Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2024

Không thể xuyên tạc, phủ nhận thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo

Thời gian qua, các báo cáo nhân quyền, tôn giáo của một số nước phương Tây thường xuyên có nội dung xuyên tạc, vu cáo “chính quyền Việt Nam giới hạn tự do tôn giáo”. Đây là sự bịa đặt, vu cáo trắng trợn hòng phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. Vì vậy, cần làm rõ những luận điệu xuyên tạc để chứng minh Việt Nam luôn bảo đảm và thực hiện đầy đủ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch, phản động không từ bỏ bất cứ thủ đoạn thâm hiểm nào nhằm chống phá cách mạng Việt Nam. Một trong những thủ đoạn thâm hiểm đó là lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá, coi đây là “mũi đột phá” hướng đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Trong những năm gần đây, Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ (USCIRF) - cơ quan tham vấn được thành lập theo Luật về Tự do tôn giáo quốc tế năm 1998, vẫn định kỳ đưa ra báo cáo nhận xét, đánh giá, phê phán về tình hình nhân quyền và tự do tôn giáo của một số quốc gia, trong đó có Việt Nam. Theo USCIRF, việc “cải thiện nhân quyền” ở một số nước không đi theo quỹ đạo của Mỹ nên “cần được quan tâm đặc biệt”. Từ năm 2012 đến nay, USCIRF liên tục đề nghị đưa Việt Nam vào danh sách “các nước cần quan tâm đặc biệt, viết tắt là CPC” bất chấp thành tựu về bảo đảm các quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Tháng 5-2023, USCIRF tiếp tục khuyến nghị Bộ Ngoại giao Mỹ đưa Việt Nam vào “danh sách CPC”, khi cho rằng Việt Nam đã “tăng cường kiểm soát và đàn áp”, “đàn áp tôn giáo một cách nghiêm trọng”, “sách nhiễu, bức hại”, “ép buộc”, “tước đoạt tài sản”...

Sự tiếp cận, đánh giá thiếu thiện chí, thiếu khách quan của một số cá nhân trong Bộ Ngoại giao Mỹ và các đối tượng thù địch, phản động trong USCIRF đã vi phạm Khoản 7, Điều 2 Hiến chương Liên hợp quốc: “Tổ chức Liên hợp quốc không có quyền can thiệp vào công việc thực chất thuộc thẩm quyền nội bộ của bất kỳ quốc gia nào”. Theo đó, đòi hỏi không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác cũng là nghĩa vụ đặt ra cho tất cả thành viên cộng đồng quốc tế(1).

Những luận điệu xuyên tạc, vu cáo trắng trợn trên không những không phản ánh đúng sự ghi nhận và bảo đảm của luật pháp Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; không phản ánh đúng bản chất tình hình thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, mà còn cố tình phớt lờ thành tựu của Việt Nam trong tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Âm mưu sâu xa, mục đích chính trị đen tối của các thế lực thù địch, phản động là tiến hành tổng thể biện pháp nhằm tạo dựng nhiều điểm nóng về tín ngưỡng, tôn giáo để gây ra bất ổn về chính trị, văn hóa, xã hội ở các địa phương trong cả nước. Cùng với đó, lợi dụng “ngòi nổ” tín ngưỡng, tôn giáo để kích động mâu thuẫn giữa các tôn giáo với nhau, giữa người theo đạo và người không theo đạo, giữa các tôn giáo với chính quyền các cấp; từ đó, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tiến tới can thiệp vào công việc nội bộ, chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam, gây tổn hại đến công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay.

Thực tế cho thấy, thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được dựa trên các cơ sở khoa học sau:

Thứ nhất, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam luôn được tôn trọng và bảo vệ, thể hiện rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam từ ngày thành lập nước đến nay, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế.

Trong luật pháp và thông lệ quốc tế, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị và là một trong những quyền cơ bản của con người, được ghi nhận trong luật pháp, thông lệ quốc tế cũng như trong pháp luật nhiều nước trên thế giới. Khoản 3, Điều 1, Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 nhấn mạnh: “Thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hóa và nhân đạo và khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền của con người và các tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”. Tuyên ngôn thế giới về quyền con người được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1948 - một văn kiện quan trọng trong lịch sử hình thành quy định về quyền con người, được soạn thảo bởi các đại diện có nền tảng pháp lý và văn hóa khác nhau từ các khu vực trên thế giới, được coi như một tiêu chuẩn chung cho tất cả quốc gia, dân tộc và mọi người, lần đầu tiên đặt ra các quyền cơ bản của con người phải được bảo vệ trên toàn cầu, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 không chỉ áp dụng với các quốc gia thành viên Liên hợp quốc, mà còn áp dụng với các vùng lãnh thổ thuộc quyền tài phán của các quốc gia này. Điều 18 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 nêu rõ: “Ai cũng có quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo; quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng và quyền tự do biểu thị tôn giáo hay tín ngưỡng qua sự giảng dạy, hành đạo, thờ phụng và nghi lễ, hoặc riêng mình hoặc với người khác, tại nơi công cộng hay tại nhà riêng”. Khoản 1 và Khoản 2, Điều 18 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1966 mà Việt Nam đã phê chuẩn năm 1982, nêu rõ: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn, và tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng đồng với những người khác, công khai hoặc kín đáo, dưới các hình thức như thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và truyền giảng. Không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn hoặc tin theo tôn giáo hoặc tín ngưỡng của họ”.

Nhìn tổng quát, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được các văn bản quốc tế quy định ở các nội dung, như tuyên bố sự tồn tại của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; mọi người được thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo một cách công khai một mình hay trong cộng đồng; nghiêm cấm sự phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.

 Đại lễ Hội Yến Diêu Trì Cung - Nét đẹp văn hóa của tôn giáo Cao Đài (ảnh: Lê Tấn Phát) _Nguồn: nhiepanhdong.vn

Chiểu theo pháp luật và thông lệ quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, các văn bản quy phạm pháp luật mà Việt Nam đã phù hợp với quy định của pháp luật và thông lệ quốc tế về quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo. Cụ thể, về phương diện Hiến pháp, Điều 10 Hiến pháp năm 1946 nhấn mạnh: “Công dân Việt Nam có quyền: tự do ngôn luận; tự do xuất bản; tự do tổ chức và hội họp; tự do tín ngưỡng; tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”; Điều 26 Hiến pháp năm 1959 quy định: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có các quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”. Điều 68 Hiến pháp năm 1980 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước”. Điều 70 của Hiến pháp năm 1992 khẳng định: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật”. Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung các quy định về quyền con người, trong đó khẳng định rõ hơn việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, được ghi tại Điều 16: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội” và tại Khoản 1, 2, Điều 24 khẳng định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”. Đây là cơ sở pháp lý cao nhất của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, là cơ sở để Nhà nước Việt Nam ban hành các văn bản pháp luật trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trên thực tế.

Các văn bản quy phạm pháp luật dưới Hiến pháp cũng thể hiện sự nhất quán trong việc tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Đơn cử như, Điều 1 Sắc lệnh số 234/SL, ngày 14/6/1955, về vấn đề tôn giáo, do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành, khẳng định: “Chính phủ bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng của nhân dân. Không ai được xâm phạm đến quyền tự do ấy. Mọi người Việt Nam đều có quyền tự do theo một tôn giáo hoặc không theo một tôn giáo nào”; Điều 15 Sắc lệnh số 234/SL nêu rõ: “Việc tự do tín ngưỡng, tự do thờ cúng là một quyền lợi của nhân dân. Chính quyền dân chủ cộng hòa luôn luôn tôn trọng quyền lợi ấy và giúp đỡ nhân dân thực hiện”. Điều 1 Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, được Quốc hội thông qua ngày 18/6/2004, nêu rõ: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy”. Đây là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất điều chỉnh trực tiếp lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo kể từ sau Sắc lệnh số 234/SL. Để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, ngày 18/11/2016, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo được thông qua tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa XIV với 9 chương, 8 mục và 68 điều quy định rõ về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo; tổ chức tôn giáo; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo, áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Thậm chí, những người đang bị tạm mất quyền công dân cũng có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tại Khoản 5, Điều 6, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 chỉ rõ: “Người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo”.

