Một
số giải pháp tăng cường công tác dân vận của quân đội ở các vùng dân tộc thiểu
số trong tình hình mới
ĐTM/2019
Tăng cường CTDV
của quân đội ở các vùng DTTS trong tình hình mới là tăng cường toàn diện cả về
lãnh đạo, chỉ đạo, cả lực lượng, phương tiện, tăng cường về mức độ và hiệu quả
tác động, phát triển cả bề rộng và chiều sâu, coi trọng chất lượng và bảo đảm
tính hệ thống, biến CTDV của quân đội thành công tác tự vận động, tự xây dựng,
tự bảo vệ của các DTTS, cùng cả dân tộc Việt Nam dựng nước và giữ nước.
Trong những điều kiện mới, CTDV cuả quân đội ở các vùng DTTS cần thực hiện tốt
các giải pháp sau:
1. Nâng cao nhận thức, phát huy
trách nhiệm, bồi dưỡng năng lực tiến hành công tác dân vận ở vùng dân tộc thiểu
số cho mọi lực lượng trước hết là các cấp uỷ đảng, cơ quan chính trị, cán bộ
chính trị, các tổ đội công tác
Đây
là giải pháp rất quan trọng, xuyên suốt và tạo cơ sở cho các giải pháp khác. Có
nhận thức đúng đắn sẽ củng cố động cơ, định hướng và thúc đẩy hành động tích cực
của cán bộ, chiến sĩ. Nhận thức càng sâu sắc, càng sát thực tiễn thì động cơ
càng mạnh mẽ, vai trò định hướng và thúc đẩy hành động càng rõ rệt. Trong đó, đặc
biệt là nhận thức của lãnh dạo, chỉ huy và cơ quan có vai trò rất quan trọng.
Nhưng
nhận thức của cán bộ, chiến sĩ không phải tự phát hình thành mà phải thông qua
hoạt động tư tưởng và tổ chức một cách đồng bộ, và phải thường xuyên, có kế hoạch,
có mục đích, phương pháp cụ thể thiết thực, nghiêm túc, kiên trì, bền bỉ.
Thực tiễn CTDV các vùng DTTS của các
đơn vị cho thấy, ở đâu cấp uỷ và người chỉ huy có nhận thức đúng, trách nhiệm
cao thì ở đó đội ngũ cán bộ, chiến sĩ được giáo dục quán triệt, bồi dưỡng
phương pháp, tác phong chu đáo. Họ luôn có nhận thức đúng về vị trí, tầm quan
trọng của CTDV đối với đồng bào các DTTS; phương pháp năng lực thực hành luôn
được củng cố, đơn vị đó luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Ngược lại, hầu
hết các khuyết điểm trong CTDV ở các vùng DTTS thời gian qua đều có nguyên nhân
từ sự thiếu quan tâm, trách nhiệm không cao, nhận thức đơn giản của các cấp uỷ,
người chỉ huy.
Để
CTDV của quân đội ở các vùng DTTS phát triển cả bề rộng và chiều sâu, có hiệu
quả cao, đòi hỏi phải làm tốt hơn nữa công tác giáo dục, quán triệt, nâng cao
nhận thức, trách nhiệm cho mọi tổ chức, mọi lực lượng tham gia. Trong tình hình
hiện nay, công tác giáo dục, quán triệt cần đạt được các yêu cầu sau:
-
Nội dung giáo dục phải bảo đảm tính toàn diện, chuyên sâu, phù hợp với trình độ
nhận thức, chức trách, nhiệm vụ của mỗi tổ chức, lực lượng, sát với tình hình địa
bàn và đối tượng tuyên truyền, vận động. Kết hợp giáo dục nhận thức với bồi dưỡng
phẩm chất, đạo đức tác phong, trang bị kiến thức kinh nghiệm, phương pháp tiến
hành CTDV cho bộ đội. Kết hợp giữa định hướng tư tưởng với hướng dẫn hành động,
rèn luyện bản lĩnh, sự nhạy cảm, khả năng phát hiện và đấu tranh phê phán, loại
bỏ những quan điểm tư tưởng, nhận thức, hành động sai trái.
