Thứ Tư, 8 tháng 5, 2019

Một số giải pháp tăng cường công tác dân vận của quân đội ở các vùng dân tộc thiểu số trong tình hình mới


Một số giải pháp tăng cường công tác dân vận của quân đội ở các vùng dân tộc thiểu số trong tình hình mới
ĐTM/2019
          Tăng cường CTDV của quân đội ở các vùng DTTS trong tình hình mới là tăng cường toàn diện cả về lãnh đạo, chỉ đạo, cả lực lượng, phương tiện, tăng cường về mức độ và hiệu quả tác động, phát triển cả bề rộng và chiều sâu, coi trọng chất lượng và bảo đảm tính hệ thống, biến CTDV của quân đội thành công tác tự vận động, tự xây dựng, tự bảo vệ của các DTTS, cùng cả dân tộc Việt Nam dựng nước và giữ nước. Trong những điều kiện mới, CTDV cuả quân đội ở các vùng DTTS cần thực hiện tốt các giải pháp sau:
          1. Nâng cao nhận thức, phát huy trách nhiệm, bồi dưỡng năng lực tiến hành công tác dân vận ở vùng dân tộc thiểu số cho mọi lực lượng trước hết là các cấp uỷ đảng, cơ quan chính trị, cán bộ chính trị, các tổ đội công tác
Đây là giải pháp rất quan trọng, xuyên suốt và tạo cơ sở cho các giải pháp khác. Có nhận thức đúng đắn sẽ củng cố động cơ, định hướng và thúc đẩy hành động tích cực của cán bộ, chiến sĩ. Nhận thức càng sâu sắc, càng sát thực tiễn thì động cơ càng mạnh mẽ, vai trò định hướng và thúc đẩy hành động càng rõ rệt. Trong đó, đặc biệt là nhận thức của lãnh dạo, chỉ huy và cơ quan có vai trò rất quan trọng.
Nhưng nhận thức của cán bộ, chiến sĩ không phải tự phát hình thành mà phải thông qua hoạt động tư tưởng và tổ chức một cách đồng bộ, và phải thường xuyên, có kế hoạch, có mục đích, phương pháp cụ thể thiết thực, nghiêm túc, kiên trì, bền bỉ.
          Thực tiễn CTDV các vùng DTTS của các đơn vị cho thấy, ở đâu cấp uỷ và người chỉ huy có nhận thức đúng, trách nhiệm cao thì ở đó đội ngũ cán bộ, chiến sĩ được giáo dục quán triệt, bồi dưỡng phương pháp, tác phong chu đáo. Họ luôn có nhận thức đúng về vị trí, tầm quan trọng của CTDV đối với đồng bào các DTTS; phương pháp năng lực thực hành luôn được củng cố, đơn vị đó luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Ngược lại, hầu hết các khuyết điểm trong CTDV ở các vùng DTTS thời gian qua đều có nguyên nhân từ sự thiếu quan tâm, trách nhiệm không cao, nhận thức đơn giản của các cấp uỷ, người chỉ huy.
Để CTDV của quân đội ở các vùng DTTS phát triển cả bề rộng và chiều sâu, có hiệu quả cao, đòi hỏi phải làm tốt hơn nữa công tác giáo dục, quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho mọi tổ chức, mọi lực lượng tham gia. Trong tình hình hiện nay, công tác giáo dục, quán triệt cần đạt được các yêu cầu sau:
- Nội dung giáo dục phải bảo đảm tính toàn diện, chuyên sâu, phù hợp với trình độ nhận thức, chức trách, nhiệm vụ của mỗi tổ chức, lực lượng, sát với tình hình địa bàn và đối tượng tuyên truyền, vận động. Kết hợp giáo dục nhận thức với bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức tác phong, trang bị kiến thức kinh nghiệm, phương pháp tiến hành CTDV cho bộ đội. Kết hợp giữa định hướng tư tưởng với hướng dẫn hành động, rèn luyện bản lĩnh, sự nhạy cảm, khả năng phát hiện và đấu tranh phê phán, loại bỏ những quan điểm tư tưởng, nhận thức, hành động sai trái.
- Hình thức, phương pháp giáo dục phải phong phú, đa dạng, chặt chẽ, bảo đảm tính thường xuyên, liên tục và gắn với các nhiệm vụ, hoạt động khác của đơn vị.
- Phát huy cao vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ và chỉ huy các cấp; vai trò tham mưu và tổ chức thực hiện của cơ quan chính trị, cán bộ chính trị và các tổ chức quần chúng trong giáo dục, nâng cao nhận thức cho bộ đội.  
Để đạt được các yêu cầu đó, công tác giáo dục, quán triệt, nâng cao nhận thức cần tập trung vào những nội dung sau:
- Giáo dục những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về vấn đề dân tộc, tôn giáo, công tác vận động quần chúng của Đảng, của quân đội trong giai đoạn mới. Kết hợp giáo dục lý luận với việc bồi dưỡng cho bộ đội nắm vững những vấn đề cơ bản về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; các chủ trương, chương trình kế hoạch phát triển, các phong trào cách mạng của địa phương nơi đóng quân trên các lĩnh vực đời sống xã hội; nhiệm vụ của quân đội, của đơn vị hiện nay.
- Tăng cường bồi dưỡng kinh nghiệm thực tiễn tiến hành CTDV đối với đồng bào DTTS cho cán bộ, chiến sĩ để họ nâng cao trách nhiệm và tự tin, chủ động trong thực hiện nhiệm vụ.
Coi trọng việc giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ nâng cao hiểu biết về phong tục, tập quán, tín ngưỡng của đồng bào từng khu vực, từng dân tộc; bởi vì các tín ngưỡng, tôn giáo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời sống tâm linh của đồng bào. Mặc dù có nguồn gốc xuất xứ bản địa hay du nhập từ nước ngoài, ít nhiều đồng bào vẫn tìm thấy trong các tín ngưỡng, tôn giáo một chỗ dựa tinh thần nào đó khi trong cuộc sống, trong nhận thức, trong tình cảm gặp những khó khăn, rủi ro, bất trắc do tự nhiên hay xã hội đưa lại; họ đều muốn hướng tới sự yên ổn, tu tâm dưỡng tính, hướng thiện, chống lại cái ác; trừ các loại tà giáo hoặc âm mưu lợi dụng của các thế lực thù địch.
Trong tình hình hiện nay, hiểu biết và tôn trọng, có thái độ đúng đối với tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào các DTTS là một yêu cầu rất cao của người làm CTDV nơi đây.
Bên cạnh đó, cần tập trung làm rõ âm mưu và những thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đối với các vùng dân tộc và trên từng địa bàn đóng quân của từng đơn vị.
- Bồi dưỡng xây dựng phương pháp, tác phong làm việc khoa học cho cán bộ, chiến sĩ trong CTDV. Đó là tác phong sâu sát thực tế, cụ thể tỷ mỷ, thực hiện phương châm nghe đồng bào nói, nói để đồng bào hiểu, hướng dẫn đồng bào, làm để đồng bào tin và rèn luyện phong cách “trọng dân, gần dân, hiểu dân”, có trách nhiệm với đồng bào. Chống biểu hiện quan liêu, hách dịch, xa rời thực tế, thiếu sâu sát với đồng bào.
- Bồi dưỡng cho cán bộ chiến sĩ có phương pháp tiếp cận tốt với đồng bào, biết chào hỏi đồng bào theo đúng phong tục, thể hiện lòng thân ái, biết tránh các điều kiêng kỵ, biết giao lưu văn hoá văn nghệ, nhất là các điệu múa của đồng bào các dân tộc.
          2. Tăng cường giáo dục và duy trì nghiêm kỷ luật trong quan hệ với nhân dân đối với mọi cán bộ, chiến sĩ.
          Các đơn vị quân đội dù ở đồng bằng hay miền núi đều thường dóng quân trong các khu vực dân cư, quá trình thực hiện nhiệm vụ huấn luyện SSCĐ, công tác đều thường xuyên tiếp xúc với đồng bào. Nếu không có nhận thức đúng và giữ nghiêm kỷ luật dân vận sẽ không những không vận động được đồng bào mà còn làm tổn hại đến uy tín đơn vị, quân đội đến lòng tin của nhân dân.
Trong thực tế thời gian qua, không ít trường hợp vi phạm kỷ luật dân vận, thiếu tôn trọng, quậy phá, lừa dối hoặc lợi dụng đồng bào để làm việc sai trái đã xảy ra, ảnh hưởng xấu đến CTDV, lòng tin và tình đoàn kết quân dân. Vì vậy, giáo dục và duy trì nghiêm kỷ luật trong quan hệ với nhân dân là một nội dung biện pháp rất quan trọng, vừa cơ bản lâu dài vừa cấp bách hiện nay.
          Đạo đức là cái gốc của người cách mạng. Trong giáo dục phải quan tâm đến chuẩn mực đạo đức của người quân nhân cách mạng; các quy định của điều lệnh, điều lệ quân đội, 12 điều kỷ luật trong quan hệ quân dân, pháp luật của Nhà nước, các quy định của địa phương, truyền thống của đơn vị...làm cơ sở bồi dưỡng, rèn luyện tính tự giác, gương mẫu trong chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; có phương pháp tác phong khiêm tốn, giản dị, biết tôn trọng lắng nghe ý kiến của nhân dân; thành khẩn tiếp thu và sửa chữa khuyết điểm, tạo sự tự tin cho đồng bào.
Đặc biệt, với đồng bào các dân tộc thiểu số, do điều kiện ngôn ngữ và các tập tục, tín ngương riêng của từng dân tộc, việc giữ nghiêm kỷ luật không chỉ dừng lại ở các chế độ, nền nếp kỷ luật chung đã quy định, mà còn là ý thức và hành động đúng, phù hợp với lễ giáo, thuần phong, mỹ tục của từng vùng.
 Giáo dục, rèn luyện cán bộ, chiến sĩ gương mẫu chấp hành pháp luật, giữ nghiêm kỷ luật dân vận, tôn trọng kỷ cương xã hội, tôn trong phong tục, tập quán của đồg bào các DTTS. Giáo dục phải đi đôi với tổ chức quản lý, duy trì kỷ luật vững chắc, kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm.
          3. Nắm vững và vận dụng có hiệu quả các hình thức công tác dân vận của quan đội.
Có nhận thức đúng, nội dung chương trình công tác đúng muốn biến thành kết quả, hiệu quả thực tế phải có các hình thức CTDV đúng. Coi trọng rút kinh nghiệm và vận dụng, phát huy tốt hiệu quả của bốn hình thức công tác dân vận đã được tổng kết.
Trong thời kỳ mới, cơ cấu thành phần dân cư ở các vùng, miền tiếp tục biến đổi theo xu hướng ngày càng đa dạng, hoạt động kinh tế xẫ hội của các tầng lớp nhân dân trở nên phức tạp, điều này đòi hỏi CTDV phải luôn đổi mới hình thức phù hợp với từng đối tượng, từng địa bàn.
Để thực hiện tốt giải pháp này, cần tập trung thực hiện các nội dung sau:
- Cấp uỷ và chỉ huy các cấp quan tâm giáo dục, bòi dưỡng nâng cao phẩm chất năng lực cho các tổ chức, các lực lượng, các tổ đội trực tiếp làm CTDV.
- Cần xây dựng nội dung, kế hoạch, chương trình dạy tiếng dân tộc cho cán bộ chiến sĩ; trước hết ưu tiên cho các dối tượng cán bộ dân vận chuyên trách, cán bộ tham gia cấc đội công tác 123, cán bộ và chiến sĩ đội vận động quần chúng của các đồn biên phòng.
Bồi dưỡng trình độ hiểu biết tiếng dân tộc cho lực lượng chuyên trách làm CTDV, bởi vì có trình độ chuyên môn giỏi nhưng chưa biết tiếng dân tộc, thì sẽ hết sức khó khăn. Để khắc phục hạn chế này, một mặt cán bộ chuyên trách phải tích cực, chủ động tự học tiếng dân tộc, tối thiểu là những từ ngữ phổ biến trong giao tiếp; mặt khác các cơ quan đơn vị phải quan tâm gửi đội ngũ cán bộ này đi học tiếng dân tộc ở các trường trong và ngoài quân đội. Thành thạo tiếng dân tộc là cơ sở để người cán bộ nâng cao hiệu quả công tác vận động đồng bào. Đồng thời với vấn đề học tiếng dân tộc, cần tập trung và phát huy lực lượng các quân nhân là người DTTS  cùng tham gia tiến hành CTDV.