Có thể thấy, hệ thống chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam thể hiện sự liên tục, nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam, phù hợp với các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, đồng thời đáp ứng nguyện vọng của người theo tín ngưỡng, tôn giáo.

Thứ hai, hệ thống văn bản, quy định về tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn, dân chủ hơn, tôn trọng, tạo điều kiện tốt nhất cho các chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo và tổ chức tôn giáo hợp pháp phát triển một cách lành mạnh, công bằng, bình đẳng trước pháp luật.

Ngày 3/9/1945, chủ trì phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời bàn về sáu vấn đề cấp bách, trong đó có vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng bào giáo và đồng bào lương, để dễ thống trị. Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: TÍN NGƯỠNG TỰ DO và lương giáo đoàn kết”(2). Tiếp đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký hai sắc lệnh về tín ngưỡng, tôn giáo, bao gồm Sắc lệnh số 35/SL, ngày 20/9/1945, quy định “Đền chùa, lăng tẩm, nhà thờ, tất cả các nơi có tính cách tôn giáo, bất cứ tôn giáo nào, nhân dân đều phải tôn trọng không được xâm phạm” và Sắc lệnh số 65/SL, ngày 23/11/1945, ấn định nhiệm vụ cho Đông phương Bác Cổ học viện nhiệm vụ bảo tồn tất cả cổ tịch trong toàn cõi Việt Nam.

Tiếp nối Sắc lệnh số 35/SL và Sắc lệnh số 65/SL, đến nay, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã ban hành hơn 30 văn bản về tín ngưỡng, tôn giáo nhằm đáp ứng nhu cầu về đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Để khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam ở tính pháp lý cao nhất, kể từ khi Quốc hội được thành lập đến nay, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân đã được khẳng định tại 5 bản Hiến pháp, bao gồm Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013. Nhiều văn bản quan trọng khác đã được ban hành (3). Đặc biệt, tại kỳ họp thứ hai, khóa XIV, ngày 18/11/2016, Quốc hội đã ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (có hiệu lực từ năm 2018). Đây là sự cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về các điều, khoản quy định về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Với 9 chương, 8 mục và 68 điều quy định rõ về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; hoạt động của tín ngưỡng, tôn giáo; tổ chức tôn giáo; quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định cụ thể trách nhiệm, thẩm quyền của Chính phủ, bộ, ngành, Ủy ban nhân dân, cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo các cấp trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong việc tập hợp đồng bào theo tín ngưỡng, tôn giáo và đồng bào không theo tín ngưỡng, tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh đó, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo cũng quy định về nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo...

Từ những vấn đề trên, có thể khẳng định hệ thống văn bản, quy định về tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn, dân chủ hơn, đáp ứng nhu cầu đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của mọi công dân Việt Nam; đồng thời, thể hiện chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam về tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tạo điều kiện tốt nhất cho các chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo và tổ chức tôn giáo hợp pháp phát triển một cách lành mạnh, công bằng và bình đẳng trước pháp luật.

Thứ ba, để bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và ước nguyện sống “tốt đời, đẹp đạo” của mỗi tín đồ tôn giáo, pháp luật Việt Nam thể hiện tính nghiêm trị hành vi lợi dụng tôn giáo, xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác.

Ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đều được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật, không thể có sự tự do vô chính phủ, tự do vô nguyên tắc(4). Điều này thể hiện rõ trong Khoản 3, Điều 18 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc năm 1966. Điều này cho thấy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là vấn đề gắn với thể chế chính trị - xã hội và điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội ở từng quốc gia, dân tộc cụ thể, không thể tồn tại một khái niệm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo chung chung, trừu tượng. Cũng không thể đem giá trị, quan niệm về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở một quốc gia, dân tộc này để áp dụng, đo lường hoặc đánh giá mức độ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở một quốc gia, dân tộc khác. Trên phương diện đối ngoại giữa các quốc gia, dân tộc, không thể đem tiêu chuẩn về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở quốc gia, dân tộc này để áp đặt lên một quốc gia, dân tộc khác và buộc họ tuân theo.

Theo đó, Khoản 3, Điều 24, Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016, quy định tại Khoản 1, Điều 3: “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật”; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 cũng quy định rõ tại Điều 5 về các hành vi bị nghiêm cấm đối với tín ngưỡng, tôn giáo, như phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo...

Việc xác định tội xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người khác được quy định tại Điều 164 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): 1- Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác ngăn cản hoặc ép buộc người khác thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm; 2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 1 năm đến 3 năm: có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; phạm tội 2 lần trở lên; dẫn đến biểu tình; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; 3- Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm.

Thứ tư, những năm gần đây, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam được bảo đảm trên thực tế là minh chứng sinh động về sự tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.

Trong đời sống thực tế của xã hội Việt Nam hiện nay thể hiện rõ sự đa dạng, hòa hợp và bình đẳng tôn giáo, được pháp luật bảo vệ, tôn trọng; mọi người hoàn toàn tự do lựa chọn theo hoặc không theo một tín ngưỡng, tôn giáo nào; không có tôn giáo nào giữ vị trí độc tôn, mà đều tồn tại đan xen với nhau; các chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo tích cực tham gia các phong trào xã hội, từ thiện xóa đói, giảm nghèo, đóng góp thiết thực vào sự phát triển chung của đất nước.

Theo số liệu được công bố của Ban Tôn giáo Chính phủ cho thấy, bên cạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo, trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân trên thực tế, đó là:

Tổ chức tôn giáo được tạo điều kiện hoạt động theo hiến chương, điều lệ và quy định của pháp luật Việt Nam nhằm bảo đảm và tạo điều kiện để các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo được diễn ra bình thường với quy mô lớn, thu hút đông đảo tín đồ tham dự. Hiện nay, cả nước đã có 3.700 điểm nhóm được chấp thuận đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung, hơn 6.500 người được phong phẩm, suy cử làm chức sắc; 16.783 người được bổ nhiệm, bầu cử, suy cử làm chức việc; 62 cơ sở đào tạo tôn giáo tại 36 tỉnh, thành phố; 15 tờ báo và tạp chí của các tổ chức tôn giáo đang hoạt động, đồng thời phần lớn tổ chức tôn giáo đều có trang web riêng để phục vụ việc sinh hoạt đạo, truyền bá tôn giáo. Chức sắc, chức việc, nhà tu hành tôn giáo có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, được ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp như mọi công dân khác theo quy định của pháp luật. Quốc hội khóa XV có năm đại biểu là chức sắc, nhà tu hành tôn giáo. Theo số liệu thống kê của các tỉnh, thành phố, hiện nay có trên 10 nghìn chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo là đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026(5).

Tổ chức, cá nhân theo tôn giáo được tạo điều kiện tham gia hoạt động quốc tế. Tính từ năm 2011 đến nay, có khoảng gần 2.000 lượt cá nhân theo tôn giáo xuất cảnh tham gia khóa đào tạo ở nước ngoài, tham dự hội nghị, hội thảo quốc tế liên quan đến tôn giáo; gần 500 đoàn khách nước ngoài với hơn 3.000 lượt người vào Việt Nam để trao đổi, giao lưu, hướng dẫn đạo tại cơ sở tôn giáo ở Việt Nam, tham dự các sự kiện tôn giáo do các tổ chức tôn giáo Việt Nam tổ chức, trong đó có nhiều hoạt động tôn giáo quốc tế lớn được tổ chức trọng thể, thành công ở Việt Nam và được dư luận quốc tế đánh giá cao, như Hội nghị Liên hội đồng Giám mục Á Châu (năm 2012), Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc Vesak (ba lần: năm 2008, 2014, 2019 và dự kiến tổ chức vào năm 2025); Tổng hội Dòng Đa minh thế giới được tổ chức tại huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai (năm 2019)... Các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam còn tích cực tham gia các hội nghị, diễn đàn tôn giáo khu vực và quốc tế, như Đối thoại liên tín ngưỡng Á - Âu (ASEM), Đối thoại liên tín ngưỡng khu vực châu Á - Thái Bình Dương...

