trước hiện thực khách quan luôn vận động, biến đổi không ngừng.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra nguyên lý của đoàn kết trong Đảng: Không thực hiện dân chủ thì không đoàn kết được, chỉ có thực hành dân chủ rộng rãi và thường xuyên mới đi tới sự thống nhất về tư tưởng và sự thống nhất tư tưởng trên cơ sở thực hành dân chủ thực sự là cơ sở vững chắc cho sự thống nhất trong tổ chức và hành động của toàn Đảng. Dân chủ trong nội bộ Đảng được thể hiện thông qua cách làm việc, cách lãnh đạo, cách thức tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên. Người chỉ rõ, mục đích của phê và tự phê để soi vào mình và người khác, giúp thấy rõ hơn nhằm phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm; để tư tưởng và hành động đúng hơn, tốt hơn, tiến bộ hơn. Trong tác phẩm cuối cùng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh việc thực hành dân chủ, phê và tự phê chính là giải pháp tối ưu nhất, “cách tốt nhất” để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Bên cạnh đó, Người cũng hết sức lưu ý thực hành dân chủ, phê và tự phê phải được tiến hành “rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh”. Đây là lời căn dặn sâu sắc, là sự đúc kết cô đọng nhất những nguyên tắc tổ chức hoạt động, quy luật phát triển của Đảng.

Khi nói về phê bình và tự phê bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn căn dặn: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Trong suốt quá trình lãnh đạo Đảng, lãnh đạo cách mạng, vấn đề đoàn kết luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh giải quyết một cách bao dung, xử lý dựa trên nguyên tắc, Điều lệ của Đảng nhưng vẫn thấm đẫm tình người. Người khẳng định “Muốn đi tới mục đích, không phải chỉ tổ chức là đủ, phải chân thành trong tư tưởng nữa”. Bởi không có tình đồng chí, tình nghĩa yêu thương lẫn nhau trong Đảng thì đoàn kết chỉ là hình thức, không bền vững, dễ dẫn đến bè phái, cơ hội, cục bộ, địa phương chủ nghĩa... Không xuất phát từ tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, mọi cuộc phê bình và tự phê bình sẽ không đem lại kết quả tốt. “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” là lời căn dặn thật chí tình, chí nghĩa thể hiện tình cảm bao dung, chủ nghĩa nhân văn sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng gặp mặt thân mật người có uy tín tiêu biểu trong đồng bào dân tộc thiểu số khu vực biên giới trong Chương trình “Điểm tựa của bản làng” lần thứ nhất, do Tạp chí Cộng sản, Ủy ban Dân tộc và Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng phối hợp tổ chức tại Hà Nội, ngày 21/12/2018. Ảnh: TTXVN

Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gặp mặt thân mật người có uy tín tiêu biểu trong đồng bào dân tộc thiểu số khu vực biên giới trong Chương trình “Điểm tựa của bản làng” lần thứ nhất, do Tạp chí Cộng sản, Ủy ban Dân tộc và Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng phối hợp tổ chức tại Hà Nội, ngày 21/12/2018. Ảnh: TTXVN

GIỮ GÌN, PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG ĐOÀN KẾT CỦA ĐẢNG TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI HIỆN NAY