-
Hình thức, phương pháp giáo dục phải phong phú, đa dạng, chặt chẽ, bảo đảm tính
thường xuyên, liên tục và gắn với các nhiệm vụ, hoạt động khác của đơn vị.
-
Phát huy cao vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ và chỉ huy các cấp; vai trò
tham mưu và tổ chức thực hiện của cơ quan chính trị, cán bộ chính trị và các tổ
chức quần chúng trong giáo dục, nâng cao nhận thức cho bộ đội.
Để
đạt được các yêu cầu đó, công tác giáo dục, quán triệt, nâng cao nhận thức cần
tập trung vào những nội dung sau:
-
Giáo dục những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và Đảng ta về vấn đề dân tộc, tôn giáo, công tác vận động quần chúng của Đảng,
của quân đội trong giai đoạn mới. Kết hợp giáo dục lý luận với việc bồi dưỡng
cho bộ đội nắm vững những vấn đề cơ bản về đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước; các chủ trương, chương trình kế hoạch phát triển, các phong
trào cách mạng của địa phương nơi đóng quân trên các lĩnh vực đời sống xã hội;
nhiệm vụ của quân đội, của đơn vị hiện nay.
-
Tăng cường bồi dưỡng kinh nghiệm thực tiễn tiến hành CTDV đối với đồng bào DTTS
cho cán bộ, chiến sĩ để họ nâng cao trách nhiệm và tự tin, chủ động trong thực
hiện nhiệm vụ.
Coi
trọng việc giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ nâng cao hiểu biết về phong tục, tập
quán, tín ngưỡng của đồng bào từng khu vực, từng dân tộc; bởi vì các tín ngưỡng,
tôn giáo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời sống tâm linh của đồng bào. Mặc
dù có nguồn gốc xuất xứ bản địa hay du nhập từ nước ngoài, ít nhiều đồng bào vẫn
tìm thấy trong các tín ngưỡng, tôn giáo một chỗ dựa tinh thần nào đó khi trong
cuộc sống, trong nhận thức, trong tình cảm gặp những khó khăn, rủi ro, bất trắc
do tự nhiên hay xã hội đưa lại; họ đều muốn hướng tới sự yên ổn, tu tâm dưỡng
tính, hướng thiện, chống lại cái ác; trừ các loại tà giáo hoặc âm mưu lợi dụng
của các thế lực thù địch.
Trong
tình hình hiện nay, hiểu biết và tôn trọng, có thái độ đúng đối với tín ngưỡng,
tôn giáo của đồng bào các DTTS là một yêu cầu rất cao của người làm CTDV nơi
đây.
Bên
cạnh đó, cần tập trung làm rõ âm mưu và những thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc,
tôn giáo để chống phá cách mạng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đối
với các vùng dân tộc và trên từng địa bàn đóng quân của từng đơn vị.
-
Bồi dưỡng xây dựng phương pháp, tác phong làm việc khoa học cho cán bộ, chiến
sĩ trong CTDV. Đó là tác phong sâu sát thực tế, cụ thể tỷ mỷ, thực hiện phương
châm nghe đồng bào nói, nói để đồng bào hiểu, hướng dẫn đồng bào, làm để đồng
bào tin và rèn luyện phong cách “trọng dân, gần dân, hiểu dân”, có trách nhiệm
với đồng bào. Chống biểu hiện quan liêu, hách dịch, xa rời thực tế, thiếu sâu
sát với đồng bào.
-
Bồi dưỡng cho cán bộ chiến sĩ có phương pháp tiếp cận tốt với đồng bào, biết
chào hỏi đồng bào theo đúng phong tục, thể hiện lòng thân ái, biết tránh các điều
kiêng kỵ, biết giao lưu văn hoá văn nghệ, nhất là các điệu múa của đồng bào các
dân tộc.
2. Tăng cường giáo dục và duy trì
nghiêm kỷ luật trong quan hệ với nhân dân đối với mọi cán bộ, chiến sĩ.
Các đơn vị quân
đội dù ở đồng bằng hay miền núi đều thường dóng quân trong các khu vực dân cư,
quá trình thực hiện nhiệm vụ huấn luyện SSCĐ, công tác đều thường xuyên tiếp
xúc với đồng bào. Nếu không có nhận thức đúng và giữ nghiêm kỷ luật dân vận sẽ
không những không vận động được đồng bào mà còn làm tổn hại đến uy tín đơn vị,
quân đội đến lòng tin của nhân dân.