Các tổ chức, cá nhân theo tôn giáo được khuyến khích, tạo điều kiện tham gia các hoạt động an sinh xã hội. Hiện nay, cả nước có khoảng 300 trường mầm non, 2.000 lớp học tình thương, 12 cơ sở dạy nghề, trên 500 cơ sở khám, chữa bệnh từ thiện của các tổ chức tôn giáo, được thành lập dưới nhiều hình thức khác nhau; gần 800 cơ sở bảo trợ xã hội của các tổ chức Phật giáo, Công giáo, Cao đài,... đang nuôi dưỡng trên 12 nghìn trẻ em mồ côi, tàn tật, người già cô đơn, bệnh nhân tâm thần, HIV/AIDS(6). Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã gặp mặt, biểu dương các tổ chức tôn giáo có đóng góp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (năm 2016, 2019, 2022). Tại các buổi gặp mặt, các tôn giáo bày tỏ sự nhất trí đồng thuận với Đảng, Nhà nước và mong muốn được đóng góp công sức trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững độc lập, chủ quyền lãnh thổ.

Mặt khác, nhiều sự kiện tôn giáo nổi bật đã được ghi nhận. Đơn cử như, đối với Phật giáo, năm đầu tiên của nhiệm kỳ IX (2022 - 2027), Hội đồng Trị sự cũng như Giáo hội Phật giáo Việt Nam các tỉnh, thành phố tích cực triển khai các công việc của năm cũng như kế hoạch hoạt động của cả nhiệm kỳ. Đối với hoạt động quốc tế, đoàn Giáo hội Phật giáo Việt Nam tham dự Hội nghị thượng đỉnh Phật giáo toàn cầu vào cuối tháng 4-2023 tại Ấn Độ do Bộ Văn hóa Ấn Độ phối hợp với Liên đoàn Phật giáo quốc tế tổ chức. Ngoài ra, Giáo hội Phật giáo Việt Nam còn cử nhiều đoàn ra nước ngoài tham dự hội nghị, hội thảo...

Đối với Công giáo, bên cạnh các hoạt động thường kỳ, như Hội nghị thường niên của Hội đồng Giám mục Việt Nam, một sự kiện nổi bật trong đời sống Công giáo ở Việt Nam những năm gần đây, cụ thể năm 2023 là việc nâng cấp quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Tòa thánh Va-ti-căng, với việc ký kết “Thỏa thuận về Quy chế hoạt động của Đại diện thường trú Tòa thánh và Văn phòng Đại diện thường trú của Tòa thánh tại Việt Nam”.

Đối với đạo Tin Lành, tháng 3-2023, đạo Tin Lành Việt Nam đã tổ chức Chương trình truyền giảng với chủ đề “Xuân yêu thương” tại Thành phố Hồ Chí Minh. Chương trình do các Hội Thánh Tin Lành tại Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với mục sư Ph. Gra-ham (Franklin Graham) tổ chức, cùng hơn 2.000 tình nguyện viên. Sự kiện đáng chú ý của đạo Tin Lành là một số Hội thánh Tin Lành có những hoạt động để tiến tới được công nhận là pháp nhân.

Đối với các tôn giáo nội sinh, các tôn giáo nội sinh hoạt động bình thường theo đúng chương trình hành đạo đã đăng ký với chính quyền. Đáng chú ý, năm 2023 là năm chuẩn bị các công việc cho đại lễ kỷ niệm lớn của một số tôn giáo nội sinh, như 100 năm ngày thành lập Minh lý đạo - Tam Tông miếu (năm 2024), các Hội thánh của đạo Cao Đài cũng sẽ kỷ niệm 100 năm ngày khai đạo (năm 2026) hay 90 năm của Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam (năm 2024),... đồng thời, các tôn giáo nội sinh vẫn thực hiện các nghi lễ theo đúng lịch lễ nghi của đạo trong một năm. Các hoạt động tôn giáo ổn định, chấp hành tốt quy định của pháp luật của Nhà nước(7).

Như vậy, pháp luật Việt Nam về quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo không chỉ phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế, mà còn đáp ứng nguyện vọng của cá nhân tham gia đời sống tín ngưỡng, tôn giáo với ước nguyện sống “tốt đời, đẹp đạo”. Do đó, những hoạt động lén lút, lợi dụng tôn giáo, trái với văn hóa truyền thống Việt Nam, nhuốm màu mê tín dị đoan, có dấu hiệu trục lợi, vi phạm pháp luật, đi ngược lại đạo đức xã hội... phải bị lên án, xử lý nghiêm. Có thể khẳng định dứt khoát rằng, ở Việt Nam hoàn toàn không có chuyện “chính quyền Việt Nam giới hạn tự do tôn giáo”, “đàn áp tôn giáo” như các thế lực thù địch, phản động thường rêu rao. Những luận điệu xuyên tạc, vu cáo đó chỉ là chiêu trò mà các thế lực thù địch, phản động lợi dụng, sử dụng nhằm phục vụ âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam hiện nay. Chính vì vậy, cũng như các nước khác, Việt Nam không chấp nhận việc lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước hay kích động bạo lực, chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, tôn giáo, gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự và tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân... Chính sách đó luôn được Nhà nước Việt Nam khẳng định và thực hiện nhất quán.

Những luận cứ trên là cơ sở pháp lý và thực tiễn phong phú, sinh động về những thành tựu bảo đảm và thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, là điều không ai có thể xuyên tạc, phủ nhận được. Trong thư của Giáo hoàng Phan-xi-cô gửi công đoàn Công giáo Việt Nam nhân dịp công nhận Thỏa thuận về Quy chế cho Đại diện thường trú của Tòa thánh Va-ti-căng vào ngày 8/9/2023, đã viết: “Dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau được xây dựng từng bước trong nhiều năm qua, và được củng cố bằng các chuyến thăm thường niên của phái đoàn Tòa thánh cũng như các cuộc họp của nhóm làm việc chung giữa Việt Nam và Tòa thánh, cả hai bên đã có thể cùng nhau tiến tới và sẽ còn tiến nữa, nhờ nhìn nhận những điểm tương đồng và tôn trọng những khác biệt. Hơn thế nữa, hai bên đã có thể đồng hành, lắng nghe nhau và hiểu nhau. Dù mỗi bên có sự khác biệt về lịch sử và kinh nghiệm sống, điều đó không thể ngăn cản cùng nhau đi tìm con đường tốt nhất để phục vụ thiện ích của dân tộc Việt Nam và Hội Thánh”(8). Vì vậy, có thể khẳng định dứt khoát rằng, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam không những phù hợp với các quy định của pháp luật và thông lệ quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, mà còn đáp ứng tâm tư, tình cảm và nguyện vọng chính đáng của các chức sắc, chức việc tôn giáo và đồng bào theo đạo, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Các luận điệu của các thế lực thù địch, phản động về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam không chỉ là sự thiếu thiện chí, cố tình xuyên tạc, vu cáo trắng trợn, phủ nhận thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm và thực hiện quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, mà còn đi ngược với pháp luật và thông lệ quốc tế, phải bị lên án mạnh mẽ và bác bỏ./.

Không thể xuyên tạc nhân tố chính trị tinh thần của đội ngũ sĩ quan trẻ trong Quân đội

Nhân tố chính trị tinh thần là cội nguồn sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của Quân đội ta. Vậy nhưng, các thế lực thù địch, phản động vẫn ra sức xuyên tạc, bóp méo sự thật, phủ định vai trò nhân tố chính trị tinh thần đối với cán bộ, chiến sĩ toàn quân, nhất là đội ngũ sĩ quan trẻ.