- Quan tâm bảo đảm kinh phí, phương tiện cần thiết cho lực lượng chuyên trách làm công tác tuyên truyền vận động đồng bào.
- Đối với các tổ đội, các cán bộ tăng cường cho cơ sở thì phải có kế hoạch kiểm tra, đôn đốc, động viên kết hợp nhắc nhở kịp thời, tránh khoán trắng cho các lực lượng này.
          4. Kết hợp tốt việc tuyên truyền, giáo dục, vận động với tích cực giúp nhân dân lao động sản xuất, ổn định đời sống và bảo vệ dân trong mọi hoàn cảnh.
          Hiệu quả CTDV xét cho cùng phụ thuộc vào chính kết quả đời sống mọi mặt của đồng bào. Vì vậy, kết hợp tốt việc tuyên truyền, giáo dục, vận động với tích cực giúp nhân dân lao động sản xuất, ổn định đời sống và bảo vệ dân trong mọi hoàn cảnh là yêu cầu tất yếu.
          Các đơn vị quân đội cần quan tâm, tham gia giúp đỡ đồng bào lao động sản xuất, cùng địa phương phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho đồng bào. Điều đó có ý nghĩa vô cùng quan trọng, thể hiện phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân.
          Đẩy mạnh vận động đồng bào định canh, định cư, ổn định đời sống. Chú trọng giúp đỡ đồng bào biết tổ chức sản xuất, xoá đói, giảm nghèo. Đối với các vùng có điều kiện, động viên hướng dẫn đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phù hợp với đặc điểm, điều kiện từng vùng, khai thác thế mạnh trong sản xuất của từng hộ, từng địa phương, phấn đấu làm giàu cho gia đình, đóng góp tích cực cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Đẩy mạnh công tác xoá đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào các dân tộc; tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình phủ sóng phát thanh, truyền hình, tăng cường các hoạt động văn hoá - thông tin, tuyên truyền hướng về cơ sở...
          Tham mưu cho địa phương xây dựng các dự án, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, phát triển nhanh các khu kinh tế kết hợp với quốc phòng ở các vùng đồng bào dân tộc; quan tâm đầu tư đồng bộ, có trọng điểm vào xây dựng cơ sở hạ tầng ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Giúp địa phương thực hiện các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng như điện, đường, trường, trạm, nước sạch. Phối hợp cùng các ban, ngành địa phương thực hiện chương trình xoá mù chữ, giảm tái mù chữ, phổ cập giáo dục, nâng cao trình độ dân trí. Tiến hành các hoạt động văn hoá, duy trì các lễ hội truyền thống, giữ gìn phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc; đồng thời đấu tranh bài trừ các hủ tục văn hoá lạc hậu, đấu tranh phòng ngừa văn hoá xấu độc thâm nhập vào đồng bào các dân tộc.
          Đồng bào các DTTS thường sinh sống trên các địa bàn có điều kiện khí hậu thời tiết khắc nghiệt, thường xuyên bị thiên tai, lũ lụt, lũ quét, động đất, bệnh tật đe doạ. Bên cạnh đó, kẻ thù lợi dụng khó khăn, tăng cường hoạt động phá hoại sản xuất, đời sống của đồng bào. Nhiều trường hợp ở nhiều vùng biên giới cửa khẩu, kẻ xấu đã lợi dụng đồng bào để làm ăn phi pháp, buôn lậu, phá rừng, vi phạm pháp luật.
Vì vậy, trong tiến hành CTDV của các đơn vị, phải hết sức coi trọng các biện pháp tích cực chủ động, kiên quyết bảo vệ đồng bào được an toàn cả về tính mạng, tài sản, sự bình yên cuộc sống trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, mọi tình huống. Hướng dẫn, động viên đồng bào biết và có khả năng tự bảo vệ trước sự tàn phá của cả thiên nhiên khắc nghiệt và các thế lực thù địch, các đối tượng xấu.
          5. Phối hợp chặt chẽ với cấp uỷ, chính quyền địa phương nhằm xây dựng cơ sở chính trị địa bàn vững mạnh; tham gia giải quyết có hiệu quả những yếu tố gây mất ổn định và xử lý các tình huống phức tạp ở các địa phương.
Xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh toàn diện là một mục tiêu chủ yếu của CTDV, nhằm thực hiện tư tưởng chỉ đạo xây dựng chính là để phòng ngừa, là để bảo vệ tích cực, chủ động. Nội dung CTDV tham gia xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở phải hướng vào xây dựng thực lực chính trị, nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn trong lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý Nhà nước của các tổ chức trong hệ thống chính trị địa phương.
Trong điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội các vùng dân tộc thiểu số còn hết sức khó khăn, điều kiện cán bộ, cơ sở vật chất hoạt động của các tổ chức còn hạn chế, CTDV của quân đội tham gia xây dựng cơ sở phải nghiên cứu kỹ tình hình, xác định nội dung, chương trình phải thiết thực hiệu quả, tránh hình thức, hời hợt. Đặc biệt chú trọng việc tạo nguồn và giúp bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở người dân tộc thiểu số ở các vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới.
Hoạt động dân vận của các đơn vị phải góp phần xây dựng thế trận và tiềm lực quốc phòng - an ninh ở cơ sở, xây dựng khu vực phòng thủ và các phương án tác chiến trên từng địa bàn, từng cơ sở. Đẩy mạnh tuyên truyền vận động nhân dân nâng cao cảnh giác, chủ động ngăn ngừa và xử lý kịp thời các vụ việc nảy sinh, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng dân chủ, nhân quyền, tôn giáo và dân tộc, gây chia rẽ đoàn kết quân dân của các thế lực thù địch.
Tham gia củng cố, xây dựng các tổ chức cơ sở đảng vững mạnh là vấn đề cốt lõi để nâng cao hiệu lực thực tế của công tác dân vận. Khéo vận động đồng bào cùng tham gia xây dựng các tổ chức đảng, khắc phục những mặt yếu kém, các hiện tượng tiêu cực trong lãnh đạo, củng cố nâng cao uy tín của các tổ chức đảng với đồng bào.
Tích cực tham gia xây dựng, củng cố tổ chức chính quyền ở cơ sở vững mạnh đủ sức quản lý, điều hành mọi hoạt động của địa phương, bảo đảm chính quyền thực sự của dân, do dân và vì dân. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Các tổ đội công tác kịp thời phát hiện và đánh giá đúng những mâu thuẫn nảy sinh trong nội bộ đồng bào, tham mưu giúp chính quyền và cùng chính quyền giải quyết tốt các mâu thuẫn đó. Tăng cường xây dựng mối quan hệ mật thiết giữ cấp uỷ đảng, chính quyền, đơn vị và nhân dân, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu chia rẽ của địch.
Tham gia xây dựng các tổ chức đoàn thể vững mạnh là một biện pháp rất quan trọng. Biết tổ chức giúp đỡ các tổ chức như: Mặt trận tổ quốc, Hội cựu chiến binh, các tổ chức Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội chữ thập đỏ kiện toàn tổ chức, thu hút hội viên, hoạt động có hiệu quả theo chức năng của từng tổ chức.
Đẩy mạnh hoạt động kết nghĩa giữa đơn vị với các tổ chức địa phương nhằm trao đổi kinh nghiệm và có điều kiện giúp đỡ địa phương đẩy mạnh các phong trào quần chúng, góp phần tăng cường mối quan hệ đoàn kết quân dân.
Tham gia xây dựng, vận động phát huy mặt tích cực của các thiết chế văn hoá xã hội truyền thống của đồng bào các dân tộc, cùng thực hiện tốt các chủ trương, kế hoạch, các phong trào, các cuộc vận động của địa phương.
Bằng những nội dung, hình thức, phương pháp phù hợp, có lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức chặt chẽ, các đơn vị quân đội phải cùng với cấp uỷ chính quyền địa phương giải quyết tốt những vấn đề bức xúc nổi lên như: tranh chấp đất đai, khiếu kiện đặc biệt, vượt biên trái phép, buôn lậu qua cửa khẩu, tụ tập nghe truyền đạo trái phép; tụ tập kích động kỳ thị dân tộc, các tệ nạn xã hội, phá rẫy, khai thác rừng trái phép... Để đảm bảo hiệu quả, giải quyết vụ việc phải trên cơ sở phát huy dân chủ, lắng nghe ý kiến đồng bào, cùng đồng bào bàn bạc, thảo luận trước khi xử lý các vấn đề liên quan đến lợi ích đồng bào, lợi ích của từng buôn, bản, làng, phum sóc... theo đúng chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, tạo niềm tin cậy của đồng bào với Đảng, Nhà nước, với chính quyền địa phương; bảo vệ đồng bào trong mọi điều kiện hoàn cảnh.
          Công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam có vị trí, vai trò rất quan trọng, là một bộ phận trong CTDV của Đảng Cộng sản Việt Nam, một mặt hoạt động CTĐ, CTCT trong quân đội, nhằm vận động cách mạng đối với nhân dân và xây dựng, tăng cường mối quan hệ, đoàn kết quân dân. Tiến hành CTDV là nhiệm vụ chính trị, là chức năng và truyền thống quý báu của quân đội, là vấn đề thuộc nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. CTDV có tầm quan trọng chiến lược trong sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng và chiến đấu của quân đội ta.
          Các DTTS ở Việt Nam chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong dân số nhưng là bộ phận hữu cơ, có vai trò cực kỳ quan trọng trong khối đại đoàn kết toàn dân, trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước với mọi tiến trình lịch sử và cách mạng. Trách nhiệm và vinh dự của toàn Đảng, toàn quân, của cả hệ thống chính trị là phải không ngừng tiến hành vận động, thực hiện có hiệu quả bền vững công cuộc dựng xây vì sự nghiệp đại đoàn kết, đại thắng lợi của cả đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Đó là nhiệm vụ cấp bách, là truyền thống, là đạo lý Việt Nam.
          Công tác dân vận của quân đội ở các vùng DTTS thời gian qua đã thu được những kết quả hết sức quan trọng, song cũng còn bộc lộ nhiều yếu kém bất cập do nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan tác động. Trong khi đó, kẻ thù đang ra sức lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá cách mạng nước ta. Do đó, thực hiện tốt và tăng cường công tác dân vận của quân đội ở các vùng dân tộc thiểu số là yêu cầu cấp thiết hiện nay.
 Để tăng cường CTDV của quân đội ở các vùng DTTS đáp ứng yêu cầu của tình hình nhiệm vụ mới, cần vận dụng đồng bộ và có trọng điểm các giải pháp nêu trên. Mỗi giải pháp có vị trí, vai trò riêng, có cơ sở lý luận và thực tiễn, yêu cầu và nội dung khác nhau, nhằm tác động trên từng mặt, từng mức độ, song các giải pháp là một hệ thống có quan hệ chặt chẽ.
Vì vậy, quá trình vận dụng tránh hiện tượng tách rời, hoặc cứng nhắc mà phải vận dụng đồng bộ, có trọng tâm trọng điểm, linh hoạt, coi trọng chất lượng, hiệu quả, góp phần thúc đẩy CTDV của quân đội ở các vùng DTTS ngày càng được tăng cường và đi vào chiều sâu, vững chắc, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.






TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA QUÂN ĐỘI PHÒNG CHỐNG “ DIỄN BIẾN HÒA BÌNH” Ở CÁC VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG TÌNH HÌNH MỚI

TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA QUÂN ĐỘI PHÒNG CHỐNG
 “ DIỄN BIẾN HÒA BÌNH”
Ở CÁC VÙNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG TÌNH HÌNH MỚI
ĐTM /2019
Mỗi quốc gia, dân tộc trong quá trình tồn tại, phát triển hướng tới sự hưng thịnh bền vững của mình đều phải quan tâm đến việc tập hợp lực lượng, tạo dựng  nguồn động lực phù hợp với đặc thù của hoàn cảnh lịch sử. Đối với Việt Nam, đại đoàn kết toàn dân là một truyền thống quý báu, một giá trị tinh thần bền vững, một điều kiện bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của dân tộc. Để phát huy truyền thống quý báu đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn quan tâm sâu sắc đến công tác vận động quần chúng trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng.
Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội của dân, do dân, vì dân, ngay từ khi mới thành lập đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trao nhiệm vụ vừa là đội quân chiến đấu, vừa là đội quân công tác và lao động sản xuất, là lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, của Nhà nước và nhân dân. Do đó, tiến hành công tác dân vận (CTDV) là nhiệm vụ chính trị, là chức năng và truyền thống quý báu của quân đội, là vấn đề thuộc nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng. Thực tiễn hơn 60 năm qua, mỗi bước trưởng thành và chiến thắng của quân đội ta đều luôn gắn liền với việc đẩy mạnh CTDV, đều được dựa chắc vào thế trận lòng dân.
Các dân tộc thiểu số (DTTS) ở Việt Nam chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong dân số nhưng lại cư trú trên địa bàn rộng, chiếm phần lớn diện tích của cả nước, chủ yếu ở các vùng cao, trung du và ven biên giới, những vùng có vị trí rất quan trọng cả về chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa.
Hiện nay, các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang đẩy mạnh thực hiện âm mưu chia rẽ dân tộc, kích động ly khai, hòng chống phá cách mạng Việt Nam. Cuộc đấu tranh giữ đất, giữ dân ở các vùng đồng bào DTTS giai đoạn hiện nay vì cuộc sống hạnh phúc của nhân dân và bình yên đất nước là trách nhiệm của toàn Đảng, của cả hệ thống chính trị. Vì vậy, việc tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được và tăng cường hơn nữa CTDV của quân đội ở các vùng DTTS là yêu cầu cấp bách, là nhiệm vụ trực tiếp đặt ra đối với quân đội ta hiện nay; đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu với nhiều nội dung, nhiều góc độ và vận dụng có hiệu quả trong thực tiễn

Tích cực đấu tranh trên mặt trận chính trị, tư tưởng, phong, chống “diễn biến hoà bình” “phi chính trị hoá” lực lượng vũ trang.


Tích cực đấu tranh trên mặt trận chính trị, tư tưởng, phong, chống “diễn biến hoà bình” “phi chính trị hoá” lực lượng vũ trang.
ĐTM/2019
Xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị phải kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chống những âm mưu, thủ đoạn, quan điểm, hiện tượng sai trái thù địch. Hiện nay chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang sử dụng chiến lược diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ để chống phá toàn diện sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Một trong những thủ đoạn cơ bản của chiến lược đó là chống phá trên lĩnh vực chính trị tư tưởng – văn hoá, “phi chính tri hoá” lực lượng vũ trang . Phòng, chống, đấu tranh, ngăn chặn và làm thất bại những âm mưu thủ đoạn đó sẽ góp phần trực tiếp xây dựng, củng cố lực lượng vũ trang về chính trị.
Tích cực, kiên quyết đấu tranh vạch trần những thủ đoạn xuyên tạc phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, vai trò và sự lãnh đạo của Đảng trong xã hội và trong lực lượng vũ trang; những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận lịch sử, truyền thống hào hùng của Đảng, dân tộc, lực lượng vũ trang, những luận điệu “ đa nguyên về chính trị, đa đảng đối lập”; ca ngơi, cổ vũ những giá trị của chủ nghĩa tư bản, văn hoá, lối sống phương tây; những thủ đoạn kích động đối lập Đảng với Nhà nước, với hệ thống chính trị, với lực lượng vũ trang; xuyên tạc, phủ nhận bản chất, mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận, tầm thường hoá, vô hiệu hoá vai trò của lực lượng vũ trang trong thời bình.
  Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở là yêu cầu khách quan, là nguyên tắc bất di, bất dịch trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân phải toàn diện, cả về chính trị, quân sự, hậu cần, kỹ thuật… trong đó xây dựng về chính trị là yếu tố quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định đối với hoàn thành nhiệm vụ được giao của các lực lượng vũ trang, sự sống còn của chế độ. Để đáp ứng yêu cầu đó, Đảng phải nắm vững những nguyên lý, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng vào thực tiễn Việt Nam xác định quan điểm chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang đúng đắn, nhằm xây dựng lực lượng vũ trang trở thành lực lượng nòng cốt cho toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống. Ngày nay thường xuyên quán triệt sâu sắc tầm quan trọng của việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân về chính trị; nhất là trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO. Thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Không ngừng hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang nhân dân. Thực hiện tốt Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị trong quân đội… Đảm bảo: Đảng lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” lực lượng vũ trang nhân dân.

Những giải pháp cơ bản xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân về chính trị trong giai đoạn hiện nay.


Những giải pháp cơ bản xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân về chính trị trong giai đoạn hiện nay.
ĐTM/2019
1. Nâng cao giác ngộ, lập trường, bản lĩnh chính trị của lực lượng vũ trang.
Nâng cao giác ngộ, lập trường, bản lĩnh chính trị là vấn đề rất cơ bản, làm cơ sở tạo ra sức mạnh của lực lượng vũ trang. Chỉ có giác ngộ chính trị cao, lập trường, bản lĩnh chính trị vững vàng thì lực lượng vũ trang mới kiên định với mục tiêu lý tưởng, trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh, vượt qua mọi khó khăn thử thách, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao
Giác ngộ chính trị, lập trường, bản lĩnh chính trị là yếu tố cơ bản tạo thành sức mạnh chính trị, tư tưởng, tinh thần, làm cơ sở tạo thành sức mạnh tổng hợp của lực lượng vũ trang. Lập trường, bản lĩnh chính trị còn là cơ sở để cán bộ, chiến sĩ phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ. Giác ngộ chính trị, lập trường, bản lĩnh chính trị là điều kiện cơ bản để cán bộ, chiến sĩ nhận thức, xem xét và giải quyết đúng đắn các sự kiện, hiện tượng trong đời sống xã hội; nhận thức đúng kẻ thù, không mơ hồ ảo tưởng, lẫn lộn bạn – thù, địch – ta; có thái độ kiên quyết, đấu tranh bảo vệ cái đúng, phê phán cái xấu, cái sai.
Lập trường, bản lĩnh chính trị của lực lượng vũ trang còn là một trong những điều kiện cơ bản để giữ vững ổn định chính trị, làm cho lực lượng vũ trang thực sự là lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, Nhà nước, nhân dân
Nội dung nâng cao giác ngộ chính trị, lập trường, bản lĩnh chính trị của lực lượng vũ trang bao gồm:  Nâng cao nhân thức, giác ngộ cho cán bô, chiến sĩ về mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tin tưởng vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, vào công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; kiên định, không giao động, hoài nghi về mục tiêu lý tưởng, con đường đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; xây dựng ý chí, động cơ, quyết tâm thực hiện mục tiêu lý tưởng; đấu tranh với những quan điểm sai trái, hiện tượng hòai nghi, dao động về mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Nghiên cứu, học tập, vận dụng đúng đắn, sáng tạo, bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của lực lượng vũ trang. Thường xuyên tuyên truyền giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cho hệ tưởng của Đảng giữ vai trò chủ đạo chi phối, định hướng nhận thức và hành động của lực lượng vũ trang. Thường xuyên làm tốt công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ chí minh, bổ sung, hoàn thiện đường lối. đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại, các trào lưu tư tưởng tư sản, phản động, những quan điểm, hiện tượng sai trái, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thường xuyên quán triệt, phổ biến tình hình, nhiệm vụ cách mạng nhiệm vụ của lực lượng vũ trang, của từng đơn vị. Làm cho cán bộ chiến sĩ trong lực lượng vũ trang luôn thấu triệt nhiệm vụ, nắm vững tình hình mọi mặt, có động cơ, trách nhiệm, quyết tâm thực hiện mọi nhiệm vụ được giao. Giáo dục âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, xây dựng ý thức cảnh giác sẵn sàng chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ.
Thường xuyên giáo dục truyền thống, lịch sử vẻ vang của dân tộc, của Đảng, của quân đội, bồi dưỡng tinh thần yêu nước, yêu Đảng, yêu chế độ, yêu nhân dân. Xây dựng tình cảm, trách nhiệm giữ gìn và phát huy truyền thống hào hùng của Đảng, dân tộc và quân đội.
Bồi dưỡng, xây dựng, hình thành ở cán bộ, chiến sĩ thế giới quan khoa học và cách mạng, có quan điểm và phương pháp xem xét, giải quyết các sự kiện, hiện tượng một cách đúng đắn, có lập trương, bản lĩnh chính trị vững vàng, có thái độ kiên quyết đấu tranh bảo vệ cái đúng, cái mới, cái tiến bộ, phê phán cái xấu, cái sai, cái tiêu cực, lạc hậu
Đấu tranh khắc phục, ngăn chặn những hiện tượng thoái hoá, biến chất về chính trị, đạo đức, lối sống, thiếu kiên định, thiếu nhạy cảm về chính trị, “dĩ hoà vĩ quý” “ gió chiều nào che chiều ấy”, cơ hội, thủ đoạn về chính trị, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh…
2. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang.
Kiên trì, giữ vững sự lãnh đạo duy nhất của Đảng, kết hợp với nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang, lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Đấu tranh chống thủ đoạn “phi chính trị hoá” quân đội của các thế lực thù địch.
Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Ban Chấp hành Trung ương mà thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với quân đội. Củng cố, kiện toàn nâng cao hiệu lực lãnh đạo của Đảng uỷ Quân sự Trung ương.
Xây dựng các tổ chức trong lực lượng vũ trang trong sạch vững mạnh đủ sức lãnh đạo đơn vị vững mạnh toàn diện, thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của quân đội. Thường xuyên củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp uỷ đảng gắn với kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ trì, cán bộ chủ chốt. Coi trọng củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng, đặc biệt là xây dựng chi bộ trong sạch vững mạnh, cải tiến, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Kết hợp chặt chẽ xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng đội ngũ đảng viên vững mạnh, có chất lượng cao, số lượng phù hợp, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Giữ vững và thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Đổi mới phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc. Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giữ nghiêm kỷ luật Đảng.
Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện ché độ một người chỉ huy gắn với chế độ chính uỷ, chính trị viên trong quân đội. Chế độ một người chỉ huy và chế độ chính uỷ, chính trị viên đều là bộ phận trong cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Người chỉ huy và người chính uỷ, chính trị viên hoạt động dưới sự lãnh đạo tập thể của đảng uỷ cùng cấp. Người chính uỷ, chính trị viên là người chủ trì về chính trị, chủ trì công tác đảng, công tác chính trị trong đơn vị. Quan hệ giữa người chỉ huy và người chính uỷ, chính trị viên là quan hệ hợp đồng công tác.
Tiếp tục nghiên cứu, đổi mới, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang. Kết hợp chặt chẽ giữa giữ vững sự lãnh đạo của Đảng với tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với lực lượng vũ trang. Không đối lập sự lãnh đạo của Đảng với sự quản lý của Nhà nước. Khắc phục quan niệm sai lầm đòi tăng cường sự quản lý của Nhà nước bằng cách buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang.
3 Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư, công tác tổ chức trong lực lượng vũ trang
Nắm vững đường lối, nhiệm vụ chính trị; bám sát đối tượng và tình hình thực tiễn, đổi mới nội dung hình thức, tiến hành công tác tư tưởng, công tác tổ chức phù hợp, thiết thực kịp hời. đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, văn hoá, nhất là công tác giáo dục chính trị, công tác tư tưởng lý luận, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; xây dựng và tuyên truyền đường lối, chính sách, giải thích có lý, có tình những hiện tượng của đời sống xã hội; đấu tranh tư tưởng lý luận; xây dựng, củng cố niềm tin vào mục tiêu lý tưởng, xây dựng động cơ, trách nhiệm, quyết tâm thực hiện nhiệm vụ cho cán bộ, chiến sĩ. Đổi mới  công tác tổ chức xây dựng Đảng, công tác cán bộ, công tác quần chúng, công tác chín sách…kết hợp chặt chẽ công tác tưởng với công tác tổ chức và công tác chính sách để tiến hành có hiệu quả mọi nhiệm vụ, mọi lĩnh vực hoạt động của lực lượng vũ trang
4. Xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ, đặc biệt là vai trò của đội ngũ cán bộ chính trị trong xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị
Đội ngũ cán bộ là lực lượng nòng cốt tạo thành tổ chức, tạo thành quân đội. Đường lối, chính sách và cán bộ là nhân tố quyết định sự nghiệp cách mang, xây dựng và hoạt động của lực lượng vũ trang. Bản chất giai cấp công nhân, bản chất chính trị xã hội, sức mạnh chính trị của lực lượng vũ trang được thể hiện tập trung ở phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ. Đội ngũ cán bộ là người trực tiếp chỉ huy đơn vị, giáo dục rèn luyện chiến sĩ, tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh làm cơ sở để xây dựng các đơn vị lực lượng vũ trang  vững mạnh vè chính trị, giáo dục, rèn luyện chiến sĩ. Để xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh về chính trị phải hết sức coi trọng xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ trì về chính trị.
5. Xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội trong lực lượng vũ trang vững mạnh, hoạt động đúng chức năng, đảo bảo chất lượng, hiệu quả.
Các tổ chức chính trị trong lực lượng vũ trang gồm: đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội phụ nữ, Công đoàn, Hội đồng quân nhân. Đây là một bộ phận của hệ thống chính trị được tổ chức và hoạt động ở các đơn vị lực lượng vũ trang để đại diện, bảo vệ lợi ích và thực hiện, phát huy quyền làm chủ của các thành viên, hội viên. Cùng với việc xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện thì xây dựng tổ chức chính trị,  xã hội vững mạnh sẽ trực tiếp góp phần xây dựng, củng cố thể chế chính trị trong lực lượng vũ trang vững mạnh – một nội dung cơ bản xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị.
6. Tăng cường củng cố sự đoàn kết thống nhất, phát huy dân chủ, tăng cương kỷ luật, giải quyết tốt các mối quan hệ trong nội bộ lực lượng vũ trang.
Quan hệ chính trị của lực lượng vũ trang được thể hiện trước hết ở quan hệ trong nội bộ lực lượng vũ trang. Xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị phải coi trọng xây dựng củng cố và giải quyết đúng đắn các mối quan hệ trong nội bộ lực lượng vũ trang, đó là mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, quan hệ đồng chí đồng đội, quan hệ cá nhân với tổ chức, lãnh đạo, chỉ huy với phục tùng… Đây là mối quan hệ nội tại bên trong của quân đội cách mạng, được thể hiện trên cơ sở giác ngộ sâu sắc về mục tiêu, lý tưởng, nhiệm vụ, thống nhất lợi ích. Vì vậy, các mối quan hệ đó phải được thực hiện trên cơ sở  tuân thủ nghiêm ngặt những quy định của điều lệnh, kỷ luật của lực lượng vũ trang đồng thời phải thực sự dân chủ, bình đẳng, thống nhất về mục tiêu, lý tưởng, nhiệm vụ, lợi ích. Cá mối quan hệ đó phải được xây dựng và giải quyết trên nền tảng của tình cảm đồng chí, đồng đội, luôn sát cánh bên nhau, đồng cam cộng khổ để hoàn thành nhiệm vụ. Đó phải là mối quan hệ đoàn kết, thương yêu, đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau được tạo lập và phát triển từ yêu càu của hoạt động lực lượng vũ trang, hoạt động chiến đấu.
7. Nâng cao chất lượng công tác dân vận, giữ vững, tăng cường quan hệ đoàn kết quân dân.
Lực lượng vũ trang ta là lực lượng vũ trang của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Gắn bó mật thiết với nhân dân là thể hiện bản chất cách mạng, bản chất giai cấp công nhân của lực lượng vũ trang. Hơn nữa, cơ sở chính trị xã hội vững chắc của quân đội là nhân dân, sức mạnh từ gốc của lực lượng vũ trang là trận địa lòng dân. Gắn bó mật thiết với nhân dân, vì nhân dân mà chiến đấu… Là tiêu chí để phân biệt quân đội cách mạng với phản cách mạng, đồng thời thể hiện tập trung bản chất chính trị của lực lượng vũ trang. Xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị phải coi trọng giữ vững, tăng cường quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tiến hành và nâng cao công tác dân vận. 
8. Thường xuyên quán triệt và tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị, phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang trong giữ vững ổn định chính trị .
Hồ Chí Minh khẳng định: Chính trị của lực lượng vũ trang phải được thể hiện trong lúc đánh giặc. Xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị được thể hiện bằng những hoạt động chính trị, giải quyết các mối quan hệ chính trị, được hội tụ ở việc tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị.
Cần thực hiện thống nhất và thực hiện tốt chức năng đội quân chiến đấu, đội quân sản xuất, đội quân công tác của lực lượng vũ trang trong thời kỳ mới. Thường xuyên giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ nắm vững đường lối, chính sách phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng an ninh, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới. xây dựng quân đội cách mạng chính quy tinh nhuệ từng bước hiện đại; xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, vững chắc; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ rộng khắp mọi nơi nòng cốt cho nhân dân địa phương đánh giặc. Nâng cao chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu, trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang. Tổ chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu. Ngăn chăn làm thất bại mọi mưu đồ xâm lược, “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.

Vai trò của lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn cách mạng hiện nay


Vai trò của lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn cách mạng hiện nay
ĐTM/2019
Cùng toàn Đảng, toàn dân tích cực đấu tranh phong chống “Diễn biến hoà bình” , bạo loạn lật đổ; là lực lượng nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân ngăn chặn và làm thất bại các cuộc chiến tranh xâm lược ở các quy mô và cường độ khác nhau, làm tròn chức năng đội quân chiến đấu cả vũ trang và phi vũ trang trong giai đoạn mới
Luôn luôn là lực lượng chính trị đặc biệt tin cậy, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là trên lĩnh vực chính trị, giữa vững ổn định chính trị của đất nước, tạo môi trường chính trị thuận lợi để phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại, làm tròn chức năng đôi quân công tác trong giai đoạn mới.
Tích cực tham gia, xây dựng kinh tế, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Lực lượng vũ trang không chỉ là lực lượng bảo vệ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mà còn là lực lượng quan trọng góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, làm tròn chức năng lực lượng vũ trang lao động sản xuất trong giai đoạn mới.

Những yếu tố tác động đến xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị trong giai đoạn hiện nay


ĐTM/2019
Cục diện kinh tế, chính trị thế giới thay đổi sâu sắc, nhanh chóng, nhất là sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu làm cho tương quan so sánh lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng thay đổi bất lợi cho chủ nghĩa xã hội.
Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc tiếp tục diễn ra trong điều kiện mới, với những nội dung mới, hình thức phức tạp mới,  dưới những sắc thái mới, mà tính chất của chúng không kém phần gay go, quyết liệt
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại phát triển với tốc độ phi thường đưa tới những tiến bộ to lớn, làm xuất hiện nhiều nhân tố mới trong kinh tế và cả trên các mặt của đời sống xã hội … đồng thời, làm nảy sinh những khó khăn thánh thức mới cực kỳ gay gắt.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù định thay đổi chiến lược tiến công chủ nghĩa xã hội và các phong trào cách mạng tiến bộ trên thế giới, từ xâm lược bằng vũ trang là chủ yếu sang xâm lược bằng phi vũ trang, bằng chiến lược “Diễn biến hoà bình” là chủ yếu, kết hợp với răn đe quân sự, sẵn sàng tiến hành chiến tranh xâm lược, kể cả tiến hành chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao.
Cuộc đấu tranh để giải quyết vấn đề “ ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, nhằm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của đời sống xã hội những nhân tố kinh tế, chính trị xã hội, giai cấp, tư tưởng đang biến đổi và tác động đến xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị trên các mặt chủ yếu sau đây:
Sự tác động của nền kinh tế nhiều thành phần, cơ chế thị trường đến xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị
Sự phát triển của kinh tế, sự ổn định chính trị của đất nước đã tác động tích cực đến nhận thức chính trị, tư tưởng, tình cảm, tâm lý của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang: lòng tin vào Đảng, vào chế độ được củng cố, ý thức, trách nhiệm chính trị đối với sự nghiệp xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được nâng cao, làm tăng thêm sức mạnh chính trị – tinh thần của lực lượng vũ trang .
Tuy nhiên, bên cạnh sự tác động tích cực, thì mặt trái của nền kinh tế nhiều thành phần và cơ chế thị trường đã làm xuất hiện những tiêu cực mới, tác động không nhỏ đến lực lượng vũ trang như: ý thức giác ngộ chính trị; nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; sự thoái hoá biến chất, chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Vì vậy, việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, kiên định mục tiêu, lý tưởng, con đường chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn là vấn đề cốt tử trong xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị.
Sự tác động của những biến đổi về cơ cấu xã hội – giai cấp ở nước ta hiện nay đến xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị. Trong quá trình vận động, biến đổi, các giai cấp và tầng  lớp xã hội có xu hướng xích lại gần nhau, liên kết, hợp tác với nhau, trên cơ sở khối đại đoàn kết dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Mặt khác với cơ cấu xã hội – giai cấp không thuần nhất, phát triển đa dạng, đan xen, vừa hợp tác vừa đấu tranh với nhau dẫn tới sự không thuần nhất về chính trị – tư tưởng, sự xuất hiện các khuynh hướng chính trị – tư tưởng, sự xuất hiện các khuynh hướng chính trị – tư tưởng khác nhau thậm chí đối lập nhau sẽ tác động đến quá trình xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị.
Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay phải giải quyết mâu thuẫn giữa việc tiếp tục xây dựng, củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ trang với thành phần tham gia lực lượng vũ trang từ các giai cấp, tầng lớp khác nhau của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ.
Hiện nay cùng với những tàn dư của tư tưởng phong kiến, tư tưởng tiểu tư sản là hệ tư tưởng tư sản, chủ nghĩa chống cộng và chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh, xét lại đang tấn công toàn diện và mạnh mẽ vào bản chất cách mạng của quân đội ta.
Bằng chiến lược “Diễn biến hoà bình”chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch coi trọng chống phá ta về chính trị, tư tưởng và văn hoá, chúng tìm mọi cách gieo rắc tư tưởng “về sự phá sản của chủ nghĩa Mác – Lênin”, rêu rao luận điệu “ Phi chính trị hoá” lực lượng vũ trang làm tha hoá về tư tưởng, đạo đức, lối sóng của cán bộ, chiến sĩ ta, làm cho lực lượng vũ trang biến chất về chính trị.
Đây  là cuộc chiến tranh không có khói lửa, không có tiếng súng, không dễ dàng nhận rõ mặt kẻ thù như trong chiến tranh vũ trang trước đây, chúng ta không chỉ chống lại chiến lược “Diễn biến hoà bình” mà còn chống lại cả nguy cơ “Tự diễn biến” từ bên trong.
Trong những điều kiện đó việc giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cho hệ tư tưởng đó trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh thần của lực lượng vũ trang, là một nội dung rất cơ bản, có tính chất quyết định đến xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị.
Quán triệt đường lối cách mạng của Đảng qua các thời kỳ và từ thực tiễn của cuộc đấu tranh cách mạng ở nước ta từ sau năm 1975 đến nay, tư duy về bảo vệ Tổ quốc của chúng ta đã có sự phát triển từng bước và đổi mới mạnh mẽ trong quá trình đổi mới đất nước.
Tư duy về bảo vệ Tổ quốc từ chủ yếu là tư duy về quân sự, về chiến tranh đã phát triển một cách toàn diện hơn về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời bình, bao gồm các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, ngoại giao, quân sự; về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng quân đội nhân dân để chủ động ứng phó với mọi tình huống, ngăn ngừa chiến tranh, tạo môi trường hoà bình để xây dựng đất nước, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng tiến hành thắng lợi chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc
Phải kết hợp chặt chẽ quốc phòng – an ninh với đối ngoại; quốc phòng, an ninh, đối ngoại với xây dựng kinh tế, xây dựng đất nước theo đường lối đổi mới của Đảng. Trong khi đặt nhiệm vụ trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta không một phút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, luôn coi trọng nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, coi đó là hai nhiệm vụ gắn bó chặt chẽ, quan hệ khăng khít với nhau
Yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay được thể hiện trên một số nội dung chủ yếu sau đây:
Bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc gắn chặt với bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ Tổ quốc ngày nay là bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tưởng văn hoá và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ.
Xây dựng và phát triển chế  độ kinh tế xã hội chủ nghĩa một cách toàn diện, vững mạnh, đồng thời phải trực tiếp bảo vệ từng tế bào của chế độ một cách kiên quyết và thường xuyên. Xây dựng và bảo vệ xâm nhập lẫn nhau, diễn ra một cách phổ biến, thường xuyên ở mọi lúc mọi nơi, trên tất cả các mặt, các lĩnh vực hoạt động, trong mỗi tổ chức, mỗi con người.
Tư duy mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay, một mặt nhấn mạnh tích cực xây dựng đất nước về mọi mặt theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa; mặt khác không coi nhẹ các biện pháp vũ trang bảo đảm có đủ sức mạnh cần thiết để răn đe, giữ vững hoà bình và sẵn sàng đánh bại chiến tranh xâm lược. điều đó đòi hỏi:
Phải chăm lo xây dựng tiềm lực mọi mặt của đất nước: tiềm lực kinh tế, tiềm lực chính trị – tinh thần, tiềm lực khoa học – công nghệ và tiềm lực quân sự tạo nên sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, bảo vệ, giữ gìn hoà bình, không để xảy ra chiến tranh là thượng sách để giữ nước. Xây dựng đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội là tạo ra sức mạnh lớn nhất để bảo vệ đất nước, là quá trình bảo vệ tích cực nhất, chủ động nhất. Mỗi bước phát triển của quá trình xây dựng là tạo nên một sức mạnh mới để bảo vệ Tổ quốc
Tăng cường xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống.
Gắn chặt nhiệm vụ quốc phòng an ninh và đối ngoại trong công cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ động đối phó có hiệu quả và sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và hành động chống phá từ bên trong và tấn công quân sự từ bên ngoài của các thế lực thù địch.

Xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh


Xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh
DTM25/2019
Vận dụng sáng tạo những nguyên lý xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới của chủ nghĩa Mác – Lênin, kế thừa những kinh nghiệm quý báu về xây dựng lực lượng vũ trang trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt lên hàng đầu vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị, xây dựng và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc, làm cho lực lượng vũ trang ta luôn là lực lượng chính trị trung thành và tin cậy của Đảng, của Nhà nước và của nhân dân.
Bằng hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam về chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta di sản quý báu, thể hiện ở một số nội dung sau:
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt lên hàng đầu vấn đề xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở cho mọi mặt khác, coi việc xây dựng nhân tố chính trị tinh thần là một trong những yêu tố quyết định đến tiến trình và kết cục của chiến tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “ Nhiệm vụ quân sự phải phục tùng nhiệm vụ chính trị” và “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”
Tư tưởng coi trọng nhân tố chính tri – tinh thần, coi trọng nguyên tắc xây dựng về chính trị thể hiện tập trung ở vấn đề cốt lõi là củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ trang, bảo đảm cho lực lượng vũ trang ta luôn luôn là lực lượng chính trị trung thành tin cậy của Đảng, của Nhà nước, của nhân dân
Xây dựng bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ trang ở một nước mà thành phần tham gia lực lượng vũ trang là con em của các tầng lớp nhân dân lao động, chủ yếu là nông dân, là đóng góp lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về lý luận xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới của giai cấp công nhân. Đồng thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận về sự thống nhất gắn bó giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của lực lượng vũ trang nhân dân.
Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn các mối quan hệ cơ bản như quan hệ giữa lực lượng vũ trang với Đảng, với Nhà nước, với nhân dân, quan hệ trong nội bộ lực lượng vũ trang, quan hệ giữa lực lượng vũ trang ta với lực lượng vũ trang các nước xã hội chủ nghĩa – những mối quan hệ cơ bản quyết định quá trình hình thành, phát triển bản chất cách mạng và truyền thống tốt đẹp của quân đội ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị gắn liền với những quan điểm xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trải qua thực tiễn hơn sáu thập kỷ qua những tư tưởng đó ngày càng được bổ sung, hoàn thiện và trở thành những vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng  lực lượng vũ trang. Đó là nguyên tắc coi trọng xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị là “gốc”, là cơ sở cho xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh toàn diện; không ngừng củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tinh nhân dân, tính dân tộc; giữ  vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; kiên định mục tiêu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; xác lập và không ngừng nâng cao hiệu lực công tác đảng, công tác chính trị; xây dựng tổ chức đảng trong lực lượng vũ trang trong sạch, vững mạnh và xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng.
Thực tiễn hơn 60 năm xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta đã tạo dựng được sức mạnh chính trị – tinh thần to lớn của lực lượng vũ trang để chiến đấu và chiến thắng những lực lượng vũ trang xâm lược nhà nghề có số lượng đông, có vũ khí, trang bị, kỹ thuật hiện đại. Lực lượng vũ trang ta đã lập nên những chiến công vẻ vang, góp phần xuất sắc vào sự nghiệp đấu tranh giành quyền độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc, vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Những giá trị lý luận xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh cần được bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo trong giai đoạn hiện nay – giai đoạn lực lượng vũ trang phải tập trung sức tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở.

MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM QUÂN ĐỘI THAM GIA XỬ LÝ CÁC VỤ “BIỂU TÌNH, BẠO LOẠN” TRÊN ĐỊA BÀN VÙNG DÂN TỘC, TÔN GIÁO


MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM QUÂN ĐỘI THAM GIA XỬ LÝ CÁC VỤ “BIỂU TÌNH, BẠO LOẠN” TRÊN ĐỊA BÀN VÙNG DÂN TỘC, TÔN GIÁO
ĐTM 011/2019
Lợi dụng vấn dề “dân tộc, tôn giáo” kích động quần chúng gây rối, biểu tình bạo loạn, chống chính quyền, gây mất ổn định chính trị - xã hội là một thủ đoạn nguy hiểm mà các thế lực thù địch đã tích cực thực hiện ở vùng dân tộc, tôn giáo trong chiến lược “diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ “ tự diễn biến” “ tự chuyển hóa” chống phá cách mạng nước ta trong thời gian vừa qua cũng như hiện nay và sau này.
 Nhiệm vụ  của các đơn vị quân đội trên địa bàn vùng dân tộc, tôn giáo  hiện nay không chỉ là huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, làm nòng cốt xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh trong thế tranh chiến tranh nhân dân mà còn phải tham gia cùng với cấp ủy chính quyền địa phương giải quyết tại cơ sở những vấn đề phức tạp có thể dẫn đến biểu tình bạo loạn, giải quyết tốt vấn đề dân tộc, tôn giáo theo các qui định của chính phủ từng bước loại bỏ các yếu tố gây mất ổn định về chính trị.
Tổng kết công tác thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo của các đơn vị Quân đội; thực tiễn công tác đấu tranh chống “ gây rối chính trị”  biểu tình, bạo loạn trên vùng dân tộc, tôn giáo trong thời gian 15 năm qua. Chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm phục vụ cho công tác đấu tranh chống âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo thực hiện “diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch ở các đơn vị đóng quân trên địa bàn vùng dân tộc, tôn giáo trong tình hình hiện nay và trong tương lai.
1.  Thường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu cho lực lượng vũ trang.
Đấu tranh xử lý các vụ “biểu tình, bạo loạn” là một nhiệm vụ rất phức tạp, đòi hỏi cán bộ chiến sỹ không những phải có lập trường giai cấp vững vàng, mà còn đòi hỏi phải có trình độ học vấn cao,  kiến thức công tác thực tế, tinh thần tận tuỵ và phương pháp công tác khôn khéo, linh hoạt…Vì vậy công tác giáo dục chính trị tư tưởng giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong chuẩn bị và  tiến hành đấu tranh xử lý các vụ “biểu tình, bạo loạn”.
Công tác giáo dục phải làm cho cán bộ chiến sỹ có đủ bản lĩnh phân biệt rõ Ta –Địch, quán trệt sâu sắc nhiệm vụ của đơn vị, hiểu rõ ý định của chỉ huy, phương pháp hành động cụ thể của từng lực lượng trong các tình huống cụ thể.
Công tác giáo dục phải bồi dưỡng kỹ năng hành động cụ thể cho cán bộ và chiến sỹ : Phương pháp tuyên truyền vận động quần chúng làm chỗ dựa cho các lực lượng tổng hợp đấu tranh với địch. Cách thức, biện pháp đối phó với các đối tượng cụ thể, khả năng nhận biết, đối phó một cách nhạy bén, có hiệu quả với các thủ đoạn chống phá cụ thể  của địch. Khả năng nhận diện nhanh chóng các đối tượng cầm đầu, khả năng phát hiện, cô lập, trừng trị nhanh gọn bọn đầu sỏ trong đám đông. Trình độ sử dụng thành thạo các phương tiện hỗ trợ, trấn áp.
Bồi dưỡng ý thức tổ chức kỷ luật, tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh của chỉ huy, ý thức tôn trọng nhân dân… đảm bảo cho mỗi cán bộ chiến sỹ có đủ bản lĩnh vững vàng, tỉnh táo và chuẩn xác trong  mọi hành động, không để cho địch lôi kéo, kích động, không được manh động (cả lúc địch khiêu khích khi chưa có lệnh) phạm sai lầm tạo điều kiện cho địch lợi dụng.. Kiên quyết không để cho cán bộ chiến sỹ bắt tay vào làm nhiệm vụ khi chưa được chuẩn bị chu đáo về tinh thần, không có trang bị và phương tiện phù hợp, để địch tiến công gây tổn thất về người và vũ khí trang bị.
2. Nâng cao hiệu quả công tác vận động quần chúng của  các đơn vị Quân đội trên địa bàn vùng dân tộc, tôn giáo trong tình hình mới.
Hoạt động lợi dụng, kích động tín đồ “biểu tình, bạo loạn” chống chính quyền luôn luôn là hành vi cực kỳ nguy hiểm của các thế lực thù địch. Muốn đấu tranh  có hiệu quả với các thủ đoạn đó, chúng ta phải nắm được quần chúng , đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định thắng lợi của công tác đấu tranh, xử lý các vụ “biểu tình, bạo loạn” ở vùng dân tộc,tôn giáo.
Muốn nắm được quần chúng, phải triển khai và đẩy mạnh công tác vận động quần chúng lôi kéo quần chúng về phía cách mạng, giáo dục động viên họ và điều quan trọng hơn là tổ chức họ tham gia trực tiếp vào cuộc đấu tranh các âm mưu và thủ đoạn kích động tín đồ “biểu tình, bạo loạn” các thế lực thù địch. Tranh thủ sự ủng hộ của các chức sắc tiến bộ, động viên và tổ chức họ đấu tranh vạch mặt các ban chấp sự, các khung chính quyền ngầm, lực lượng ngầm của địch, tố cáo bọn xấu.
 Giải quyết vấn đề này đòi hỏi đòi hỏi các đơn vị quân đội phải chăm lo xây dựng các đội công tác dân vận ở đơn vị cơ sở có tổ chức chặt chẽ, đi vào hoạt động thường xuyên liên tục là một trong những hình thức, biện pháp cơ bản, phù hợp có tính khả thi cao đối với việc nâng cao chất lượng hiệu quả công tác dân vận nói chung và công tác vận động quần chúng tín đồ tôn giáo nói riêng
3. Phải thường xuyên nắm chắc tình hình địch.
Toàn bộ quá trình đấu tranh chống hoạt động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo của các thế lực thù địch và hiệu quả của quá trình đó phụ thuộc vào việc chúng ta có nắm vững hay không nắm vững tình hình địch. Chúng ta phải đối phó với kẻ thù có nhiều kiến thức, kinh nghiệm về hoạt động chia rẽ dân tộc, lợi dụng tôn giáo, hoạt động lật đổ, có mối quan hệ gắn bó sâu sắc với tôn giáo  ở Việt Nam. Muốn đấu tranh có hiệu quả với sự chống phá của kẻ thù phải tăng cường công tác nắm địch“biết địch, biết ta trăm trận không bại”. Muốn nắm chắc địch chúng ta phải xây dựng, củng cố lại mạng lưới nắm địch tuyệt đối trung thành, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ. Phục vụ cho lãnh đạo chỉ huy có phương án đối sách đúng đắn, không để ta bị bất ngờ trong mọi tình huống.
4.  Cùng với chính quyền địa phương nhanh chóng xử lý các vụ biểu tình, bạo loạn chính trị ở vùngdân tộc, tôn giáo.
Trong xử  lý các vụ “biểu tình, bạo loạn”  ở vùng dân tộc, tôn giáo cần đạt được các yêu cầu: Phải dự báo được khả năng xuất hiện “điểm nóng”“biểu tình, bạo loạn” ở những vùng trọng điểm.
Chuẩn bị chu đáo về phương tiện, trang bị phù hợp với yêu cầu của từng lực lượng đảm nhiệm các nhiệm vụ khác nhau trong xử lý các vụ “biểu tình, bạo loạn”, kịp thời tham mưu cho chính quyền có đối sách đúng đắn không để phát sinh mâu thuẫn, hạn chế sơ hở để kẻ địch lợi dụng.
Khi xảy ra“biểu tình, bạo loạn” lực lượng quân đội phải làm nòng cốt cho cấp uỷ, chính quyền địa phương xử lý tình huống chính xác, kịp thời trong thời gian ngắn. Lấy thuyết phục quần chúng bị kích động  là chính, bình tĩnh, khéo léo, mềm dẻo nhưng kiên quyết giải tán biểu tình, bắt đầu sỏ.
Lực lượng vận động quần chúng của các đơn vị quân đội cần phối hợp với địa phương  tranh thủ số chức sắc tiến bộ, dùng họ thuyết phục quần chúng tín đồ, nhưng kiên quyết xử lý các hành vi quá khích, cực đoan. Bảo vệ an toàn các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể, cơ sở vật chất, tài sản của công dân và Nhà nước trên địa bàn.
Trong nhiều năm tới các thế lực thù địch vẫn  lấy địa bàn  vùng dân tộc, tôn giáo làm  trọng điểm để thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình”,   triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo kích động quần chúng biểu tình, bạo loạn gây bất ổn định chính trị, chống phá cách mạng nước ta. Vì vậy, các đơn vị quân đội trên địa bàn vùng dân tộc , tôn giáo cần phải nhanh chóng tổng kết kinh nghiệm thực tiễn từ quá trình thực hiện nhiệm vụ tham gia xử lý “biểu tình, bạo loạn” ở vùng dân tộc, tôn giáo trong 15 năm qua,  áp dụng vào việc xây dựng hoàn chỉnh các phương án đối phó với các thủ đoạn mới hiện nay và trong tương lai của các thế lực thù địch./. 
 Tài liệu tham khảo.
1. Đảng uỷ Quân sự trung ương (1999), chỉ thị về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo Quân đội thực hiện công tác tôn giáo trong tình hình mới, số36/ ĐUQSTW. Ngày 23/ 02/1999.
     2. Phạm quang định ( 2005) “ diễn biến hoà bình” và cuộc đấu tranh chống diễn biến hoà bình ở Việt Nam, Nxb qđ nd, Tr 98
     3. Đinh Quang hùng (2007) “xây dựng, sử dụng mạng l­ưới bí mật trong chuyên án B905 - một số vấn đề rút ra  Tạp chí khoa học biên phòng số 04 năm  2007, Tr59   
     4. Một số vấn đề dân tộc, tôn giáo trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc . Nxb qđnd 2007
      5. Hồ Chí Minh (2000) “Th­ư gửi các vị Tăng ni và đồng bào phật  giáo  nhân dịp lễ Đức Phật Thích ca thành đạo ”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 8, Nxb CTQG, Hà nội, Tr 290,






BỒI DƯỠNG RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH CÔNG TÁC CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHÍNH TRỊ QUÂN ĐỘI HIỆN NAY THEO LỜI DẠY CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH


BỒI DƯỠNG RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH CÔNG TÁC CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHÍNH TRỊ QUÂN ĐỘI HIỆN NAY THEO LỜI DẠY CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
                                                                            DTM 008/2019.
Dưới ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã vững bước tiến lên giành được những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử mang tầm thời đại. Và ngày nay cả nước đang thực hiện đường lối đổi mới xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghiã, phấn đấu thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ở vào thời điểm hiện nay, đứng trước tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp khó lường, các thế lực thù địch phản động dùng mọi thủ đoạn nham hiểm nhất để phá hoại sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đồng thời những căn bệnh của Đảng cầm quyền chưa chữa khỏi. Do đó, xây dựng Đảng càng đòi hỏi phải chỉnh đốn Đảng, chỉnh đốn Đảng là nội dung cơ bản của xây dựng Đảng, Chỉnh đốn Đảng trước hết về tư tưởng, tổ chức, cán bộ, và phương thức lãnh đạo của Đảng, làm cho Đảng trong sạch, bảo đảm hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ mới. Việc xây dựng chỉnh đốn Đảng chủ yếu nhằm khắc phục những lệch lạc về tư tưởng, chính trị, sự thoái hóa biến chất trong đạo dức lối sống, thiếu tu dưỡng rèn luyện buông thả của một bộ phận cán bộ.
Ngay từ đại hội V của Đảng, đã nhận định tình hình xa sút phẩm chất, giảm sút ý chí chiến đấu một bộ phận cán bộ Đảng viên. “Nhiều người từ sai lầm trong sinh hoạt, quan liêu trong tác phong, đã đi đến chỗ biến chất trong lối sống, thoái hóa về chính trị[1]. Đại biểu đại hội VIII của Đảng nhận định: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, xa đọa về đạo đức lối sống. Một số cán bộ thoái hóa về chính trị, tuy rất ít nhưng hoạt động của họ của họ gây hậu quả hết sức nghiêm trọng[2] hiện tượng suy thoái này đến nay vẫn chưa được ngăn chặn và đẩy lùi, và không chỉ ở đảng viên thường mà cả ở cán bộ lãnh đạo cao cấp.
 Trước diễn biến phức tạp của tình hình và tác động tiêu cực của xã hội. Do đó, trong Đảng bộ Quân đội cũng còn không ít cán bộ, đảng viên còn biểu hiện hẫng hụt về chí tuệ, thiếu dũng khí đấu tranh, tư tưởng trung bình chủ nghĩa, cá biệt có cả cán bộ lãnh đạo các cấp mang nặng chủ nghĩa cá nhân, giảm sút ý chí, tư tưởng cơ hội thực dụng, tham nhũng chạy theo tham vọng quyền lực, danh lợi, cục bộ bản vị, chưa gương mẫu rèn luyện bản thân, ... Gây hậu quả sấu. Trong thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ còn biểu hiên dân chủ hình thức, đề cao uy quyền cá nhân...
Tóm lại, tất cả tình hình trên cho thấy, hơn lúc nào hết Đảng phải được xây dựng chỉnh đốn, trong đó vấn đề then chốt là cán bộ và công tác cán bộ. Để cho Đảng có đủ trình độ, trí tuệ, bản lĩnh, phẩm chất, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình, đáp ứng tình hình nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Đây không những là vấn đề then chốt mà còn là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp bách, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đối với vận mệnh chế độ ta và Đảng ta.
Riêng đối với những cán bộ chính trị, nhất là trong giai đoạn hiện nay, trình độ năng lực, kinh nghiệm công tác đảng, công tác chính trị còn hạn chế so với yêu cầu nhiệm vụ, chưa thực sự tiêu biểu về trí tuệ, về phẩm chất đạo đức tác phong công tác, như thiếu gương mẫu xa cách bộ đội, thiếu dân chủ, khoa học chưa xứng đáng là người chị người anh của bộ đội, thậm trí còn cán bộ chính trị “tồi, tệ, tụt” như  ý thức trách nhiệm kém trong công tác đảng công tác chính trị kém, nhưng lại hay ngồi lê mách lẻo, nói xấu người này chê bai người khác, trong quá trình làm việc thì mắc bệnh chây ì, tắc trách, ít chịu tìm tòi nguyên cứu làm cho bộ đội chê trách, còn họ thì ngày càng teo tóp về cách nghĩ cách làm, rồi họ cũng teo tóp cả hướng phát triển. Thậm chí cũng không phải không có một số cán bộ chính trị có biểu hiện “tư, tình, tiền” trước tác dộng của mặt trái của nền kinh tế thị trường họ chỉ coi trọng lợi ích riêng tư, sống giả nhân giả nghĩa, ham tư túi trục lợi cá nhân, cơ hội chủ nghĩa, trong số họ còn tư tình, háo tình ái, ham tiền bạc, thiếu tình đồng chí cao đẹp và tình đồng đội trong sáng.
Để góp phần tiếp tục thực hiện đúng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng bồi dưỡng rèn luyện tác phong công tác người cán bộ chính trị trong quân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của quân đội, nhiệm vụ công tác đảng, công tác chính trị trong giai đoạn hiện nay, cần phải tiếp tục một số giải pháp là:
Một là, cần phải quán triệt nắm vững Tư tưởng Hồ Chí Minh về tác phong công tác của người cán bộ chính trị, để nhận thức đúng đắn đầy đủ ý nghĩa giá trị vai trò vị trí tác phong công tác của người cán bộ chính trị trong quân đội cách mạng hiện nay.
Sự nhận thức đúng đắn tư tưởng Hồ Chí Minh về tác phong công tác của người cán bộ chính trị và con đường hình thành tác phong công tác của người cán bộ chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết  đòi hỏi người cán bộ trong quân đội đặc biệt là người cán bộ chính trị phải được quán triết sâu sắc đầy đủ, thấm nhuần sâu sắc lí luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng, mục tiêu nhiệm vụ chiến đấu của quân đội, nhiệm vụ công tác đảng công tác chính trị và coi đó là nền tảng tư tưởng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản. Do vậy, Hồ Chí Minh đã dậy: “lí luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế... không có lý luận thì như nhắm mắt mà đi”[3]. Tư tưởng của Người về vai trò tác phong công tác của người cán bộ chính trị mãi mãi là nguyên tắc phương pháp luận quan trọng đối người cán bộ, đặc biệt là người cán bộ chính trị trong quân đội hiện nay và mai sau. Tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá phát triển năng động nhưng cũng đầy phức tạp, các lực lượng thù địch đang tấn công trực diện vào hệ tư tưởng cách mạng, vào các giá trị văn hoá đạo đức lối sống tốt đẹp của dân tộc, vào trong quân đội, vào cả tác phong công tác của người cán bộ chính trị. Thực tiễn đó càng đòi hỏi người cán bộ chính trị phải thấm nhuần sâu sắc sự dậy bảo của Bác, nhằm không ngừng chăm lo xây dựng tư tưởng chính trị, nâng cao năng lực và tác phong công tác của người cán bộ chính trị trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Mặt khác, phải kế thừa, phát huy phát triển các giá trị truyền thống cao đẹp của dân tộc của nền văn hiến Việt Nam.
Hai là, tập trung nâng cao bản lĩnh chính trị trong quá trình bồi dưỡng rèn luyện của người cán bộ chính trị trong giai đoạn hiện nay.
Bản lĩnh cán bộ chính trị có tác động và ảnh hưởng rất lớn đến mức độ hoàn thành nhiệm vụ, dặc biệt những lúc khó khăn, những bước ngoặt hoặc trong giai đoạn các liệt gian khổ ác liệt của chiến tranh. Đây là phẩm chất cơ bản , chủ đạo của người cán bộ chính trị . hiện nay mặc dù dang xây dựng trong thời bình với nhiệm vụ chủ yếu là huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, tham gia lao động sản xuất, xây dựng chính tri trên một số vùng trọng điểm, một số lĩnh vực, nhưng thực tế quân đội cũng đang phải chịu ảnh hưởng của mặt trái cơ chế thị trường tác động, sự chông phá quyết liệt về tư tưởng tổ chức của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch ...tất cả những yếu tố đó đòi hỏi người cán bộ chính trị phải có bản lĩnh chính trị vững vàng. Bản lĩnh đó trước hết biểu hiện ở trình độ nhận thức và lòng tin sau sắc vào chủ nghĩa chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đường lối chủ trương chính sách của Đảng. Theo Hồ Chí Minh “lí luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lí luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi. Vì vậy, trong quá trình bồi dưỡng rèn luyện, người cán bộ chính trị cần bồi dưỡng trình độ bồi dưỡng trình độ nhận thức chính trị, tình cảm chính trị và hành vi chính trị, bảo đảm nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng. Không những nâng cao nhận thức, cảnh giác cách mạng, luôn nhận rõ âm mưu thủ đoạn của kẻ thù, chú trọng bồi dưỡng thế giới quan phương pháp luận khoa học, bồi dưỡng phương pháp tư duy chính trị trong trong giải quyết các mỗi quan hệ chính trị xã hội.
Ba là, nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, trước hết là năng lực chính trị và quân sự để cán bộ chính trị hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Cán bộ chính trị trong quân đội là những người chuyên trách công tác Đảng công tác chính trị - lĩnh vực công tác đặc thù này đặt ra yêu cầu là người cán bộ chính trị không những phải giỏi công tác tư tưởng, công tác tổ chức mà phải có kiến thức toàn diện, cả về chính trị quân sự, kính tế, văn hoá, khoa học, nghệ thuật. Nếu không có kiến thức toàn diện thì người cán bộ chính trị không thể hoàn thành tốt nhiệm vụ. Nhưng trước hết người cán bộ phải nắm chắc nguyên tắc, nội dung, hình thức, phương pháp tiến hành công tác Đảng công tác chính trị trong quân đội. Chính vì vậy, trong quá trình bồi dưỡng, rèn luyện của mình, người cán bộ chính trị phải có hiểu biết rộng về các lĩnh vực xã hội và nhân văn, cùng khối kiến thức về khoa học quân sự, kỹ thuật quân sự, tuy nhiên bên cạnh sự hiểu biết rộng về các chuyên ngành trên, người cán bộ chính trị cần phải đặt tới trình độ tiên tiến, sâu sắc về những khối kiến thức khoa học xã hội và nhân văn, không những chỉ ở mức độ nhận thức mà cần phải đạt tới hoàn thiện về kỹ năng hành động trong tổ chức thực hiện cùng với sự tiến bộ không ngừng của khoa học công nghệ. Đòi hỏi tri thức toàn diện của người cán bộ chính trị, không ngừng gia tăng và tăng cường hoàn thiện. Vì vậy, trong quá trình bồi dưỡng cho người cán bộ chính trị cần tập trung rèn luyện óc tư duy lí luận, khả năng quán triệt các nghị quyết của Đảng, trình độ tổ chức thực hiện và rút kinh nghiệm thực tiễn, trên cơ sở đó để có thể vận dụng lí luận kinh nghiệm vào giải quyết các vấn đề này vào trong quá trình hoạt động của đơn vị. Cho nên cấp uỷ Đảng và chỉ huy các cấp trong quân đội cần có quy định, kế hoạch để bồi dưỡng cán bộ chính trị vừa là nhà lãnh đạo vừa là nhà chỉ huy, vừa là nhà lí luận có kiến thức cơ bản vững, có trình độ chuyên môn sâu cao . Nắm được được các kiến thức chuyên ngành có liên quan. Đồng thời tự bản thân người cán bộ chính trị phải thường xuyên cập nhập các kiến thức mới phù hợp với sự vận động của thời đại về thực tiễn kinh tế xã hội ở trong nước, kịp thời bổ xung những kiến thức còn yếu trên tinh thần “học, học nữa, học mãi” của V.I.Lênin.
Bốn là, nâng cao phẩm chất đạo đức lối sống và tác phong của người cán bộ chính trị, kiên quyết phê phán tư tưởng lặc hậu trong nhận thức về tác phong công tác của người cán bộ chính trị, đấu tranh với mọi biểu hiện tác phong thiếu dân chủ, không khoa học, tác phong làm việc làm việc bàn giấy, thiếu sâu sát bộ đội.
Bất kỳ trong giai đoạn cách mạng nào đối với người cán bộ chính trị thì yêu cầu đầu tiên là phải có phẩm chất đạo đức trong sáng, mẫu mực, với lối sống tác phong nghiêm túc, giản dị sâu sát...người cán bộ chính trong quan đội phải là những tấm gương tiêu biểu về những phẩm chất tốt đẹp của dân tộc Việt Nam mà Hồ Chí Minh đã khái quát. Ở tư cách người cách mạng ngay tư tác phẩm đường cách mệnh và nhiệm vụ của người cán bộ chính trị quân đôị. Đó là sự kết hợp giữa phẩm chất truyền thống tốt đẹp của con người Việt Nam, với những đức tính của người cán bộ cộng sản. Tuy nhiên trong điều kiện sự nghiệp cách mạng tiến lên công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, với những tác động của nền kinh tế thị trường, trước sự phá hoại của các thế lực thù địch thì phẩm chất đạo đức lối sống nói chung, của người cán bộ chính trị nói riêng càng đòi hỏi cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.                                                              





[1] Đảng cng sn Vit Nam , Văn kin Đại hi đại biu toàn quc ln th V, Tp III, Nxb S tht, HN 1982, tr.25
[2] Đảng cng sn Vit Nam , Văn kin Đại hi đại biu toàn quc ln th VIII, Nxb CTQG, HN 1996, tr.137
[3] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb. Chính tr quc gia, Hà ni, 2000,  t,5, tr234