Trong
thực tế thời gian qua, không ít trường hợp vi phạm kỷ luật dân vận, thiếu tôn
trọng, quậy phá, lừa dối hoặc lợi dụng đồng bào để làm việc sai trái đã xảy ra,
ảnh hưởng xấu đến CTDV, lòng tin và tình đoàn kết quân dân. Vì vậy, giáo dục và
duy trì nghiêm kỷ luật trong quan hệ với nhân dân là một nội dung biện pháp rất
quan trọng, vừa cơ bản lâu dài vừa cấp bách hiện nay.
Đạo đức là cái gốc của người cách mạng.
Trong giáo dục phải quan tâm đến chuẩn mực đạo đức của người quân nhân cách mạng;
các quy định của điều lệnh, điều lệ quân đội, 12 điều kỷ luật trong quan hệ quân
dân, pháp luật của Nhà nước, các quy định của địa phương, truyền thống của đơn
vị...làm cơ sở bồi dưỡng, rèn luyện tính tự giác, gương mẫu trong chấp hành đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; có phương pháp tác phong
khiêm tốn, giản dị, biết tôn trọng lắng nghe ý kiến của nhân dân; thành khẩn tiếp
thu và sửa chữa khuyết điểm, tạo sự tự tin cho đồng bào.
Đặc
biệt, với đồng bào các dân tộc thiểu số, do điều kiện ngôn ngữ và các tập tục,
tín ngương riêng của từng dân tộc, việc giữ nghiêm kỷ luật không chỉ dừng lại ở
các chế độ, nền nếp kỷ luật chung đã quy định, mà còn là ý thức và hành động
đúng, phù hợp với lễ giáo, thuần phong, mỹ tục của từng vùng.
Giáo dục, rèn luyện cán bộ, chiến sĩ gương mẫu
chấp hành pháp luật, giữ nghiêm kỷ luật dân vận, tôn trọng kỷ cương xã hội, tôn
trong phong tục, tập quán của đồg bào các DTTS. Giáo dục phải đi đôi với tổ chức
quản lý, duy trì kỷ luật vững chắc, kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi
phạm.
3. Nắm vững và vận dụng có hiệu quả
các hình thức công tác dân vận của quan đội.
Có
nhận thức đúng, nội dung chương trình công tác đúng muốn biến thành kết quả, hiệu
quả thực tế phải có các hình thức CTDV đúng. Coi trọng rút kinh nghiệm và vận dụng,
phát huy tốt hiệu quả của bốn hình thức công tác dân vận đã được tổng kết.
Trong
thời kỳ mới, cơ cấu thành phần dân cư ở các vùng, miền tiếp tục biến đổi theo
xu hướng ngày càng đa dạng, hoạt động kinh tế xẫ hội của các tầng lớp nhân dân
trở nên phức tạp, điều này đòi hỏi CTDV phải luôn đổi mới hình thức phù hợp với
từng đối tượng, từng địa bàn.
Để
thực hiện tốt giải pháp này, cần tập trung thực hiện các nội dung sau:
-
Cấp uỷ và chỉ huy các cấp quan tâm giáo dục, bòi dưỡng nâng cao phẩm chất năng
lực cho các tổ chức, các lực lượng, các tổ đội trực tiếp làm CTDV.
-
Cần xây dựng nội dung, kế hoạch, chương trình dạy tiếng dân tộc cho cán bộ chiến
sĩ; trước hết ưu tiên cho các dối tượng cán bộ dân vận chuyên trách, cán bộ
tham gia cấc đội công tác 123, cán bộ và chiến sĩ đội vận động quần chúng của
các đồn biên phòng.