Mưu đồ “đổi trắng thay đen”

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng internet và mạng xã hội để đăng tải các bài viết có nội dung đả kích, xuyên tạc về nhân tố chính trị tinh thần trong cán bộ, chiến sĩ, tập trung hướng chống phá vào đối tượng sĩ quan trẻ. Hoạt động chống phá đó không tách bạch mà được lồng ghép, đan cài vào trong các thủ đoạn chống phá Đảng, Nhà nước nói chung và chống phá Quân đội nói riêng. Thủ đoạn phổ biến nhất của các thế lực thù địch, phản động vẫn là phát tán các tài liệu, bài viết, lồng ghép trộn lẫn thông tin thật - giả, dàn dựng các video clip tuyên truyền phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội; mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, truyền thống vẻ vang, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội; hạ thấp vị trí, vai trò nhân tố chính trị tinh thần đối với cán bộ, chiến sĩ; kêu gọi Quân đội “trung lập, đứng ngoài chính trị”. Cùng với đó, thông qua các trang mạng xã hội, các thế lực phản động tăng cường tuyên truyền để chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, ích kỷ từng bước thâm nhập vào một bộ phận sĩ quan trẻ.

Gần đây, lợi dụng quá trình đầu tư, hiện đại hóa Quân đội, các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc “Việt Nam đang chạy đua vũ trang”, đề cao vai trò vũ khí trang bị, phủ nhận giá trị của nhân tố con người, nhân tố chính trị tinh thần. Với chiêu trò suy diễn, dự đoán, các bài viết đặt câu hỏi về vai trò con người và vũ khí trong xây dựng Quân đội và bảo vệ Tổ quốc. Từ đó, “hiến kế” Việt Nam nên đi theo xu thế chung là mua sắm, hiện đại hóa vũ khí trang bị. Thậm chí, không ít bài viết còn đi sâu phân tích, dự đoán việc Việt Nam mua vũ khí của nước này, không mua của nước kia, nhằm tạo ra tâm lý bất an, hoang mang, mất niềm tin vào quá trình hiện đại hóa Quân đội của cán bộ, chiến sĩ, trong đó có đội ngũ sĩ quan trẻ.

Những “mưu hèn kế bẩn” đó từng bước thẩm thấu, dẫn đến việc mất phương hướng, dao động tư tưởng, mất niềm tin, tạo ra sự hoài nghi, đố kỵ trong một số cá nhân. Đồng thời, đưa đến nguy cơ làm mất niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào tinh thần, tư tưởng của đội ngũ sĩ quan trẻ. Mục tiêu của luận điệu chống phá đó là làm “mục ruỗng” từ bên trong mỗi cá nhân sĩ quan trẻ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, lạc hướng về chính trị, suy giảm tinh thần, ý chí chiến đấu, cống hiến ở lực lượng nòng cốt của các cơ quan, đơn vị trong toàn quân. Đây là lực lượng chiếm tỷ lệ lớn nhất trong cơ cấu độ tuổi của Quân đội, là những người trực tiếp tham gia thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm và những nhiệm vụ khác của các cơ quan, đơn vị trong toàn quân. Tuy nhiên, đội ngũ sĩ quan trẻ dễ bị tác động bởi mặt trái nền kinh tế thị trường, văn hóa ngoại lai, tệ nạn xã hội, sự chống phá của các thế lực thù địch,…

Trước hết, cả về lý luận và thực tiễn cần khẳng định, đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, con người là yếu tố quyết định, trong đó, phải chú trọng nhân tố chính trị tinh thần. Bởi vì, “trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường”(1). Ngay sau khi Quân đội ta thành lập, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã xác định nguyên tắc xây dựng Quân đội là “người trước súng sau”, “chính trị trọng hơn quân sự”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, dù phải đối đầu với những kẻ thù có ưu thế vượt trội về tiềm lực kinh tế, quân sự, khoa học kỹ thuật, song với ưu thế về sức mạnh chính trị tinh thần, quân và dân ta đã giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Những mưu đồ xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, phủ nhận vai trò, giá trị nhân tố chính trị tinh thần trong xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh là sự quy chụp, “đổi trắng thay đen”.

Hiện nay, xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh là yêu cầu cấp bách để bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Để hiện đại hóa Quân đội, việc mua sắm vũ khí trang bị là tất yếu nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu của toàn quân. Bởi vì, “Một đội quân giỏi nhất, những người trung thành nhất với sự nghiệp cách mạng cũng đều sẽ lập tức bị kẻ thù tiêu diệt, nếu họ không được vũ trang, tiếp tế lương thực và huấn luyện đầy đủ”(2). Đó không phải là “chạy đua vũ trang”, tuyệt đối hóa vũ khí, xem nhẹ yếu tố con người như các luận điệu xuyên tạc vẫn rêu rao. Đồng thời, đó cũng là con đường đúng đắn để thực hiện chính sách quốc phòng “4 không”, nhằm không lệ thuộc vào một nước nào trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc.

Khẳng định và phát huy nhân tố chính trị tinh thần của đội ngũ sĩ quan trẻ hiện nay

Nhân tố chính trị tinh thần là ưu thế tuyệt đối, cội nguồn sức mạnh quyết định khả năng hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ sĩ quan trẻ. Nhân tố chính trị tinh thần giữ vai trò quyết định trong việc nâng cao nhận thức, xây dựng và củng cố niềm tin, tình cảm và ý chí quyết chiến, quyết thắng của sĩ quan trẻ; giúp đội ngũ này vượt qua mọi khó khăn, thử thách, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, chủ động, sáng tạo trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và công tác; sử dụng hiệu quả vũ khí, trang bị kỹ thuật để giành thắng lợi. Đó còn là chất “keo kết dính” bền chặt mối quan hệ đồng chí - đồng đội, đoàn kết quân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong thực hiện nhiệm vụ.

Không thể phủ nhận thực tế hiện nay, do ảnh hưởng tiêu cực của internet, mạng xã hội, cơ chế thị trường; sự tác động của lối sống thực dụng, cá nhân chủ nghĩa,… cho nên, một bộ phận sĩ quan trẻ hoang mang dao động, lập trường tư tưởng không vững vàng, không yên tâm công tác. Vậy nhưng, nhờ được giáo dục, bồi đắp, rèn luyện nhân tố chính trị tinh thần, đại bộ phận sĩ quan trẻ đã luôn nêu cao trách nhiệm, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao; tiếp tục tô thắm thêm phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”; đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh hiện nay. Hình ảnh những sĩ quan trẻ theo “mệnh lệnh của trái tim”, xung phong ra tuyến đầu chống thiên tai, dịch bệnh, khắc phục hậu quả của bão lũ, cháy rừng,… là hiện thân của tinh thần, ý chí “sẵn sàng hi sinh để bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân”. Đó là những tấm gương không quản ngại gian khổ, vất vả, ngày đêm giữ vững biên cương bờ cõi, hải đảo của Tổ quốc; là những sĩ quan trẻ đang nỗ lực lan tỏa hình ảnh con người Việt Nam thân thiện, có trách nhiệm với cộng đồng thế giới trong tham gia thực hiện nhiệm vụ gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc.

 Niềm vui sau giờ huấn luyện của sĩ quan trẻ tại Nhà giàn DK1.(Ảnh: Đức Tuấn).

Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó đoán định; chiến tranh, xung đột, khủng bố liên tiếp xảy ra bởi những toan tính lợi ích địa - chiến lược nước lớn, đe dọa hòa bình, ổn định, phát triển của nhân loại; nhiều khu vực, quốc gia rơi vào vòng xoáy chiến tranh, xung đột, nội chiến triền miên, đất nước bị tàn phá nặng nề,... Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tạo ra thời cơ và đột phá trên nhiều lĩnh vực, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức. Các yếu tố an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, khủng bố, thiên tai, dịch bệnh vẫn tiếp diễn phức tạp; xuất hiện nhiều hình thái chiến tranh mới, làm thay đổi môi trường chiến lược, tác động sâu sắc tới mọi quốc gia. Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đẩy mạnh “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và thực hiện “phi chính trị hóa” quân đội ngày càng quyết liệt hơn. Trong khi đó, những yêu cầu cao của xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, đã và đang tác động không nhỏ đến tâm lý, tư tưởng, nhận thức chính trị tinh thần của đội ngũ sĩ quan trẻ.

Bối cảnh tình hình đó đòi hỏi để phát huy nhân tố chính trị tinh thần của đội ngũ sĩ quan trẻ đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội hiện nay cần phải: Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể, lực lượng đối với tiếp tục phát huy nhân tố chính trị tinh thần của đội ngũ sĩ quan trẻ theo đúng chức trách, nhiệm vụ. Tăng cường vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng các cấp đối với việc phát huy nhân tố chính trị tinh thần của đội ngũ sĩ quan trẻ. Nắm vững nội hàm nhân tố chính trị tinh thần của đội ngũ sĩ quan trẻ để phát huy đúng nội dung, linh hoạt, sáng tạo về hình thức, gắn với đặc thù từng cơ quan, đơn vị. Huy động sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng, kết hợp sự tích cực, chủ động, sáng tạo của đội ngũ sĩ quan trẻ. Thường xuyên dự báo tình hình, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận nhằm bổ sung, tiếp tục phát huy nhân tố chính trị tinh thần của đội ngũ sĩ quan trẻ gắn với thực tiễn bảo vệ Tổ quốc, xây dựng Quân đội hiện nay./.

Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng

 Hiện nay, chúng ta đang bước vào kỷ nguyên số với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, thông tin và truyền thông; mạng xã hội đã, đang trở thành môi trường phổ biến, rất quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp và tác động sâu sắc tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…

Đặc điểm đó vừa tạo ra được những thời cơ, vận hội lớn, đồng thời cũng xuất hiện không ít khó khăn, thách thức đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Một trong những mối nguy hiểm đang hiện hữu đó là việc các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lợi dụng mạng xã hội, biến môi trường này trở thành mảnh đất màu mỡ để tuyên truyền, chống phá cách mạng nước ta, trong đó xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng là mục tiêu xuyên suốt của chúng. Mưu đồ và cách làm này không phải mới mẻ mà thực tế chúng đã nuôi nấng, đeo đuổi thực hiện từ hàng chục năm nay; tuy nhiên, quyết liệt hơn, táo bạo hơn là trong những năm gần đây với rất nhiều âm mưu, thâm độc. Trong đó, điều hết sức nguy hiểm là chúng tập trung chống phá vào chính lực lượng tiên phong nhất, cách mạng nhất, triệt để nhất, tìm mọi cách can thiệp, khoét sâu vào nội bộ, làm suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của cán bộ, đảng viên nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, hướng lái mục tiêu và đường lối phát triển đất nước.

Các thế lực thù địch lợi dụng mạng xã hội để tung những tin xuyên tạc, không đúng sự thật về Đảng, Nhà nước ta (Ảnh minh họa: TL) 

Để thực hiện mưu đồ trên, những năm qua, ngoài kiên trì chống phá theo phương pháp truyền thống, các thế lực thù địch đã đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá trên không gian mạng, thông qua các nền tảng mạng xã hội như: Facebook, Tiktok, Youtube, Instargram…, chúng ra sức rêu rao, xuyên tạc, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng ta.

Luận điệu của chúng cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là độc tài, mất dân chủ, Đảng ta chỉ vì lợi ích cầm quyền của mình, không quan tâm, chăm lo đến lợi ích của nhân dân… và đó chính là nguyên nhân dẫn tới cán bộ, đảng viên suy thoái về đạo đức, lối sống. Chúng ra sức ngụy biện, cho rằng giai cấp công nhân Việt Nam đã không còn mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, bản chất giai cấp công nhân của Đảng đã bị phai nhạt. Cùng với đó, chúng tìm cách bới móc, khoét sâu, thổi phồng những hạn chế, khuyết điểm trong bộ máy Đảng, Nhà nước, nhằm làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu bản lĩnh chính trị, dao động, ngả nghiêng, mất phương hướng, thiếu niềm tin, dẫn tới tha hóa về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, hám quyền chức, lợi danh, chạy theo tư tưởng thực dụng tư sản…, từ đó trở nên ngại rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất, đạo đức cách mạng, “mưa dầm thấm lâu” dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngay trong nội bộ Đảng ta. Với phương pháp hết sức thâm độc “từ trong đánh ra”, “từ ngoài đánh vào”, chúng chống phá rất bài bản có chỉ đạo, có tổ chức chặt chẽ, mục tiêu trước mắt làm suy thoái, biến chất một bộ phận nhỏ cán bộ đảng viên, quần chúng, dần dẫn tới suy yếu Đảng, gây mất niềm tin của Nhân dân, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng ta.

Đánh giá chính xác xu thế tất yếu của thời đại, Đảng ta đã sớm khẳng định tư duy nhạy bén, sắc sảo cũng như đường lối lãnh đạo linh hoạt, sáng tạo trong chuyển hướng đấu tranh; từ phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên mặt trận tư tưởng, lý luận theo hình thức truyền thống là chủ yếu sang kết hợp coi trọng, tích cực đấu tranh trên môi trường mạng xã hội. Đảng ta nhấn mạnh: “chủ động cung cấp thông tin kịp thời, chính xác, khách quan, đúng định hướng để phòng chống “diễn biến hòa bình”, thông tin xấu độc trên internet, mạng xã hội; “đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ phục vụ công tác tuyên truyền, bảo đảm an ninh tư tưởng trên môi trường không gian mạng”. Nhờ đó, đa số cán bộ, đảng viên có quan điểm, lập trường tư tưởng vững vàng, giữ gìn phẩm chất đạo đức, vai trò tiên phong, gương mẫu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, tạo nguồn sức mạnh vô biên để Đảng ta cùng toàn dân “giữ vững tay chèo”, đưa công cuộc đổi mới vượt qua khó khăn, thách thức đạt được những thành tựu quan trọng và có ý nghĩa lịch sử to lớn; “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

Tuy nhiên, hiện nay trước sự tấn công mạnh mẽ, liên tục của các thế lực thù địch, cũng như những tác động nhiều chiều của mạng xã hội một bộ phân cán bộ, đảng viên do thiếu sức đề kháng đã suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngay trên môi trường mạng xã hội, dẫn đến xuống cấp về chuẩn mực của người đảng viên, bất mãn, thiếu niềm tin cộng sản, mất phương hướng chính trị, không tuân thủ kỷ luật, pháp luật, thậm chí còn tiếp tay, giúp sức cho những hiện tượng sai trái trên mạng xã hội thông qua những hành vi như: viết bài, chia sẻ, bình luận, thích những đài, báo, trang mạng, bài viết, video của những tổ chức, phần tử chống đối, phản động thông qua những thông tin kích động, những hình ảnh, video, clip về cảnh tụ tập đông người biểu tình, gây rối, những hình ảnh phản văn hóa, huy động lực lượng trái phép, hùa theo, ủng hộ lời xúi giục của kẻ xấu, chống người thi hành công vụ, gây mất an ninh trật tự,…tạo sự nhiễu loạn thông tin trên mạng xã hội, gây tâm lý hoang mang, bất bình, lo lắng trong Nhân dân. Đánh giá cụ thể thực trạng, Đảng ta nhận định, bên cạnh những thành tựu đạt được, vẫn còn nhiều hạn chế, “công tác đấu tranh, phản bác, ngăn chặn các thông tin xấu độc, quan điểm sai trái thù địch còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao”. Chưa tạo được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị cùng tham gia.