Có thể nói việc giữ gìn, củng cố khối đoàn kết trong Đảng đang là đòi hỏi cấp thiết hiện nay. Bởi bên cạnh thành tựu đạt được, trong công tác xây dựng Đảng đang còn tồn tại không ít hạn chế đã kéo dài và ngày càng trở nên nghiêm trọng như tình trạng vi phạm kỷ luật Đảng, mất dân chủ, mất đoàn kết ở nhiều nơi, nhiều tổ chức Đảng; sự yếu kém về năng lực và tha hóa về đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ cao cấp. Tình trạng mất ổn định ở một số địa phương, sự gia tăng của các tổ chức phản động trong và ngoài nước… chính là hệ quả tất yếu từ những yếu kém của Đảng và đang là nguy cơ trực tiếp đối với việc duy trì, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Bên cạnh đó, công cuộc đổi mới toàn diện có thể nói cũng chính là “cuộc chiến đấu khổng lồ” đang đặt ra yêu cầu mới với Đảng với tư cách là đảng cầm quyền. Mặt khác, tình hình quốc tế và khu vực hiện nay đang diễn biến rất phức tạp, khó lường ẩn chứa thách thức đối với công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước một cách vững bền. Trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, chống phá nhiều mặt của các thế lực thù địch, phản động, một trong những âm mưu hết sức nguy hiểm là phá hoại Đảng từ bên trong, do đó vấn đề tăng cường củng cố, xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ và con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Tại Đại hội XIII, Đảng đã xác định rõ phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu phát triển tổng quát của đất nước, đó là: Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóaxây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, Đảng chỉ rõ mục tiêu cụ thể đến năm 2025: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; và đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Để thực hiện mục tiêu chiến lược đó đòi hỏi Đảng không ngừng tự chỉnh đốn, tự nâng cao về mọi mặt: bản lĩnh, tầm nhìn, trí tuệ, sức chiến đấu, năng lực phụng sự và lãnh đạo. Muốn vậy, trước hết Đảng phải đoàn kết, bởi lẽ có thật sự đoàn kết, Đảng mới có thể huy động tâm huyết, trí tuệ, sự đóng góp ở mức cao nhất của mỗi cá nhân đảng viên, của tổ chức đảng, của cả dân tộc, hoàn thành sứ mệnh trọng đại, cao cả của một đảng cầm quyền đối với nhân dân, với đất nước. Từ những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết trong Đảng, chúng ta có những chỉ dẫn quý giá cho cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong công cuộc đổi mới hiện nay.


Một là, cần đề ra đường lối cách mạng đúng đắn làm cơ sở cho sự đoàn kết trong Đảng. Đường lối ấy phải xây dựng dựa trên nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; vận dụng sáng tạo tình hình cụ thể của đất nước. Đường lối đó phản ánh mục tiêu cách mạng, phương pháp hành động, chủ trương thực hiện và những bước đi quan trọng của từng giai đoạn. Chỉ trên cơ sở đường lối chiến lược đúng đắn, khoa học, Đảng mới có thể tập hợp, đoàn kết các thế hệ đảng viên, các tầng lớp nhân dân; mới tạo sự thống nhất trọn vẹn tư tưởng, ý chí, hành động trong toàn Đảng, toàn dân kiên định đi theo con đường Đảng đã chọn. Sự trung thành với lý tưởng, con đường cách mạng, với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là cơ sở và nội dung cho sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng.

Hai là, củng cố kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ. Thực hành dân chủ chính là “chìa khóa vạn năng” để giải quyết được mọi khó khăn, thử thách trong các nhiệm vụ của Đảng; nhưng dân chủ phải gắn với tập trung, kỷ cương, kỷ luật của Đảng. Đây là nguyên tắc cơ bản sống còn của một đảng cách mạng, chân chính và giúp Đảng không ngừng lớn mạnh. Trong sinh hoạt và hành động, Đảng phải lấy tự phê bình và phê bình là phương pháp căn bản của Đảng để giải quyết mâu thuẫn, khắc phục nhược điểm, tạo nên sự thống nhất cao trong Đảng. Đoàn kết trong Đảng không phải là sự đoàn kết xuôi chiều, trái lại là đoàn kết được xây dựng trên cơ sở đấu tranh để đi đến thống nhất về tư tưởng, hành động. Mất dân chủ, dân chủ hình thức hoặc thiếu tự do tư tưởng trong sinh hoạt Đảng thì không thể có bất cứ sự sáng tạo, sự phát triển nào. Bởi vậy, cần mở rộng dân chủ, xây dựng một bầu không khí cởi mở, tin cậy với tinh thần thật sự cầu thị, từ đó, khơi dậy mọi tiềm năng sáng tạo, kể cả với những người ngoài Đảng để cùng nhau góp sức xây dựng Đảng, xây dựng đất nước.

Ba là, tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện đạo đức, tư cách người cán bộ, đảng viên gắn với đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định, đạo đức chính là sức mạnh tinh thần vô địch để chống lại mọi thói hư tật xấu, mọi ham muốn tầm thường, làm cho mỗi con người hoàn thiện hơn, làm cho Đảng mạnh và ngày càng mạnh hơn. Do đó, phải coi trọng xây dựng Đảng từ mỗi đảng viên; phải chọn lọc đảng viên, chăm lo giáo dục đảng viên, phát huy tính tiên phong, gương mẫu của người đảng viên cộng sản. Trong đó, chú trọng việc tăng cường trách nhiệm nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương. Thông qua việc nêu gương, nhân rộng các tấm gương điển hình của tập thể và cá nhân để “giáo dục lẫn nhau”, giữ gìn và củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, xây dựng sự đồng thuận, tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của đất nước, địa phương, cơ quan, đơn vị.

Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, thi hành nghiêm minh kỷ luật và kiên quyết giải quyết dứt điểm hiện tượng gây mất đoàn kết trong nội bộ Đảng. Kiểm tra, giám sát trong Đảng, một mặt phải tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy các cấp, đề cao trách nhiệm của các cơ quan chức năng, tích cực đổi mới phương pháp, cách thức tiến hành; mặt khác, cần có cơ chế, quy chế, quy định cụ thể để bảo vệ và phát huy vai trò giám sát của quần chúng Nhân dân đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Để bảo đảm cho công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ theo quy định, cấp ủy, chi bộ cần xây dựng, bổ sung và hoàn thiện hệ thống quy chế làm việc, quy chế lãnh đạo phù hợp với tính chất, nhiệm vụ của mỗi tổ chức đảng; gắn kiểm tra thường xuyên với kiểm tra đột xuất; kiểm tra kết quả lãnh đạo của chi bộ, đảng bộ với việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên. Đồng thời, biểu dương kịp thời và có biện pháp cụ thể, thiết thực giúp cho các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên chấp hành nghiêm kỷ luật của Đảng theo quy định của Điều lệ Đảng. Bên cạnh đó, cần thi hành kỷ luật nghiêm minh, tập trung xử lý dứt điểm tình trạng mất đoàn kết nội bộ, những việc lợi dụng bất đồng ý kiến, mâu thuẫn trong nội bộ dẫn đến nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” làm tan rã khối đoàn kết thống nhất trong Đảng./.

ST.

55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội

Đã 55 năm trôi qua kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh về cõi vĩnh hằng, nhưng những di huấn, tư tưởng của Người về mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội vẫn vẹn nguyên giá trị, là sợi chỉ đỏ nhất quán, xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng, của dân tộc trong công cuộc đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập Tổ quốc, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, dân chủ, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

1. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là điểm hội tụ tinh hoa tư tưởng và mục tiêu hành động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trọn cuộc đời, Người luôn cống hiến, hy sinh vì mục tiêu cao cả đó. Trước lúc đi xa, Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bản Di chúc lịch sử. Di chúc kết tinh toàn bộ tư tưởng của Người về cách mạng Việt Nam, đưa ra những chỉ dẫn cụ thể, sâu sắc để cách mạng nước ta đạt thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người bày tỏ: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Di chúc của Người đã trở thành kim chỉ nam định hướng con đường cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Nội dung Di chúc khẳng định những vấn đề có tính chất chiến lược, căn cốt:

Một là, độc lập dân tộc là mục tiêu quan trọng hàng đầu của cách mạng Việt Nam, luôn gắn liền và là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội.

Từ “hành trình khát vọng”, qua lao động, học tập, nghiên cứu lý luận, nhất là qua thực tiễn đấu tranh cách mạng phong phú ở nhiều quốc gia trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu sâu sắc và hình thành thế giới quan và phương pháp luận cách mạng. Tất cả tâm nguyện, chí hướng của Người đều hướng vào mục tiêu, “ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.

Với nhãn quan chính trị và tầm nhìn xa trông rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận ra ánh sáng chiếu rọi từ Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và chủ nghĩa Mác - Lê-nin đối với con đường giải phóng dân tộc. Người chỉ rõ, chỉ có cách mạng vô sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ, đem lại cho nhân loại một xã hội tốt đẹp, tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no. Người không ngừng truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin về trong nước, vận động nhân dân “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, dẫn đến sự ra đời của Ðảng Cộng sản Việt Nam với đường lối chiến lược thể hiện tinh thần cách mạng triệt để, sáng tạo, phù hợp giữa lý luận và thực tiễn Việt Nam. Đó là con đường cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động lãnh đạo nhằm đánh đổ đế quốc, phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc, thực hiện người cày có ruộng, sau đó tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. Đó là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người.

Tư tưởng, đường lối đó của Người thể hiện sự hài hòa của quy luật khách quan: Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn. Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội để tiến tới giải phóng triệt để con người. Độc lập - Tự do - Hạnh phúc là con đường phát triển, là mục tiêu, là bước đi của cách mạng, là triết lý phát triển của cách mạng nước ta trong thời đại mới.

Thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là minh chứng sinh động, khẳng định quan điểm, đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đưa nước ta từ “tình hình đen tối như không có đường ra” đến “xé tan cái màn đen tối” để bước ra ánh sáng, trở thành một nước “hoàn toàn tự do và độc lập”, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước. Thắng lợi đó đã đưa Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đồng thời tiếp tục khẳng định, bảo toàn thành quả cách mạng qua cuộc kháng chiến trường kỳ chín năm chống thực dân Pháp.

Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hệ giá trị tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội được nâng lên tầm cao mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nước Việt Nam là một, từ Nam chí Bắc chung một tiếng nói, một lịch sử, một nền văn hóa và một nền kinh tế. Nhân dân Việt Nam đã hy sinh nhiều xương máu đấu tranh cho tự do độc lập, quyết không một lực lượng nào ngăn cản được sự nghiệp thống nhất Tổ quốc của mình”. Đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước không thể tách rời công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, độc lập dân tộc phải gắn với chủ nghĩa xã hội, phải “làm cho chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở miền Bắc đều hơn hẳn miền Nam, làm cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam và của cả toàn dân”.

 

Cho đến những năm tháng cuối cuộc đời, điều trăn trở nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn là độc lập dân tộc và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc. Sự nghiệp thống nhất đất nước chưa hoàn thành trọn vẹn, đồng bào miền Nam còn chịu cảnh đô hộ của ngoại xâm vẫn luôn là một nỗi đau sâu thẳm trong trái tim Người. Nỗi niềm đó Người gửi gắm lại cho Đảng, cho những người kế tục sự nghiệp cách mạng với lòng mong muốn, tin tưởng, quyết tâm vào thắng lợi cuối cùng. Người nhấn mạnh: “CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người... Dù khó khǎn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi... Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”.

 

Lời dặn của Người như lời hiệu triệu, cổ vũ, khích lệ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nỗ lực, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người cũng đã chỉ rõ tính chất gian khổ, khó khăn, ác liệt của cuộc kháng chiến, những nhiệm vụ cần làm để củng cố, giữ vững nền độc lập sau khi thống nhất.

Hai là, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu chiến lược, cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc - một nền độc lập đích thực, triệt để.

Trên hành trình bôn ba tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp cận với nhiều học thuyết, mô hình cách mạng khác nhau, Người rút ra kết luận: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin". “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”. Người xác định, con đường cứu nước, giải phóng dân tộc không có con đường nào khác, chân chính, khoa học, phù hợp hơn ngoài con đường cách mạng vô sản. Cách mạng Việt Nam phải đặt trong quỹ đạo của cách mạng vô sản, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Trong suốt hành trình cách mạng, nhận thức, tư tưởng của Người về chủ nghĩa xã hội ngày càng hoàn thiện, sáng tỏ, thống nhất về lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, có sự phát triển sáng tạo trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hóa dân tộc, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam. Trong Di chúc của Người thể hiện rất rõ đặc trưng, bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta mong muốn xây dựng, đó là: Hòa bình, thống nhất, giàu mạnh, dân chủ, ấm no, hạnh phúc, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới. Nhân dân phải là người trực tiếp thụ hưởng sự giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc của đất nước. Đó là một xã hội tốt đẹp, xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, bảo đảm phúc lợi cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là người già, trẻ em, thương binh, gia đình liệt sĩ; một xã hội tạo mọi điều kiện cho người dân được tự do, bình đẳng, vươn lên phát triển bản thân, tham gia vào sự nghiệp cách mạng; một xã hội có nền sản xuất phát triển gắn liền với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật và không ngừng nâng cao đời sống, vật chất, tinh thần của nhân dân; một xã hội có kỷ cương, đạo đức, văn minh, hòa bình, hữu nghị, làm bạn với các nước; một xã hội do nhân dân làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Di chúc cũng chỉ rõ phương thức đi lên chủ nghĩa xã hội, phác thảo kế hoạch hành động của Đảng và nhân dân ta sau khi chiến tranh kết thúc, coi trọng khắc phục hậu quả, hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi, phát triển các ngành nghề, đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực trẻ kế cận sự nghiệp cách mạng, tạo mọi điều kiện cho người dân có động lực phấn đấu, vươn lên trở thành những con người mới, chủ nhân của xã hội tiến bộ. Đặc biệt, Di chúc khái quát hết sức cô đọng, sâu sắc về yêu cầu đổi mới và sự nghiệp đổi mới của Đảng, con đường cần thiết, tất yếu khi đất nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội từ xuất phát điểm, tiềm lực quốc gia còn yếu - “một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”. 

Người yêu cầu, Đảng cần có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế, văn hóa, lấy văn hóa chính trị của Đảng Cộng sản và văn hóa trong thể chế Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân làm sức mạnh tiêu biểu, nêu gương, thuyết phục nhân dân. Đây là yếu tố then chốt trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Ba là, điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội. 

Xuyên suốt bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội luôn hòa quyện, gắn kết và được phản ánh một cách rõ nét, logic, biện chứng. Độc lập dân tộc là mục tiêu quan trọng hàng đầu, là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu chiến lược, là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc đích thực, triệt để, song cần có các điều kiện bảo đảm: 

 - Phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đoàn kết, thống nhất. Có như vậy, Đảng mới bảo đảm và phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu, năng lực, sức mạnh, sức chiến đấu, khả năng lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”. 

- Phải phát huy được sức mạnh của quần chúng nhân dân, đặc biệt là phát huy tinh thần, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. “Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”. 

- Phải đặt cách mạng Việt Nam trong mối liên hệ mật thiết với cách mạng thế giới, gắn bó chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam cũng đều là thắng lợi và thành tựu chung của cách mạng thế giới. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to - là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc... Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình".

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong mọi tiến trình cách mạng. Trong lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bước sang giai đoạn tiến công mạnh mẽ, ngày chiến thắng của dân tộc Việt Nam đang đến gần, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mãi mãi đi xa, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho toàn Đảng và toàn dân tộc. Thực hiện Di chúc của Người, Đảng và nhân dân ta quyết tâm “Giương cao mãi mãi ngọn cờ độc lập dân tộc, quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước... Đem hết sức mình tiếp tục phấn đấu thực hiện lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa cao đẹp mà Người đã vạch ra cho giai cấp công nhân và nhân dân ta, đem lại phồn vinh cho đất nước, hạnh phúc cho đồng bào”, kiên định, kiên trung, kiên quyết, không chùn bước, dao động.

Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trên cả hai miền Nam - Bắc, nhân dân ta “anh dũng phấn đấu, hăng hái vươn lên, đạp bằng mọi trở lực, chông gai”, đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tạo chỗ dựa vững chắc cho tiền tuyến, phát triển cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam, làm nên cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đưa non sông về một mối. Đất nước đã thống nhất hoàn toàn trên phương diện thể chế, chế độ chính trị, đưa cả nước tiến lên theo con đường chủ nghĩa xã hội, bảo toàn trọn vẹn thành quả của Cách mạng Tháng Tám, hoàn thành di nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn”.

Thắng lợi này một lần nữa khẳng định sự lựa chọn đúng đắn của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và dân tộc ta về mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, cho thấy sự phù hợp về cả lý luận và thực tiễn của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong kỷ nguyên mới. Khẳng định độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để xây dựng và phát triển đất nước, và độc lập dân tộc chỉ được bảo đảm khi gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Giành được độc lập mà không đi lên chủ nghĩa xã hội không những không bảo vệ được độc lập dân tộc mà còn không thể mang lại tự do, hạnh phúc thực sự cho nhân dân. Vì vậy, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quan điểm, phương châm, nguyên tắc nhất quán, xuyên suốt và tất yếu.

Đất nước thống nhất, hòa bình lập lại, song vẫn phải đối mặt với những hậu quả nặng nề của cuộc chiến tranh chống thực dân, đế quốc. Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng trước mắt là cần tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng, kỹ thuật, tạo tiền đề cơ bản để tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Đảng ta lãnh đạo triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ nhất (1976 - 1980) và 5 năm lần thứ hai (1981 - 1985). Hạ tầng kinh tế - xã hội, các cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, y tế, giáo dục - đào tạo, giao thông, thủy lợi từng bước được khôi phục và mở rộng. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể được quan tâm phát triển, đóng góp quan trọng vào sự phục hồi của nền kinh tế quốc dân, tạo bước đi cần thiết cho những giai đoạn tiếp theo.

Bước vào giai đoạn đổi mới đất nước, trước những yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện đất nước đã hòa bình, giải quyết những bất cập của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, nhất là sau sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu, trên tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, “đổi mới tư duy”, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đánh dấu bước ngoặt quan trọng, mở ra chương mới cho sự phát triển của đất nước. Đại hội khẳng định: Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đồng thời đóng góp tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 nêu rõ: Toàn Đảng, toàn dân ta tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau.

 Đến nay, sau gần 40 năm đổi mới, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Nổi bật trên các khía cạnh: 

 (1) Lý luận về đường lối đổi mới, chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng hoàn thiện về mô hình, mục tiêu, đặc trưng, phương hướng, các mối quan hệ lớn mang tính quy luật cũng như những bước đi của thời kỳ quá độ. Tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là lựa chọn tất yếu, phù hợp với thực tiễn và xu thế phát triển của thời đại, tạo động lực phát triển toàn diện đất nước trong thời kỳ mới. Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, nhưng có thể khẳng định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. 

(2) Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là bước đột phá rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, tạo ra bước đi cần thiết cho thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Phát triển con người và xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trở thành nền tảng, sức mạnh nội sinh, bảo đảm cho sự phát triển bền vững. Bảo đảm quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, kết hợp với phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, ngay từ khi “nước chưa nguy”. Xây dựng đường lối đối ngoại mang đậm bản sắc “Cây tre Việt Nam”, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng.

Từ một nước nghèo, lạc hậu, bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình. Hiện nay, Việt Nam nằm trong nhóm 40 nước có quy mô kinh tế hàng đầu thế giới, với GDP tính theo giá hiện hành tương đương 430 tỷ USD; GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành tương đương 4.300 USD, tăng 58 lần so với những năm đầu đổi mới. Trong 6 tháng đầu năm 2024, tăng trưởng GDP đạt 6,42% - mức cao trên thế giới và khu vực; chỉ số giá tiêu dùng CPI tăng 4,08%; FDI đạt gần 15,2 tỷ USD; tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 368,5 tỷ USD; khách quốc tế đến Việt Nam đạt 8,83 triệu lượt. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam xếp thứ 107/193 quốc gia, vùng lãnh thổ; Chỉ số hạnh phúc (WHI) xếp thứ 54/143. Từ một nước bị bao vây, cấm vận, đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia và vùng lãnh thổ; có quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với 30 quốc gia, trong đó có quan hệ đối tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với cả 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, 7 nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G7), 17/20 nền kinh tế lớn nhất thế giới (G20). Đảng Cộng sản Việt Nam có quan hệ với 253 chính đảng ở 115 quốc gia trên thế giới. Quốc hội Việt Nam có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 quốc gia. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và các tổ chức nhân dân có quan hệ đối ngoại với 1.200 tổ chức nhân dân và đối tác nước ngoài. 

(3) Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch vững mạnh. Nhận thức ngày càng sâu sắc hơn bản chất, tính cách mạng, tiên phong và vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng trong điều kiện mới, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được tiến hành mạnh mẽ, kiên quyết, kiên trì, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ. 

(4) Đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Khẳng định bản chất nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đổi mới phương thức vận hành của Nhà nước bảo đảm phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.

3. Trong những năm tới, tình hình thế giới tiếp tục có những diễn biến rất nhanh, phức tạp, khó dự báo. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gia tăng, trật tự thế giới “đa cực, đa trung tâm” định hình rõ nét, chi phối mạnh mẽ quan hệ quốc tế; các nước vừa và nhỏ sẽ phải chịu sức ép “chọn bên”. Nguy cơ xuất hiện các cuộc chiến tranh, xung đột cục bộ, chạy đua vũ trang ngày càng rõ rệt. Cộng đồng quốc tế phải đối phó quyết liệt với các thách thức an ninh truyền thống, phi truyền thống, đặc biệt là an ninh mạng và các hình thái chiến tranh kiểu mới... ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh các nước. 

Đất nước ta sau gần 40 năm đổi mới đã đạt nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; dự báo đến năm 2045 sẽ tiếp tục có những bước tiến khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực, phấn đấu trở thành nước phát triển, thu nhập cao, giàu mạnh, dân chủ, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc..., tạo tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ lớn được Đảng ta chỉ ra từ Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp hơn. Cạnh tranh giữa các nước lớn gia tăng, đặt ra những thách thức đối với Việt Nam trong việc giữ vững độc lập, tự chủ, hòa bình, ổn định để phát triển. Những thách thức từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; vấn đề giữ vững bản sắc văn hóa, truyền thống; cuộc đấu tranh tư tưởng ngày càng phức tạp, quyết liệt... đang đặt ra những yêu cầu mới về cả lý luận và thực tiễn đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trong tình hình mới.

Phát huy những thành tựu đạt được, thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là quan điểm chỉ đạo cốt lõi, cần tiếp tục được quán triệt trong cả nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta để “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Trên tinh thần đó, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp sau: 

 

Một là, kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc: Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về đường lối của Đảng; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 

Hai là, tiếp tục coi trọng tổng kết thực tiễn, hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, như: Về công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam; về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; về quốc phòng, an ninh, đối ngoại..., từ đó xác định bước đi, định hướng lớn của Đảng, đất nước, hướng đến mục tiêu quan trọng trong những thập kỷ tiếp theo. 

Ba là, đẩy mạnh đổi mới toàn diện, đồng bộ và sâu sắc hơn nữa mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế phát triển nhanh và bền vững, trong đó thể chế chính trị đóng vai trò định hướng “vượt trước”; thể chế kinh tế đóng vai trò trung tâm; thể chế xã hội đóng vai trò điều tiết hài hòa xã hội; thể chế bảo vệ môi trường sinh thái đóng vai trò bảo đảm sự phát triển hài hòa với tự nhiên. Sự đúng đắn, hợp lý và đồng bộ trong thể chế phát triển là điều kiện bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững. Lấy phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là động lực, nguồn lực thúc đẩy công cuộc đổi mới đất nước. Chú trọng phát huy “sức mạnh mềm” của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết hiệu quả mối quan hệ giữa văn hóa với chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. 

Bốn là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong điều kiện mới, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả, bám sát thực tiễn, đáp ứng yêu cầu toàn diện trong giai đoạn mới. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.

Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về mọi mặt, có đủ năng lực, uy tín đảm đương sứ mệnh lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới, đưa đất nước vững bước tiến lên, phát triển nhanh và bền vững; giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng; phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là của người đứng đầu. 

Thực hiện nghiêm túc và có kết quả, hiệu quả Quy định số 144-QĐ/TW, ngày 9-5-2024, của Bộ Chính trị, về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới, gắn với thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị khóa XII, về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đặc biệt coi trọng công tác đấu tranh phòng, chống, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; chủ nghĩa cơ hội, xét lại, giáo điều, bảo thủ, bè phái. 

Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo phương châm “không ngừng, không nghỉ, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai; truy tố một vụ, cảnh tỉnh cả vùng, cả lĩnh vực”. Kịp thời cho từ chức, miễn nhiệm, thay thế những cán bộ bị kỷ luật, năng lực hạn chế, uy tín giảm sút, đưa việc “có lên, có xuống, có vào, có ra” trở thành văn hóa, việc làm bình thường trong công tác cán bộ.

Năm là, tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, bảo đảm có đủ sức mạnh để đấu tranh, phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi từ sớm, từ xa những nhân tố bất ổn dẫn đến các tình huống đe dọa quốc phòng, an ninh. Kiên định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; kiên định lập trường, quan điểm và thực hành nghệ thuật ngoại giao thời đại mới trên cơ sở cốt cách con người Việt Nam “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “hòa hiếu”, “lấy chí nhân thay cường bạo”. Đẩy mạnh đối ngoại quốc phòng, an ninh, phát huy kế sách giữ nước bằng biện pháp hòa bình; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp, vị thế đất nước, theo phương châm “tích cực, chủ động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả”. 

Sáu là, đổi mới, nâng cao chất lượng công tác dự báo, hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bảo đảm đồng bộ, thống nhất, toàn diện, trọng tâm, trọng điểm, bám sát thực tiễn, khả thi, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, lấy hạnh phúc của nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước làm mục tiêu phấn đấu.

Có thể khẳng định, tư tưởng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa lịch sử và thời đại vô cùng sâu sắc. Hiểu rõ điều đó, 55 năm qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta luôn kiên định, nỗ lực phấn đấu thực hiện những chỉ dẫn quý báu của Người trong Di chúc, đưa nước ta không ngừng vươn lên mạnh mẽ, ngày càng khẳng định uy tín, vị thế quốc tế, có đóng góp quan trọng vào những thành tựu chung của phong trào cách mạng thế giới. Đặc biệt, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội sẽ mãi trường tồn, là ngọn đèn soi sáng, dẫn dắt dân tộc ta luôn tiến về phía trước trên hành trình hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, dân chủ, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. “Chúng ta nguyện suốt đời trung thành với Người, đem hết tâm hồn và nghị lực, đoàn kết thành một khối sắt thép, phấn đấu quên mình, quyết làm tròn nghĩa vụ cao cả vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân ta và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới”./.

ST.

 

 HÀ NỘI SỚM MÙA THU TẾT ĐỘC LẬP

Chào mừng kỷ niệm 79 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2-9-1945 / 2-9-2024), Thủ đô Hà Nội như khoác lên mình một bộ áo mới với sắc đỏ rực rỡ của cờ Tổ quốc tung bay trên khắp các tuyến đường.

Mùa thu Hà Nội luôn mang đến cho người ta cảm giác trong trẻo và yên bình, nhưng sáng 1-9, trong dịp Lễ Quốc khánh lại có một sức sống và khí chất đặc biệt, khó quên. Đó là khi thành phố như sáng bừng trong sắc đỏ rực rỡ của quốc kỳ, giữa những tiếng cười nói rộn ràng, hân hoan. Khắp các con phố, từ những khu phố cổ như Hàng Đào, Hàng Ngang đến những quảng trường rộng lớn như Ba Đình, Hồ Gươm, người dân Hà Nội nô nức trong những bộ áo dài truyền thống hay áo in hình cờ đỏ sao vàng. Họ đổ ra đường để tận hưởng không khí lễ hội, để lưu lại khoảnh khắc của sự kiện lịch sử thiêng liêng, và để bày tỏ niềm tự hào dân tộc một cách giản dị mà sâu sắc.

Năm nào cũng vậy, dịp 2-9, Hà Nội tràn ngập trong một màu đỏ tươi thắm, hòa quyện với sắc vàng của nắng thu. Các gia đình, cặp đôi và cả những người bạn cùng nhau rảo bước trên phố, chọn cho mình những góc đẹp để chụp ảnh. Người ta dễ dàng bắt gặp hình ảnh những cô gái trong tà áo dài trắng, tóc bay nhẹ trong gió, tay cầm chiếc nón lá, nở nụ cười tươi rói, những bạn trẻ mặc trang phục những năm 1945 thực hiện bộ ảnh tái hiện lại một Hà Nội những ngày vui mừng "không ngủ". Bên cạnh đó là các em nhỏ mặc áo cờ đỏ sao vàng, ánh mắt trong sáng, tay vẫy quốc kỳ, tạo nên một bức tranh vừa bình dị vừa đầy tự hào.

Cùng nhau ghi lại khoảnh khắc đẹp còn là cách để bày tỏ tình yêu với quê hương, đất nước. Những bức ảnh, từ những chiếc điện thoại thông minh cho đến những máy ảnh chuyên nghiệp, đều như muốn nói lên niềm tự hào về một Hà Nội đang phát triển nhưng không quên những giá trị truyền thống, những trang sử hào hùng. Mỗi nụ cười, mỗi ánh mắt, mỗi trang phục in cờ Tổ quốc đều mang một thông điệp mạnh mẽ tự hào về Việt Nam, về ngày độc lập hôm nay và cả tương lai.

Mỗi bước đi trên các con phố, người dân như cảm nhận được hơi thở của lịch sử, của những người đã ngã xuống vì độc lập tự do, của những thế hệ đã cùng nhau vượt qua biết bao khó khăn, gian khổ. Ngày Quốc khánh trong lòng người dân Hà Nội là một ngày thu đặc biệt. Sáng mùa thu Hà Nội rực rỡ, tự hào và mãi vươn lên, như chính lòng yêu nước của con người nơi đây./. 

Báo QĐND

NHỮNG NỘI DUNG CỐT LÕI TRONG DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Ngày 2/9/1969, từ biệt thế giới này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta một di sản vô cùng quý giá - bản Di chúc lịch sử, một văn kiện ở tầm cương lĩnh về sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam, định hướng cho tương lai phát triển của dân tộc. 55 năm đã qua (1969-2024), Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn đồng hành cùng dân tộc, soi rọi, dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và anh hùng cách mạng Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.

TTXVN