Bồi
dưỡng trình độ hiểu biết tiếng dân tộc cho lực lượng chuyên trách làm CTDV, bởi
vì có trình độ chuyên môn giỏi nhưng chưa biết tiếng dân tộc, thì sẽ hết sức
khó khăn. Để khắc phục hạn chế này, một mặt cán bộ chuyên trách phải tích cực,
chủ động tự học tiếng dân tộc, tối thiểu là những từ ngữ phổ biến trong giao tiếp;
mặt khác các cơ quan đơn vị phải quan tâm gửi đội ngũ cán bộ này đi học tiếng
dân tộc ở các trường trong và ngoài quân đội. Thành thạo tiếng dân tộc là cơ sở
để người cán bộ nâng cao hiệu quả công tác vận động đồng bào. Đồng thời với vấn
đề học tiếng dân tộc, cần tập trung và phát huy lực lượng các quân nhân là người
DTTS cùng tham gia tiến hành CTDV.
-
Quan tâm bảo đảm kinh phí, phương tiện cần thiết cho lực lượng chuyên trách làm
công tác tuyên truyền vận động đồng bào.
-
Đối với các tổ đội, các cán bộ tăng cường cho cơ sở thì phải có kế hoạch kiểm
tra, đôn đốc, động viên kết hợp nhắc nhở kịp thời, tránh khoán trắng cho các lực
lượng này.
4. Kết hợp tốt việc tuyên truyền,
giáo dục, vận động với tích cực giúp nhân dân lao động sản xuất, ổn định đời sống
và bảo vệ dân trong mọi hoàn cảnh.
Hiệu quả CTDV xét cho cùng phụ thuộc
vào chính kết quả đời sống mọi mặt của đồng bào. Vì vậy, kết hợp tốt việc tuyên
truyền, giáo dục, vận động với tích cực giúp nhân dân lao động sản xuất, ổn định
đời sống và bảo vệ dân trong mọi hoàn cảnh là yêu cầu tất yếu.
Các đơn vị quân đội cần quan tâm, tham
gia giúp đỡ đồng bào lao động sản xuất, cùng địa phương phát triển kinh tế - xã
hội, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho đồng bào. Điều đó có ý nghĩa vô
cùng quan trọng, thể hiện phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân.
Đẩy mạnh vận động đồng bào định canh,
định cư, ổn định đời sống. Chú trọng giúp đỡ đồng bào biết tổ chức sản xuất, xoá
đói, giảm nghèo. Đối với các vùng có điều kiện, động viên hướng dẫn đẩy mạnh sản
xuất hàng hoá phù hợp với đặc điểm, điều kiện từng vùng, khai thác thế mạnh
trong sản xuất của từng hộ, từng địa phương, phấn đấu làm giàu cho gia đình,
đóng góp tích cực cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Đẩy
mạnh công tác xoá đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào các dân tộc;
tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình phủ sóng phát thanh, truyền
hình, tăng cường các hoạt động văn hoá - thông tin, tuyên truyền hướng về cơ sở...
Tham mưu cho địa phương xây dựng các dự
án, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, phát triển nhanh các khu kinh tế kết hợp
với quốc phòng ở các vùng đồng bào dân tộc; quan tâm đầu tư đồng bộ, có trọng
điểm vào xây dựng cơ sở hạ tầng ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Giúp địa
phương thực hiện các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng như điện, đường, trường, trạm,
nước sạch. Phối hợp cùng các ban, ngành địa phương thực hiện chương trình xoá
mù chữ, giảm tái mù chữ, phổ cập giáo dục, nâng cao trình độ dân trí. Tiến hành
các hoạt động văn hoá, duy trì các lễ hội truyền thống, giữ gìn phát huy bản sắc
văn hoá các dân tộc; đồng thời đấu tranh bài trừ các hủ tục văn hoá lạc hậu, đấu
tranh phòng ngừa văn hoá xấu độc thâm nhập vào đồng bào các dân tộc.
Đồng bào các DTTS thường sinh sống
trên các địa bàn có điều kiện khí hậu thời tiết khắc nghiệt, thường xuyên bị
thiên tai, lũ lụt, lũ quét, động đất, bệnh tật đe doạ. Bên cạnh đó, kẻ thù lợi
dụng khó khăn, tăng cường hoạt động phá hoại sản xuất, đời sống của đồng bào.
Nhiều trường hợp ở nhiều vùng biên giới cửa khẩu, kẻ xấu đã lợi dụng đồng bào để
làm ăn phi pháp, buôn lậu, phá rừng, vi phạm pháp luật.