Sớm xác định phòng, chống suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên là vấn đề sống còn đối với Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa. Do vậy, Trung ương yêu cầu phải kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân với Đảng.

Trong bối cảnh đấu tranh ngăn ngừa, phòng chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên góp phần bảo vệ nền tảng, tư tưởng của Đảng trên không gian mạng là môi trường đấu tranh mới, vì vậy cần tập trung vào một số giải pháp căn bản sau:

Một là, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng.

Đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái thù địch trên không gian mạng có ý nghĩa vô cùng cấp thiết, lâu dài, cần có sự tham gia, vào cuộc của cả hệ thống chính trị và mỗi cán bộ, đảng viên. Theo đó, cần tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho các cấp ủy, tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng. Đặc biệt quan tâm, phát huy cao độ vai trò tiền phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên với tư cách là mũi nhọn, hạt nhân xung kích trong tham gia đấu tranh. Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả quan điểm Đại hội XIII của Đảng về “Tăng cường quản lý và phát triển loại hình truyền thông, thông tin trên internet, thực hiện triệt để việc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, tăng cường quản lý và phát triển thông tin trên không gian mạng”. Quyết liệt cụ thể hóa, triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 35 - NQ/TW của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” theo từng lĩnh vực công tác. Kiên định, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới theo tinh thần Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII. Giữ vững hệ tư tưởng, bất luận trong thuận lợi, khó khăn luôn lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm “kim chỉ nam” cho hành động. Xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, tỉnh táo nhận diện kịp thời, chính xác mưu đồ thâm độc của các thế lực thù địch, không sa ngã trước những lợi ích mà các thế lực thù địch mua chuộc, lôi kéo. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động quần chúng tích cực tham gia đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội, từng bước xây dựng thế trận lòng dân trên không gian mạng.

Hai là, tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về mặt tích cực và tiêu cực của không gian mạng, thực hiện nghiêm quy định khi tham gia mạng xã hội.

Cần tập trung giáo dục để mỗi cán bộ, đảng viên có góc nhìn tổng quan, toàn diện, đầy đủ về mặt tích cực cũng như mặt trái của mạng xã hội, đặc biệt khi một bộ phận cá nhân đã biến mạng xã hội thành công cụ đắc lực “mảnh đất màu mỡ” cho các hoạt động phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Từ đó, nêu cao tinh thần cảnh giác trong ngăn ngừa đấu tranh; thường xuyên đẩy mạnh, làm tốt công tác tuyên truyền để mỗi cán bộ, đảng viên nắm chắc và gương mẫu chấp hành nghiêm các quy định khi tham gia mạng xã hội, đặc biệt là các nội dung được nêu trong Luật An ninh mạng, Nghị định 72/2013/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 27/2018/NĐ-CP), Quy định về những điều đảng viên không được làm cũng như các quy định về tuyên truyền, phát ngôn. Trên cơ sở đó xây dựng chuẩn mực đạo đức về hành vi, ứng xử, hình thành ý thức, tạo thói quen tích cực của người dùng trên mạng xã hội, góp phần xây dựng môi trường mạng xã hội an toàn, lành mạnh.

Ba là, nêu cao tinh thần cảnh giác đấu tranh, từng bước nâng cao sức đề kháng hình thành khả năng miễn dịch cho cán bộ, đảng viên trước những thông tin xấu độc trên mạng xã hội.

Mỗi cán bộ, đảng viên cần tỉnh táo trước các thông tin tuyên truyền trên mạng xã hội, có tinh thần cảnh giác cách mạng cao, có nhãn quan chính trị đúng đắn để phản biện, vạch trần các thông tin xấu độc, không để bị động bất ngờ. Tuyệt đối không tham gia bình luận, không tương tác, chia sẻ với những bài viết có nội dung xấu, tăng cường lan tỏa những thông tin tích cực, những bài viết hay, bám sát chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Chủ động có giải pháp đúng đắn để ngăn chặn, vô hiệu hóa, mọi thủ đoạn tung tin xuyên tạc trên không gian mạng nhằm tạo ra khả năng miễn dịch trong chính đội ngũ cán bộ, đảng viên. Kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống cho cán bộ, đảng viên trong tham gia mạng xã hội, trong đó lấy xây dựng bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống, niềm tin Cộng sản, phương pháp, cách thức chỉ đạo, tổ chức triển khai hoạt động đấu tranh cũng như trình độ, kiến thức, kỹ năng tham gia mạng xã hội là nhiệm vụ chủ yếu; chống lại các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và quan điểm sai trái, thù địch nhằm xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng ta trên mạng xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, liên tục; để từ đây các thế lực thù địch không còn đất để xuyên tạc, chống phá.

Bốn là, phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên tuyên truyền kịp thời, cung cấp đầy đủ thông tin chính thống, định hướng, ổn định nhanh dư luận trên mạng xã hội.

Trước hết cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, cung cấp thông tin, định hướng tư tưởng trong chính đội ngũ cán bộ, đảng viên, trên cơ sở đó mỗi cán bộ, đảng viên cần nâng cao ý thức, trách nhiệm đi đầu trong tuyên truyền, vận động giải thích cho nhân dân hiểu về chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước và vạch trần âm mưu, thủ đoạn, xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch góp phần tạo sự đồng thuận, củng cố niềm tin của Nhân dân, không để rơi vào bị động, bất ngờ, hoang mang, dao động. Bình tĩnh xem xét, phân tích và nhận rõ những vấn đề trọng tâm, trọng điểm mà các thế lực thù địch đang ra sức chống phá, chủ động có giải pháp đúng đắn để ngăn chặn và vô hiệu hóa mọi thủ đoạn tung tin, xuyên tạc trên không gian mạng cùng với đó mỗi cán bộ đảng viên đặc biệt là các cơ quan, có trách nhiệm phải làm tốt vai trò phát ngôn, cung cấp thông tin chính thống, chính xác, kịp thời và liên tục tới công chúng, nhanh chóng định hướng, ổn định dư luận khi có biến cố xảy ra.

Năm là, coi trọng việc lựa chọn, bồi dưỡng lực lượng 47 ở các cơ quan, đơn vị trước hết là ở cơ sở trở thành lực lượng tiên phong đấu tranh trên mạng xã hội.

Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái trên không gian mạng là một việc khó khăn, phức tạp, cần phải tiến hành thường xuyên, liên tục. Đại hội XIII Đảng ta chỉ ra quyết tâm: “Tăng cường quản lý và phát triển các loại hình truyền thông, thông tin trên internet. Kiên quyết đấu tranh loại bỏ các sản phẩm, thông tin độc hại, xuyên tạc, phản động ảnh hưởng đến ổn định chính trị - xã hội, thuần phong mỹ tục”. Yêu cầu đó đòi hỏi phải xây dựng lực lượng 47, trọng tâm, trước hết là ở cơ sở trở thành lực lượng tiên phong, nòng cốt, chuyên sâu, có đủ bản lĩnh, trình độ kiến thức, kỹ năng cùng với tinh thần trách nhiệm để trực tiếp tham gia đấu tranh trên mặt trận mạng xã hội. Theo đó, cần coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, cung cấp thông tin, phương pháp, phương tiện, công nghệ đấu tranh trên không gian mạng, an ninh mạng để phòng ngừa, nhận diện, phát hiện, ngăn chặn, gỡ bỏ những thông tin xấu độc ảnh hưởng đến nền tảng tư tưởng của Đảng ta.

Thời gian tới, không gian mạng sẽ còn tiếp tục phát triển mạnh mẽ, các thế lực thù địch ngày càng lợi dụng, chĩa mũi nhọn tấn công nhằm làm suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, chống phá cách mạng nước ta. Trong điều kiện đó, vấn đề bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng càng trở nên quan trọng, cấp thiết và mang tính thường xuyên, lâu dài. Hơn lúc nào hết, mỗi cán bộ, đảng viên cần thể hiện rõ bản lĩnh, trách nhiệm, tu dưỡng về phẩm chất, đạo đức, lối sống, kiên quyết đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng./.

Lợi dụng dân chủ, nhân quyền, thủ đoạn nguy hiểm của thế lực thù địch

Trong những năm qua, các thế lực thù địch không ngừng thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” với tính chất ngày càng gay gắt, quyết liệt. Dân chủ, nhân quyền là chiêu bài mà chúng vẫn dùng để lợi dụng kích động, gây rối, phá hoại, gây mất ổn định chính trị-xã hội, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nhưng những gì mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang làm là minh chứng rõ nét nhất, bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc, phủ nhận thành quả về dân chủ, nhân quyền ở nước ta.

Nhận diện những thế lực mượn danh nhân quyền để chống phá

Nhiều năm qua, hoạt động lợi dụng vấn đề nhân quyền chống Việt Nam đang được các thế lực thù địch cả trong và ngoài nước không ngừng đẩy mạnh với tính chất ngày càng gay gắt, quyết liệt và nguy hiểm. Các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng vấn đề nhân quyền để tác động chuyển hóa nội bộ, gây sức ép về chính trị, kinh tế, ngoại giao nhằm thực hiện mục tiêu “chuyển hóa dân chủ” đối với Việt Nam; kích động biểu tình, phá rối an ninh, trật tự, gây bạo loạn nhằm gây mất ổn định chính trị, xã hội và an ninh, trật tự ở Việt Nam; hậu thuẫn, thúc đẩy hình thành lực lượng, tổ chức chính trị đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm phá vỡ sự ổn định chính trị, xã hội, làm suy yếu tiến tới lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ XHCN ở nước ta.

Sau hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực thúc đẩy, bảo vệ quyền con người. Nhưng, cùng với cố tình phủ nhận thành tựu, kết quả mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đạt được, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị ở trong nước và ở nước ngoài cố tình xuyên tạc tình hình nhân quyền Việt Nam, ra sức chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa dưới chiêu bài “dân chủ, nhân quyền”.

Có thể nhìn nhận rõ, các thế lực thù địch xuyên tạc, phủ nhận thành quả về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam hiện nay gồm: lực lượng cực hữu, một số nghị sĩ cực đoan tại một số nước phương Tây, các nhóm phản động người Việt Nam ở nước ngoài và những cá nhân người Việt ở trong nước bị các thế lực cực hữu nước ngoài mua chuộc, lợi dụng, núp bóng “ngọn cờ dân chủ”, “nhân quyền” chống phá nền tảng tư tưởng và chế độ chính trị - xã hội tại Việt Nam. Tham dự vào lực lượng này còn có những người theo các trào lưu tư tưởng và đường lối chính trị trái ngược với giá trị của chủ nghĩa xã hội tại các nước phương Tây; những người cơ hội chủ nghĩa, suy thoái về tư tưởng, chính trị tại Việt Nam.

Ngoài ra, còn có một số tổ chức phi chính phủ “khoác áo nhân quyền”, trong báo cáo hàng năm thường xuyên vu cáo, xuyên tạc tình hình nhân quyền Việt Nam, nổi bật như: Tổ chức theo dõi nhân quyền (HRW), có trụ sở tại Mỹ. HRW thông qua vấn đề “nhân quyền” hướng tới thành lập các tổ chức hoạt động chống CNXH dưới danh nghĩa “bảo vệ nhân quyền” đã mở ra một điều kiện mới để Mỹ, các nước phương Tây tăng cường hoạt động tác động về tư tưởng, văn hóa, dân chủ, nhân quyền vào các nước Đông Âu, Liên Xô trước đây. Ở với Việt Nam, HRW cổ súy, tán dương với những nhân vật hoạt động chống đối Nhà nước, vi phạm pháp luật. Tổ chức này thường xuyên phác thảo ra những bản báo cáo, phúc trình xuyên tạc tình hình nhân quyền và can thiệp vào công việc nội bộ Việt Nam.

Chủ động nắm âm mưu, hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền của các thế lực thù địch, nhất là ở trên các mạng xã hội, chúng ta áp sát trực diện vào vấn đề đấu tranh, đối tượng đấu tranh, nhằm chủ động, phê phán, phản bác, ngăn chặn, đấu tranh, làm rõ, đập tan những luận điệu phủ nhận thành tựu về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam - Ảnh minh họa: Tuyengiao.vn

Hay như Tổ chức Ân xá quốc tế (AI) với các nhóm hoạt động ở nhiều nước như: Mỹ, Đức, Bỉ, Thụy Điển, Hà Lan… Đối với Việt Nam, AI thường xuyên đưa ra các luận điệu xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm quyền con người. AI đã đưa ra những nội dung xuyên tạc, vu cáo một cách trắng trợn về tình hình các tù nhân trong các trại giam ở Việt Nam, từ đó lớn tiếng đòi thả tự do cho các “tù nhân lương tâm” – thực chất là số đối tượng vi phạm pháp luật Việt Nam…

Tổ chức Freedom House (FH) có trụ sở tại Washington D.C (Mỹ). Từ khi hình thành đến nay, FH thường xuyên có những hoạt động can dự vào công việc nội bộ các nước, đặc biệt tổ chức này luôn thể hiện thái độ thân Mỹ và phương Tây và tư tưởng, hành động mang ý nghĩ thù hằn đối với các nước theo con đường XHCN, trong đó có Việt Nam. FH đưa Việt Nam vào danh sách các nước không có tự do Internet. FH tán dương cho các hành động chống phá nhà nước, chế độ ở nước ta theo kiểu tự do vô lối “thích viết gì thì viết, thích làm gì thì làm” trên không gian mạng.

Bên cạnh những tổ chức trên còn có một số tổ chức, hội nhóm khác luôn tìm mọi cách để xuyên tạc vấn đề nhân quyền ở Việt Nam, thậm chí xem đó là phương thức tồn tại và hoạt động như: Việt Tân, Chính phủ Việt Nam tự do, Đảng nhân dân hành động, Hiệp hội đoàn kết công nông, Ủy ban bảo vệ quyền làm người Việt Nam, Ủy ban tự do tôn giáo cho Việt Nam… Đặc điểm chung của các tổ chức, hội nhóm trên đều được hậu thuẫn bởi các thế lực cực đoan trong chính giới ở Mỹ và một số nước phương Tây, xuyên tạc tình hình nhân quyền ở Việt Nam, đi ngược lại lợi ích của quốc gia, dân tộc, nhằm lật đổ chế độ ở nước ta hiện nay.

Nhận diện mũi tấn công nguy dân chủ, nhân quyền của thế lực thù địch

Vẫn là những chiêu trò cũ rích của thế lực thù địch, lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền đưa ra những thủ đoạn, các luận điệu để xuyên tạc, bóp méo sự thật về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, như: phủ nhận thành tựu, thực tiễn các giá trị lý luận, quan điểm, đường lối của Đảng về dân chủ, nhân quyền với những luận điệu như kích động vấn đề dân tộc thiểu số; xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền trên lĩnh vực tôn giáo, ngăn cản tự do ngôn luận, tự do hội họp; lợi dụng những hạn chế, yếu kém trong quản lý xã hội, sơ hở, thiếu sót trong quản lý, điều hành đất nước hoặc những vấn đề bức xúc, khiếu kiện kéo dài chưa được giải quyết để lôi kéo, kích động nhân dân vào các hoạt động biểu tình, gây mất an ninh trật tự, xã hội...

Hay như chúng tung hô, cổ vũ, cường điệu hóa các giá trị dân chủ tư sản “kiểu Mỹ” và phương Tây, tuyệt đối hóa quyền con người với luận điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “lợi ích cá nhân cao hơn lợi ích cộng đồng, quốc gia”, tuyệt đối hóa các giá trị của quyền con người; xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm quyền cơ bản của con người, chèn ép “những người bất đồng chính kiến”… 

Rồi chúng còn sử dụng dân chủ, nhân quyền làm điều kiện để gây sức ép, can thiệp vào nội bộ nước ta như tìm cách gắn vấn đề viện trợ, hợp tác kinh tế với các điều kiện dân chủ, nhân quyền trong quan hệ ngoại giao với Việt Nam; đòi nước ta phải chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, cải cách chính trị, cải cách dân chủ, pháp luật theo kiểu phương Tây. Thông qua các diễn đàn công khai như hội thảo, hội nghị khoa học, những buổi tiếp xúc, đối thoại với các cơ quan chức năng của Việt Nam và yêu cầu ta phải đưa ra các lộ trình thực hiện các điều ước quốc tế về dân chủ, nhân quyền...

Chúng còn nhân cơ hội từ Quốc hội Mỹ, EU và các nước phương Tây thông qua các dự luật, nghị quyết, báo cáo thường niên... với nội dung xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp tôn giáo nhằm làm cho cộng đồng quốc tế hiểu không đúng tình hình trong nước, điển hình như: Báo cáo Tự do tôn giáo quốc tế của Bộ Ngoại giao Mỹ; Báo cáo tình hình nhân quyền thế giới hằng năm của Anh, Úc; Nghị quyết của Nghị viện châu Âu... Trong đó, chỉ riêng Hạ viện Mỹ hằng năm đã liên tục thông qua nhiều dự luật, nghị quyết về tình hình nhân quyền tại Việt Nam.

Một chiêu bài nữa cũng được sử dụng là thúc đẩy hình thành hội, nhóm, tổ chức chính trị đối lập Nhà nước. Họ tập hợp lực lượng hình thành các tổ chức dưới danh nghĩa “bảo vệ dân chủ, nhân quyền”, “yêu nước” với những cái tên rất kêu mang tinh thần “dân tộc” như “Hội phụ nữ nhân quyền”, “Nhóm công dân tự do”, “Nhóm tuổi trẻ yêu nước”. Chúng còn thúc đẩy sự ra đời các khuynh hướng dân chủ cực đoan, “xã hội dân sự”, hình thành tổ chức chính trị bất hợp pháp; vận động các tổ chức quốc tế trao “giải thưởng nhân quyền” cho các đối tượng vi phạm pháp luật bị bắt, xử lý ở trong nước… nhằm cổ suý, khích lệ số đối tượng trong nước hoạt động quyết liệt, tích cực hơn.

Có thể thấy rõ, những thủ đoạn đổi trắng, thay đen, bóp méo xuyên tạc lịch sử nhằm thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” đối với cách mạng Việt Nam của thế lực thù địch tuy không phải chiêu trò mới, nhưng, những luận điệu xuyên tạc và thô thiển của các thế lực thù địch với thủ đoạn chống phá tinh vi, chúng hiện nay vẫn đang sử dụng một số Website, Blog, tài khoản mạng xã hội “nhào nặn”, “vá víu” các sự kiện, tư duy ngụy biện xảo trá, đánh tráo khái niệm, suy diễn méo mó làm ảnh hưởng xuyên tạc lịch sử của của dân tộc ta, chống phá chúng ta.

Chủ động đấu tranh, bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc, “lợi dụng nhân quyền” chống phá Việt Nam

Để làm thất bại âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc lịch sử của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị, hơn lúc nào hết, mỗi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân cần hết sức tỉnh táo, đề cao cảnh giác để phát hiện, phòng chống, ngăn chặn kịp thời, hiệu quả và làm rõ, đầy lùi, đập tan thủ đoạn “lợi dụng nhân quyền” chống phá của các thế lực thù địch.

Truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc luôn là động lực to lớn, tiếp thêm sức mạnh để mỗi người dân Việt Nam mang trong mình dòng máu Lạc Hồng cảm nhận và chuyển hóa thành hành động, việc làm cụ thể, thiết thực, tiến lên giành những thắng lợi mới trên chặng đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước vẫn đang có những diễn biến phức tạp nên dân chủ, nhân quyền vẫn là chiêu bài, các thế lực bên ngoài lợi dụng một cách triệt để, núp bóng dưới nhiều hình thức nhằm gây mất ổn định, can thiệp vào nội bộ chính trị, xã hội ở Việt Nam. Đứng trước những âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, chúng ta cần làm quyết liệt, nhìn nhận rõ và đập tan thủ đoạn của chúng qua những nhiệm vụ trong thời gian tới.

Thứ nhất, tiếp tục đặt công tác phòng, chống hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội nước ta dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối của Đảng và sự quản lý, điều hành của Nhà nước nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong triển khai công tác phòng chống, đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền chống phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Khẳng định nhất quán quan điểm của Đảng ta: Dân chủ là bản chất, là mục tiêu, là động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. 

Thứ hai, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, vai trò công tác bảo vệ và đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn hoạt động lợi dụng nhân quyền chống phá ta, coi đó là trách nhiệm của tất cả các cấp, các ngành và nhân dân để huy động sự tham gia của cả xã hội trong công tác này. Từng cán bộ, đảng viên phải nâng cao lập trường tư tưởng, chính trị vững vàng để nhận diện và kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm, sai trái thù địch, xuyên tạc, vu khống, phủ nhận dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Để mỗi cán bộ, đảng viên là chiến sĩ trên mặt trận bảo vệ nền tảng tư tưởng, thực hành phát huy dân chủ, nhân quyền ở nước ta.

Thứ ba, đổi mới hình thức, đa dạng các nội dung đấu tranh hiệu quả, bảo vệ dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhân quyền ở Việt Nam. Đổi mới, bổ sung nội dung đấu tranh trên cơ sở giữ vững quan điểm và nguyên tắc của Đảng và Nhà nước; mềm dẻo, linh hoạt, nhân văn trong phương pháp, công khai, minh bạch, dân chủ, góp phần tạo dư luận xã hội lành mạnh, đồng thuận. Trong đó, sử dụng các kênh truyền thông chính thống và các mạng xã hội để tiếp cận đến đông đảo quần chúng nhân dân vừa tuyên truyền, vừa bóc trần những xuyên tạc vô căn cứ của các thế lực thù địch lợi dụng những vấn đề chính trị, xã hội để chống phá nước ta.

Thứ tư, để không còn “mảnh đất” cho các thế lực thù địch lợi dụng chống phá, chúng ta cần đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, xoá đói, giảm nghèo, kết hợp với thực hiện công bằng xã hội, không ngừng nâng cao trình độ dân trí, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh bảo đảm ổn định chính trị, trật tự xã hội; nhanh chóng giải quyết triệt để các khiếu kiện, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân dân; chủ động định hướng dư luận, đưa thông tin đúng, chính thống đến nhân dân, không để xảy ra những tình huống bị động gây mất ổn định ở cơ sở. Trong đó, chú trọng, phối hợp giải quyết dứt điểm các “điểm nóng” ngay từ cơ sở, không để kéo dài, lây lan gây bức xúc dư luận.

Thứ năm, chúng ta thường xuyên, chủ động, xác định nhân quyền là một vấn đề nhạy cảm, phức tạp mà các thế lực thù địch, phản động lợi dụng nhằm chống phá Đảng, Nhà nước ta, thực hiện các mưu đồ chính trị đen tối. Vì vậy, cần thường xuyên nắm chắc tình hình, dự báo kịp thời mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng dân chủ, nhân quyền. Đồng thời, chủ động triển khai nắm âm mưu, hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền của các thế lực thù địch không nên mở rộng, mà phải áp sát trực diện vào vấn đề cần phải đấu tranh, đối tượng đấu tranh, nhằm chủ động, phê phán, phản bác, ngăn chặn những luận điệu phủ nhận thành tựu về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, để chống phá...