Vì
vậy, trong tiến hành CTDV của các đơn vị, phải hết sức coi trọng các biện pháp
tích cực chủ động, kiên quyết bảo vệ đồng bào được an toàn cả về tính mạng, tài
sản, sự bình yên cuộc sống trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, mọi tình huống. Hướng
dẫn, động viên đồng bào biết và có khả năng tự bảo vệ trước sự tàn phá của cả
thiên nhiên khắc nghiệt và các thế lực thù địch, các đối tượng xấu.
5. Phối hợp chặt chẽ với cấp uỷ,
chính quyền địa phương nhằm xây dựng cơ sở chính trị địa bàn vững mạnh; tham
gia giải quyết có hiệu quả những yếu tố gây mất ổn định và xử lý các tình huống
phức tạp ở các địa phương.
Xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh toàn
diện là một mục tiêu chủ yếu của CTDV, nhằm thực hiện tư tưởng chỉ đạo xây dựng
chính là để phòng ngừa, là để bảo vệ tích cực, chủ động. Nội dung CTDV tham gia
xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở phải hướng
vào xây dựng thực lực chính trị, nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn trong
lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý Nhà nước của các tổ chức trong hệ thống chính trị
địa phương.
Trong điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội
các vùng dân tộc thiểu số còn hết sức khó khăn, điều kiện cán bộ, cơ sở vật chất
hoạt động của các tổ chức còn hạn chế, CTDV của quân đội tham gia xây dựng cơ sở
phải nghiên cứu kỹ tình hình, xác định nội dung, chương trình phải thiết thực
hiệu quả, tránh hình thức, hời hợt. Đặc biệt chú trọng việc tạo nguồn và giúp bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở người dân tộc thiểu số ở các vùng sâu, vùng xa, vùng
biên giới.
Hoạt động dân vận của các đơn vị phải
góp phần xây dựng thế trận và tiềm lực quốc phòng - an ninh ở cơ sở, xây dựng
khu vực phòng thủ và các phương án tác chiến trên từng địa bàn, từng cơ sở. Đẩy
mạnh tuyên truyền vận động nhân dân nâng cao cảnh giác, chủ động ngăn ngừa và xử
lý kịp thời các vụ việc nảy sinh, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn
xã hội, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng dân chủ, nhân quyền, tôn
giáo và dân tộc, gây chia rẽ đoàn kết quân dân của các thế lực thù địch.
Tham gia củng cố, xây dựng các tổ chức
cơ sở đảng vững mạnh là vấn đề cốt lõi để nâng cao hiệu lực thực tế của công
tác dân vận. Khéo vận động đồng bào cùng tham gia xây dựng các tổ chức đảng, khắc
phục những mặt yếu kém, các hiện tượng tiêu cực trong lãnh đạo, củng cố nâng
cao uy tín của các tổ chức đảng với đồng bào.
Tích cực tham gia xây dựng, củng cố tổ
chức chính quyền ở cơ sở vững mạnh đủ sức quản lý, điều hành mọi hoạt động của
địa phương, bảo đảm chính quyền thực sự của dân, do dân và vì dân. Thực hiện tốt
quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Các tổ đội công tác kịp thời phát hiện
và đánh giá đúng những mâu thuẫn nảy sinh trong nội bộ đồng bào, tham mưu giúp
chính quyền và cùng chính quyền giải quyết tốt các mâu thuẫn đó. Tăng cường xây
dựng mối quan hệ mật thiết giữ cấp uỷ đảng, chính quyền, đơn vị và nhân dân, đấu
tranh làm thất bại mọi âm mưu chia rẽ của địch.
Tham gia xây dựng các tổ chức đoàn thể vững
mạnh là một biện pháp rất quan trọng. Biết tổ chức giúp đỡ các tổ chức như: Mặt
trận tổ quốc, Hội cựu chiến binh, các tổ chức Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội
chữ thập đỏ kiện toàn tổ chức, thu hút hội viên, hoạt động có hiệu quả theo chức
năng của từng tổ chức.
Đẩy mạnh hoạt động kết nghĩa giữa đơn vị
với các tổ chức địa phương nhằm trao đổi kinh nghiệm và có điều kiện giúp đỡ địa
phương đẩy mạnh các phong trào quần chúng, góp phần tăng cường mối quan hệ đoàn
kết quân dân.
Tham gia xây dựng, vận động phát huy mặt
tích cực của các thiết chế văn hoá xã hội truyền thống của đồng bào các dân tộc,
cùng thực hiện tốt các chủ trương, kế hoạch, các phong trào, các cuộc vận động
của địa phương.
Bằng những nội dung, hình thức, phương
pháp phù hợp, có lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức chặt chẽ, các đơn vị quân đội phải
cùng với cấp uỷ chính quyền địa phương giải quyết tốt những vấn đề bức xúc nổi
lên như: tranh chấp đất đai, khiếu kiện đặc biệt, vượt biên trái phép, buôn lậu
qua cửa khẩu, tụ tập nghe truyền đạo trái phép; tụ tập kích động kỳ thị dân tộc,
các tệ nạn xã hội, phá rẫy, khai thác rừng trái phép... Để đảm bảo hiệu quả, giải
quyết vụ việc phải trên cơ sở phát huy dân chủ, lắng nghe ý kiến đồng bào, cùng
đồng bào bàn bạc, thảo luận trước khi xử lý các vấn đề liên quan đến lợi ích đồng
bào, lợi ích của từng buôn, bản, làng, phum sóc... theo đúng chủ trương, chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, tạo niềm tin cậy của đồng bào với Đảng,
Nhà nước, với chính quyền địa phương; bảo vệ đồng bào trong mọi điều kiện hoàn
cảnh.
Công tác dân vận của Quân đội nhân dân
Việt Nam có vị trí, vai trò rất quan trọng, là một bộ phận trong CTDV của Đảng
Cộng sản Việt Nam, một mặt hoạt động CTĐ, CTCT trong quân đội, nhằm vận động
cách mạng đối với nhân dân và xây dựng, tăng cường mối quan hệ, đoàn kết quân
dân. Tiến hành CTDV là nhiệm vụ chính trị, là chức năng và truyền thống quý báu
của quân đội, là vấn đề thuộc nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng.
CTDV có tầm quan trọng chiến lược trong sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng
và chiến đấu của quân đội ta.
Các DTTS ở Việt Nam chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ
trong dân số nhưng là bộ phận hữu cơ, có vai trò cực kỳ quan trọng trong khối đại
đoàn kết toàn dân, trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước với mọi tiến trình lịch
sử và cách mạng. Trách nhiệm và vinh dự của toàn Đảng, toàn quân, của cả hệ thống
chính trị là phải không ngừng tiến hành vận động, thực hiện có hiệu quả bền vững
công cuộc dựng xây vì sự nghiệp đại đoàn kết, đại thắng lợi của cả đại gia đình
các dân tộc Việt Nam. Đó là nhiệm vụ cấp bách, là truyền thống, là đạo lý Việt
Nam.
Công tác dân vận của quân đội ở các
vùng DTTS thời gian qua đã thu được những kết quả hết sức quan trọng, song cũng
còn bộc lộ nhiều yếu kém bất cập do nhiều nguyên nhân cả khách quan và chủ quan
tác động. Trong khi đó, kẻ thù đang ra sức lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để
chống phá cách mạng nước ta. Do đó, thực hiện tốt và tăng cường công tác dân vận
của quân đội ở các vùng dân tộc thiểu số là yêu cầu cấp thiết hiện nay.
Để tăng cường CTDV của quân đội ở các vùng
DTTS đáp ứng yêu cầu của tình hình nhiệm vụ mới, cần vận dụng đồng bộ và có trọng
điểm các giải pháp nêu trên. Mỗi giải pháp có vị trí, vai trò riêng, có cơ sở
lý luận và thực tiễn, yêu cầu và nội dung khác nhau, nhằm tác động trên từng mặt,
từng mức độ, song các giải pháp là một hệ thống có quan hệ chặt chẽ.
Vì
vậy, quá trình vận dụng tránh hiện tượng tách rời, hoặc cứng nhắc mà phải vận dụng
đồng bộ, có trọng tâm trọng điểm, linh hoạt, coi trọng chất lượng, hiệu quả,
góp phần thúc đẩy CTDV của quân đội ở các vùng DTTS ngày càng được tăng cường
và đi vào chiều sâu, vững chắc, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét