Chủ Nhật, 9 tháng 8, 2020
Chống dịch Covid-19: Tỉnh táo trước những luận điệu xuyên tạc trên mạng xã hội
Hành động phá hại của những người thích bơi ngược dòng
Một trong những
thành công trong công tác chống dịch Covid-19 của Việt Nam đó là sớm triển khai
các biện pháp phòng ngừa ở mức cao cũng như tổ chức truy vết, xác định nguồn
lây, nguồn tiếp xúc để từ đó nhanh chóng khoanh vùng ổ dịch. Đây là kinh nghiệm
quý báu mà đã được tổ chức y tế thế giới cũng như nhiều quốc gia trên thế giới
học hỏi và đánh giá cao.
Trong đợt bùng
phát dịch lần này, để hỗ trợ cho công tác truy vết, Chính phủ đã phát triển
cũng như liên tục khuyến cáo người dân cài đặt phần mềm Bluezone. Đây là một
phần mềm được Chính phủ ta đặt hàng cho BKAV phát triển. Trong khi số ca nhiễm
bệnh đang lây lan nhanh trong cộng đồng thì phần mềm Bluezone sẽ giúp chúng ta
nhanh chóng tìm nguồn lây, không để mất dấu những người tiếp xúc gần với bệnh
nhân. Nhóm phát triển phần mềm này cũng đã khẳng định ứng dụng chỉ lưu dữ liệu
trên máy người dùng, không thu thập dữ liệu về vị trí do dùng công nghệ
bluetooth. Người dùng tham gia cộng đồng được ẩn danh với người khác. Toàn bộ
dữ liệu liên quan do Bộ y tế quản lý theo quy định của các pháp luật. Với việc
càng nhiều người cài đặt ứng dụng này sẽ càng tạo thuận lợi cho công tác phòng,
chống dịch bệnh.
Vậy mà, trong
mấy ngày vừa qua, anh em dân chủ, phản động, những người luôn thích bơi ngược
dòng nước lại ra sức tuyên truyền việc Chính phủ sử dụng phần mềm này như một
công cụ để thu thập dữ liệu cá nhân. Trên cơ sở xuyên tạc về cơ chế hoạt động
của phần mềm, tạo nên sự lo ngại, nghi ngờ của người dân, các đối tượng này kêu
gọi mọi người không tải và cài đặt phần mềm.
Qua đây, một
lần nữa, chúng ta thấy mức độ phá hại của số anh em dân chủ, phản động này.
Phòng, chống dịch tốt thì bảo ta giấu dịch; dịch bệnh vừa có lây lan trong cộng
đồng thì chê bai quản lý yếu kém; đưa ra biện pháp phòng, chống dịch lại kêu
Chính phủ kiểm soát người dân. Các bạn hãy tải và cài đặt ngay phần mềm Bluezone
nhé. Vì mình và vì cộng đồng./.
Không thể chấp nhận cái gọi là “dân chủ” của các thế lực thù địch
Không thể chấp nhận cái gọi là “dân chủ” của các thế lực thù địch
Đẩy mạnh chống phá cách mạng Việt Nam thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình”, trong thời gian gần đây, các thế lực thù địch tung ra nhiều luận điệu đòi thực thi cái gọi là “dân chủ”, “tự do”. Họ tung hô, cổ súy quyết liệt việc đòi Việt Nam phải thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập để “có dân chủ và phát triển”. Họ cho rằng, “đa đảng là dân chủ, độc đảng là độc tài”; “Việt Nam phải đa đảng đối lập để có dân chủ thực sự”; “muốn thực sự có dân chủ cho người dân và phát triển xã hội phải thực hiện đa nguyên, đa đảng...
Cùng với tập trung đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, đòi Đảng Cộng sản Việt Nam phải từ bỏ quyền lãnh đạo cách mạng, các thế lực thù địch sử dụng chiêu bài “dân chủ” với mưu toan xóa bỏ chế độ chính trị hiện hành, đưa đất nước theo mô hình dân chủ tư sản. Họ vu khống rằng, “thể chế chính trị ở Việt Nam hiện nay là toàn trị”, “độc đoán”; “duy trì quyền lực chính trị bằng các công cụ, như cảnh sát, thực hiện bắt bớ, đàn áp những người không ủng hộ Nhà nước, ngăn cấm tự do thông tin, tự do hội họp, tự do báo chí, ngôn luận...”, vì thế mà không có “dân chủ”. Theo đó, các thế lực thù địch đòi “Việt Nam hiện nay phải chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ”, mà “dân chủ” phải bảo đảm được ba yếu tố: Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; bầu cử tự do; tư pháp độc lập, trong đó yếu tố đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập là quyết định nhất.
Các thế lực thù địch còn thổi phồng những sai lầm, thiếu sót về đường lối và chỉ đạo thực tiễn của Đảng trong quá khứ, đặc biệt là trên lĩnh vực quản lý kinh tế, quản lý - xã hội; đồng thời, ra sức lợi dụng khuyết điểm của một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái, tham nhũng, tiêu cực bị xử lý kỷ luật để nâng hiện tượng cá biệt thành bản chất, bôi đen chế độ, phủ nhận thành tựu công cuộc đổi mới và minh chứng cho sự cần thiết “chấm dứt vai trò lịch sử của Đảng”, rằng như thế mới có “dân chủ” và “phát triển”. Trắng trợn hơn, các thế lực thù địch ra sức hậu thuẫn cho xây dựng các lực lượng phản động, như cái gọi là “Đảng Việt tân”, “Đảng Dân chủ tự do Thiên Chúa giáo”, “Đảng Dân chủ tự do Phật giáo”..., mưu toan hình thành lực lượng đối lập để từng bước thực thi thứ “dân chủ” của họ trong xã hội Việt Nam.
Như vậy, có thể thấy, các thế lực thù địch đã sử dụng chiêu bài “dân chủ” làm khâu đột phá trong chiến lược “diễn biến hòa bình” để chống phá Việt Nam. Đằng sau tất cả những luận điệu tuyên truyền, hoạt động cả trực diện và không trực diện, đều hướng vào đòi thực thi thứ “dân chủ” ấy; trong đó, mục tiêu hàng đầu và mấu chốt của các thế lực thù địch là đòi thực hiện chế độ đa đảng, phủ nhận vai trò lãnh đạo, tiến tới loại bỏ Đảng Cộng sản Việt Nam ra khỏi tiến trình phát triển của dân tộc. Đây chính là mưu đồ hết sức thâm độc, nham hiểm và trắng trợn của các thế lực thù địch.
Dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn cho phép chúng ta khẳng định dứt khoát rằng, ở nước ta không cần và không thể chấp nhận thứ “dân chủ” mà các thế lực thù địch đang muốn áp đặt vào Việt Nam. Bởi vì:
Trên phương diện lý luận, chúng ta đều biết, dân chủ là phạm trù lịch sử, xuất hiện khi có nhà nước và mỗi nền dân chủ phải gắn với một nhà nước nhất định, được pháp luật quy định. Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng minh rằng, dân chủ xuất hiện và phát triển với tính chất là sản phẩm trực tiếp của đấu tranh giai cấp, đấu tranh xã hội, giải phóng loài người. Trong xã hội có giai cấp, tuyệt đối không thể có thứ dân chủ chung chung, phi giai cấp. Dân chủ tùy thuộc vào sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và trình độ dân trí trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. C. Mác đã chỉ rõ: “Quyền không bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định”. Theo V.I. Lê-nin, điều cốt tử nhất khi bàn đến vấn đề dân chủ là phải trả lời được câu hỏi, dân chủ của ai, cho ai và vì ai? Tự do cho ai và vì ai? Bởi vì, trong xã hội có giai cấp, dân chủ, tự do đối với bọn bóc lột có nghĩa là để áp bức những người bị bóc lột.
Từ lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy, nền dân chủ tư sản là một nấc thang đánh dấu sự phát triển đáng kể của dân chủ, nhưng toàn bộ thiết chế của nền dân chủ tư sản, từ việc tổ chức nhà nước đến các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện đều chỉ nhằm mục đích cao nhất là bảo vệ sự thống trị của giai cấp tư sản, bảo vệ quyền sở hữu, lợi ích của giai cấp tư sản, truyền bá tư tưởng tư sản chống lại tư tưởng tự do, dân chủ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Theo V.I. Lê-nin, nền dân chủ tư sản là nền dân chủ của một thiểu số những kẻ giàu có, dân chủ của giai cấp tư sản, do giai cấp tư sản, vì giai cấp tư sản chứ không phải dân chủ cho đa số nhân dân lao động. Còn dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự thay thế dân chủ tư sản trong nấc thang phát triển cao hơn của xã hội loài người tuân theo quy luật khách quan. Đó là nền dân chủ “gấp triệu lần” dân chủ tư sản. Bản chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa thể hiện trên các phương diện chủ yếu: 1- Là nền dân chủ của nhân dân lao động, vì nhân dân lao động, thể hiện ở việc bảo vệ quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của nhân dân lao động; 2- Dân chủ xã hội chủ nghĩa thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do được bảo đảm về mặt pháp lý để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân; 3- Dân chủ xã hội chủ nghĩa có nội dung toàn diện, thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, ý thức - tư tưởng, trong đó nổi bật là sự tham gia một cách bình đẳng và ngày càng rộng rãi của những người lao động vào công việc quản lý nhà nước và xã hội thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Tiêu chí cơ bản của dân chủ xã hội chủ nghĩa là nhân dân là chủ và làm chủ.
Xét từ bản chất của dân chủ tư sản - thứ “dân chủ” mà các thế lực thù địch đang muốn áp đặt vào Việt Nam và tính ưu việt của dân chủ xã hội chủ nghĩa, thì việc lựa chọn tất yếu ở Việt Nam là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Việt Nam hiện nay không cần và không chấp nhận dân chủ tư sản.
Trên phương diện thực tiễn, dân chủ là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển đất nước. Chúng ta đã và đang hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Quan điểm cho rằng, phải có đa đảng mới “có dân chủ và phát triển” là hoàn toàn sai lầm. Trên thực tế, thể chế nhất nguyên một đảng lãnh đạo hoàn toàn không đồng nghĩa với mất dân chủ, kém phát triển và kém dân chủ; dân chủ không đồng nghĩa với đa nguyên, đa đảng. Trên thế giới hiện nay, có không ít nước đa đảng nhưng vẫn mất dân chủ, vẫn là những nước nghèo, kém phát triển nhất; ngược lại, có những nước chỉ có một đảng lãnh đạo, nhưng dân chủ được bảo đảm, kinh tế - xã hội phát triển, đời sống nhân dân sung túc. Điều đó minh chứng rằng, đa nguyên, đa đảng không phải là cứu cánh cho dân chủ và sự phát triển. Đúng như đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Không phải có nhiều đảng thì dân chủ hơn, ít đảng thì ít dân chủ hơn”.
Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc ra sức hy sinh, phấn đấu cho nền dân chủ cao đẹp nhất mà loài người từ xưa đến nay khát khao vươn tới - nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Chín mươi năm qua, với tư cách một đảng mác-xít chân chính, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, đưa nhân dân từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu của các thế lực thù địch khi cổ xúy cho cái gọi là “dân chủ” là nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ thành quả cách mạng, hướng lái đất nước theo nền dân chủ tư sản, tước đi quyền làm chủ của nhân dân đã giành được bằng xương máu của nhiều thế hệ. Để không xảy ra những hậu quả tai hại đó, thì ở Việt Nam hiện nay nhất thiết không cần và không thể chấp nhận cái gọi là “dân chủ” mà các thế lực thù địch thường xuyên rêu rao, kích động!
Một số vấn đề rút ra liên quan đến hiệu ứng mạng xã hội về dịch Covid-19
Một là, các cá nhân, tổ chức có uy tín và
trách nhiệm trên thế giới đều có chung nhận định: Việt Nam đã trở thành một
hình mẫu quyết tâm khống chế dịch bệnh trong điều kiện nguồn lực có hạn. Việt
Nam đã nhạy bén phát hiện từ sớm nguy cơ từ đại dịch COVID-19 và chủ động huy
động có hiệu quả các nguồn lực để đối phó với dịch bệnh. Việt Nam là quốc gia
đã nhanh chóng nắm bắt và sử dụng hiệu quả “vai trò của truyền thông và công
nghệ thông tin”, “tính ưu việt của hệ thống y tế cơ sở”, “sức mạnh của tinh
thần đoàn kết xã hội”, “kích hoạt sớm hệ thống phản ứng”, và sử dụng “cách tiếp
cận toàn xã hội dưới sự lãnh đạo mạnh mẽ”…
Hai là, từ góc nhìn của xã hội học, đại
dịch COVID-19 thực sự là một thách thức đối với Việt Nam và thế giới; đòi hỏi
không chỉ trình độ nghiên cứu thuốc chữa, khả năng sản xuất vắc-xin, tiềm lực
sản xuất ra các trang thiết bị, vật tư y tế cần thiết mà còn đòi hỏi sự nhạy
bén, chủ động, biết cách phòng, chống và không hoang mang, lo lắng thái quá,
đặc biệt, đòi hỏi phải có sự chung sức, đồng lòng của toàn xã hội, thực hiện
tốt các chỉ đạo, khuyến cáo trong công tác phòng, chống dịch bệnh. Do đó,
phương châm của Đảng, Nhà nước là, nâng cao ý thức phòng dịch, quyết liệt chống
dịch, nhưng cần bình tĩnh, lạc quan và thực hiện nghiêm túc, tự giác các chỉ
thị là hoàn toàn phù hợp và hiệu quả.
Ba là, cần quan tâm hơn trong nghiên cứu phát triển chuyên ngành
xã hội học y tế và sức khỏe; đồng thời hướng đến nghiên cứu liên ngành để phát
triển các lĩnh vực: Y học xã hội; y tế công cộng; chính sách y tế… Điều này sẽ
tạo cho ra sức mạnh tổng hợp, chủ động hơn trong việc ứng phó với các vấn đề
liên quan đến dịch bệnh, sức khỏe, y tế của đất nước trong tiến trình phát
triển và hội nhập với thế giới.
Bốn là, đại dịch COVID-19 là cuộc khủng
hoảng về dịch bệnh chưa từng có, do vậy cần phải có những ứng phó và giải pháp
đồng bộ, hệ thống và đặc biệt. Xã hội học là một khoa học rất quan tâm đến việc
vận dụng cách tiếp cận thiết chế xã hội để giải thích các hiện tượng của đời
sống xã hội. Do vậy, đề xuất các giải pháp trong phòng, chống đại dịch COVID-19
cần được phân tích một cách tổng thể từ chính hệ thống các thiết chế xã hội có
liên quan, đó là: thiết chế y tế, thiết chế pháp luật, thiết chế chính trị,
thiết chế kinh tế, thiết chế gia đình, thiết chế giáo dục, thiết chế đạo đức,
thiết chế văn hóa, thiết chế khoa học, thiết chế truyền thông, thiết chế dư
luận xã hội… Thực tiễn cho thấy năng lực để ứng phó thành công với đại dịch
dường như không hẳn chỉ là trình độ phát triển cao của thiết chế y tế mà chính
là vấn đề công bằng, tạo ra cơ hội tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe công bằng
cho mọi người dân của thiết chế y tế...
Năm là, chúng ta cần phải đưa ra những dự
báo chính xác để góp phần xây dựng kế hoạch hành động sau đại dịch COVID-19
nhằm các mục tiêu: bảo đảm an sinh xã hội, tái cấu trúc các quan hệ xã hội...,
góp phần giảm thiểu tối đa ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 đến quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước
Từ góc độ tiếp cận xã hội học có thể phân tích hiệu ứng mạng xã hội trên một số khía cạnh
Thứ nhất, các tin đồn, tin giả sai lệch,
thiếu cơ sở khoa học, không được kiểm chứng, không được trích dẫn nguồn. Trong
khi đó, không ít người dân chỉ có thói quen tiếp nhận thông tin mà hầu như
không có năng lực sàng lọc thông tin.
Thứ hai, sự bùng phát đại dịch COVID-19 là
một dấu hiệu cho thấy, thế giới càng phát triển càng có sự bất định về mặt xã
hội. Bởi vì, khi đại dịch COVID-19 xuất hiện thì hiểu biết của giới chuyên môn
còn chưa chắc chắn, trong khi người dân lại có nhu cầu quan tâm rất cao. Sự bất
cân xứng đó tạo nên một khoảng không lý tưởng cho tin đồn, tin giả cũng như các
hành vi sai lệch xuất hiện. Thực tế là, do tính chất nghiêm trọng của đại dịch
nên ngay cả khi thông tin chính thống đáp ứng được nhu cầu thì người dân vẫn
sẵn sàng đón nhận bất cứ nguồn tin nào mà họ có thể có trong cuộc sống hằng
ngày.
Thứ ba, không ít tài khoản mạng xã hội có
nhiều người theo dõi đã lợi dụng những thông tin về đại dịch COVID-19 để “nuôi”
sức hút cho tài khoản của mình. Họ liên tục cập nhật những thông tin liên quan
đến đại dịch COVID-19, trong đó có những thông tin chưa kiểm chứng, thông tin
sai, trích dẫn những con số hay dự báo thiếu căn cứ chuyên môn...
Từ thực tế trên có thể rút ra, khi đối đầu với nguy cơ dịch
bệnh, cần có sự bình tĩnh để tiếp nhận những thông tin và dữ liệu từ cơ quan có
thẩm quyền, ngay cả khi nó trái ý muốn, ngoài mong đợi. Để có thể giảm sự xuất
hiện và phát tán những tin giả, thông tin sai lệch, rất cần ý thức trách nhiệm
xã hội và năng lực xử lý, sàng lọc thông tin của mỗi người dân khi tham gia
truyền thông xã hội. Đặc biệt, đối với những người có tầm ảnh hưởng, đây chính
là thời điểm họ thể hiện trách nhiệm công dân trên môi trường mạng xã hội. Bên
cạnh đó, các cơ quan chức năng, báo chí cần đẩy mạnh quá trình truyền thông về
dịch bệnh, minh bạch, đầy đủ, cập nhật do các cơ quan có thẩm quyền cung cấp,
như Ban Chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch COVID-19, Bộ Y tế, Bộ Thông tin và
Truyền thông...
Thứ tư, thành công và hệ quả xã hội của biện pháp giãn cách xã
hội
Giãn cách xã hội là việc thiết lập khoảng cách vật lý giữa hai
hoặc nhiều người để ngăn chặn, phòng ngừa sự lây lan của vi-rút Cô-rô-na. Nhiều
nước đã thực hiện các biện pháp khác nhau để giãn cách xã hội, như quy định
khoảng cách tối thiểu giữa hai người khi ra đường, cấm tập trung đông người,
đóng cửa trường học và các khu vực công cộng, các hình thức sản xuất, kinh
doanh, phong tỏa, buộc người dân ở nhà… Việc Chính phủ Việt Nam áp dụng biện
pháp giãn cách xã hội là một hành động chính trị - xã hội mạnh mẽ và kịp thời,
một giải pháp vô cùng cần thiết và hiệu quả trong phòng, chống đại dịch
COVID-19. Trong bối cảnh đất nước đang có xu hướng già hóa dân số, tỷ lệ hộ gia
đình có nhiều thế hệ chung sống khá cao, với nhiều thói quen trong giao tiếp,
sinh hoạt mang tính cộng đồng… sẽ dẫn đến nguy cơ gia tăng mức độ lây nhiễm.
Điều may mắn là, trong quá trình thực hiện giãn cách xã hội, chúng ta cũng có
nhiều yếu tố thuận lợi, như ứng dụng công nghệ thông tin nhanh chóng và phổ
quát, do đó thực hiện giãn cách xã hội không có nghĩa là ngừng mọi liên lạc,
kết nối giữa các cá nhân và nhóm với nhau. Công nghệ thông tin đã giúp cho các
cá nhân, nhóm xã hội thỏa mãn được nhu cầu sinh hoạt, thư giãn, đồng thời có
thể sử dụng thời gian cách ly, giãn cách xã hội để học tập, làm việc, tạo dựng
các giá trị và hành động có ý nghĩa…
Tuy nhiên, từ góc nhìn xã hội học, chúng ta cũng phải nhận thức
đầy đủ để có hành động phù hợp nhằm giảm thiểu những hệ quả xã hội không mong
muốn do việc thực hiện biện pháp giãn cách xã hội, nhất là trên diện rộng và
kéo dài trong nhiều ngày. Đó không chỉ là những tác động liên quan đến hoạt
động kinh tế, tài chính… mà còn là vấn đề an sinh xã hội, sức khỏe tâm lý và
tinh thần của người dân trong và sau thực hiện giãn cách xã hội (sự căng thẳng,
lo lắng, sợ hãi, hoảng loạn, có hành vi mất kiểm soát…); các vấn đề xã hội (tội
phạm, ly hôn, nạn bạo hành gia đình, lạm dụng đồ uống có cồn, bất bình đẳng
giới trong gia đình; bất bình đẳng xã hội giữa các giai tầng xã hội, nhất là
đối với nhóm xã hội yếu thế…) có thể gia tăng.
Ngày 29-5-2020, Hãng hàng
không quốc gia Việt Nam và các cơ quan chức năng Đài Loan (Trung Quốc) đã phối
hợp thực hiện chuyến bay chở hơn 340 công dân Việt Nam (là những trường hợp có
hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, bị mắc kẹt do đại dịch COVID-19) từ Đài Loan
(Trung Quốc) về nước_ Ảnh: TTXVN
Vì vậy, trong thời gian thực hiện giãn cách xã hội, cần tăng
cường vai trò, sự tiếp cận của thiết chế truyền thông đến các hộ gia đình, nhóm
xã hội nhằm bảo đảm kết nối xã hội trong thời gian giãn cách xã hội vì dịch
bệnh. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ in-tơ-nét, truyền hình,
mạng di động… cũng cần có các chính sách và giải pháp phù hợp để góp phần thực
hiện giãn cách xã hội hiệu quả và bền vững; mọi người dân cần nuôi dưỡng ý thức
trách nhiệm xã hội. Đó sẽ là liều “vắc-xin thứ 2” trong khi chúng ta chờ đợi
các nhà khoa học tìm ra vắc-xin chống lại vi-rút Cô-rô-na.
Thứ năm, năng lực thích nghi của con
người là một vấn đề cấp thiết trong quá trình phát triển ở Việt Nam
Dưới lăng kính tiếp cận xã hội học, xã hội càng phát triển, hiện
đại thì nhu cầu về an toàn ngày càng được đề cao. Tuy nhiên, đại dịch COVID-19
lại cho thấy những rủi ro về sức khỏe, tính mạng là khó lường mà khoa học chưa
theo kịp. Đại dịch này có tốc độ lây lan mạnh nhất và gây tử vong cao nhất
trong vòng 100 năm qua, và không loại trừ bất kỳ quốc gia, dân tộc, cộng đồng,
nhóm xã hội và cá nhân nào. Điều này đã tác động không nhỏ đến tâm lý về một
“xã hội rủi ro”, tức là các xã hội ngày càng có nhiều rủi ro trong quá trình
phát triển (cách dùng từ của nhà xã hội học người Đức U-rích Bếch (Ulrich
Beck).
Thứ sáu, vai trò của truyền thông xã hội
Truyền thông xã hội đang đóng một vai trò không thể thay thế
trong việc lan tỏa hiệu ứng thông tin kịp thời đến các nhóm xã hội khác nhau.
Các mạng xã hội đang chung tay với cơ quan quản lý nhà nước cập nhật thông tin
rõ nguồn gốc, từ cơ quan chức năng, góp phần đẩy lùi tin giả. Chúng ta đã và
đang chứng kiến những chiến dịch truyền thông xã hội kêu gọi ủng hộ các y, bác
sĩ, lực lượng vũ trang trên tuyến đầu chống dịch…, đã chứng minh khía cạnh tích
cực của những nền tảng trực tuyến trong cuộc chiến chống đại dịch COVID-19.
Không chỉ là kênh cung cấp thông tin, truyền thông xã hội còn được sử dụng để
lan truyền những thông điệp ý nghĩa đến cộng đồng hay lên án những hành vi sai
trái trong quá trình phòng, chống đại dịch COVID-19. Tại Việt Nam cho thấy, hệ
thống báo chí chính thống, Ban Chỉ đạo quốc gia về phòng, chống dịch COVID-19
của Chính phủ, Bộ Y tế, Bộ Thông tin và Truyền thông… đã sử dụng truyền thông
xã hội như một công cụ đắc lực để truyền tải các thông điệp cần thiết về phòng,
chống dịch COVID-19 trong toàn xã hội. Bên cạnh đó, các mạng xã hội như
Facebook, Twitter, YouTube… đã tích cực kiểm soát thông tin sai trái, xóa bỏ
tin bịa đặt, dán nhãn tin khả nghi, treo/ngưng các tài khoản chuyên tung tin
thất thiệt, và dùng thuật toán để giúp người dùng tăng tiếp xúc với các nguồn
tin đáng tin cậy.
Như vậy, truyền thông xã hội đang đóng một vai trò tích cực
không thể phủ nhận, song để kiểm soát khía cạnh tiêu cực, phát huy mặt tích cực
của truyền thông xã hội, hơn lúc nào hết, báo chí chính thống cần phát huy vai
trò định hướng và làm chủ “dòng chảy” thông tin trên mạng xã hội, thực sự trở
thành người dẫn dắt và hướng dẫn dư luận xã hội.
Thứ bảy, ứng phó với đại dịch COVID-19 là
một tình huống xã hội đặc biệt
Mặc dù là tình huống xã hội đặc biệt, chưa từng xảy ra, nhưng
với sự nhạy bén, tính chủ động cao trên cơ sở phân tích tình hình thực tế, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg yêu cầu quyết liệt thực hiện
đợt cao điểm phòng, chống dịch COVID-19 với các biện pháp: “Giãn cách xã hội;
đi từng ngõ, gõ từng nhà để rà soát, sàng lọc, phát hiện sớm, quản lý chặt chẽ
các trường hợp nghi ngờ, khoanh vùng, dập dịch”. Chỉ thị số 16/CT-TTg là một
quyết định chính trị đúng đắn ứng phó với một tình huống khẩn cấp về dịch bệnh
và đã bảo đảm được mục tiêu cốt lõi là kiểm soát và từng bước khống chế, chặn
đứng kịp thời khả năng bùng phát trên diện rộng dịch bệnh COVID-19 ở Việt Nam.
Đứng trước tình huống xã hội đặc biệt này, biện pháp quan trọng
và khẩn cấp nhất là phải huy động sự vào cuộc đồng bộ, thống nhất của cả hệ
thống chính trị và toàn xã hội, tất cả người dân để đối phó với đại dịch
COVID-19. Các cơ quan chức năng cần đồng thời thực hiện tốt hai biện pháp là:
kiên trì tuyên truyền, vận động, đề cao tính tự giác, trách nhiệm của mỗi cá
nhân; đồng thời, áp dụng các chế tài hình phạt nghiêm minh, kịp thời.
Từ dịch bệnh COVID-19 đến “dịch” thông tin trên truyền thông xã hội là một tác động “kép” rất cần phân tích thấu đáo từ phương diện xã hội học
“Dịch thông tin” ở đây được hiểu là các tin giả, tin đồn. Chúng ta từng chứng kiến “dịch thông tin” có thể bóp méo các quy trình chính trị, thao túng thị trường tài chính,... và nay tiếp tục chứng kiến khả năng, mức độ gây hại cho sức khỏe con người. Ngay từ thời kỳ đầu của đại dịch COVID-19, những thông tin dạng đồn thổi đã xuất hiện tại Việt Nam. Lợi dụng khả năng ẩn danh trên mạng xã hội, một số cá nhân đã đăng tải thông tin bịa đặt, thiếu chính xác về tình hình dịch bệnh. Tin giả, tin đồn có thể tạo ra sự hoảng loạn của số đông, dễ dẫn đến nguy cơ làm cho dịch bệnh tăng theo cấp số nhân. Chẳng hạn, việc mua vét, tích trữ khẩu trang, dung dịch sát trùng ở ngoài vùng dịch, những nơi ít bị dịch bệnh đe dọa, khiến cho những người có nhu cầu thực sự trong vùng dịch lại không thể tiếp cận, để áp dụng các phương pháp phòng dịch tối thiểu và cơ bản. Hoặc việc tụ tập đông người mua hàng sẽ tạo điều kiện cho dịch bệnh lây lan. “Dịch thông tin” tác động đến sự kỳ thị của cộng đồng với những cá nhân liên quan đến COVID-19, thậm chí kỳ thị cả đội ngũ thầy thuốc, nhân viên ngành hàng không..., đặc biệt dễ khiến người bị nhiễm bệnh giấu bệnh, không dám khai báo, dẫn đến khó kiểm soát dịch bệnh. Thậm chí, những kẻ thiếu thiện chí còn bịa đặt, vu cáo rằng cơ quan chức năng che giấu thông tin; hay cho rằng Việt Nam vi phạm nhân quyền nhằm thực hiện mưu đồ chính trị đen tối…
Phòng, chống đại dịch COVID-19: Một số vấn đề từ hướng tiếp cận xã hội học
Đại dịch COVID-19 là cuộc khủng hoảng dịch bệnh có quy mô, mức
độ ảnh hưởng lớn đến mọi mặt đời sống xã hội, gây ra sự bất ổn chưa từng thấy
đối với nền kinh tế toàn cầu. Phân tích một số vấn đề cụ thể từ khía cạnh xã
hội học trong hoạt động phòng, chống đại dịch COVID-19 để thấy rõ những biện
pháp nước ta áp dụng là đúng đắn và cần tiếp tục thực hiện nghiêm túc, triệt để
nhằm đẩy lùi hoàn toàn dịch bệnh.
Một số chiều cạnh từ góc độ tiếp cận xã hội học
Một là, phản ứng mang tính cộng đồng của con người trước đại
dịch COVID-19
Ngay khi dịch bệnh COVID-19 bùng phát, con người ngay lập tức có
phản ứng theo nhóm cả tích cực và tiêu cực, phù hợp và không phù hợp. Biểu hiện
đầu tiên là người dân ở các nước trên thế giới hoảng sợ lao đến các siêu thị,
gom sạch nhu yếu phẩm (kể cả ở một số nước văn minh, phát triển nhất). Những
phản ứng mang tính cộng đồng, thiếu lý trí khoa học không chỉ xảy ra ở các
nhóm, cộng đồng xã hội chưa phát triển mà thậm chí còn gia tăng ở các khu vực
dân cư hiện đại, văn minh. Một biểu hiện nữa mang tính cộng đồng là trong khi
người dân nhiều nước châu Á ngay lập tức sử dụng khẩu trang, dung dịch sát
khuẩn như một biện pháp y tế phòng dịch thì ở nhiều nước châu Âu, châu Mỹ...
ban đầu rất thờ ơ với việc phòng, chống dịch bệnh COVID-19 về mặt y tế, không
mang khẩu trang, vẫn tụ tập đông người bất chấp cảnh báo của chính quyền, thậm
chí kỳ thị với người mang khẩu trang... Điều này lý giải bản chất của con người
luôn có xu hướng lệ thuộc vào những phản ứng mang tính cộng đồng để ra quyết
định cho hành động của cá nhân, nhất là trong những tình huống bất thường.
Ở nước ta, bên cạnh xu thế cộng đồng thì những biện pháp hợp lý,
hiệu quả của Chính phủ từ việc cách ly tập trung, cách ly tại nhà, đến thực
hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị số 16/CT-TTg, ngày 31-3-2020, của Thủ tướng
Chính phủ, về thực hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch COVID-19 chính
là cơ sở pháp lý, nền tảng quan trọng để cả nước thực hiện hiệu quả việc phòng,
chống dịch.
Hai là, vai trò của cơ quan chức năng và sự đồng thuận của toàn
xã hội
Lần đầu tiên Việt Nam thực hiện đồng bộ ba hình thức kiểm soát
dịch bệnh từ phương diện kiểm soát xã hội. Đó là, cách ly tập trung, cách ly
tại nhà và giãn cách toàn xã hội. Để đạt được những thắng lợi bước đầu trong
phòng, chống dịch bệnh COVID-19, Việt Nam đã và đang phát huy tối đa sự đoàn
kết xã hội gắn liền với lợi ích, vai trò, trách nhiệm của tất cả các chủ thể
trong xã hội, vì dịch bệnh là một dạng khủng hoảng sức khỏe cộng đồng mà không
một nhà nước, chính quyền nào dù mạnh mẽ đến đâu có thể dễ dàng xử lý hiệu quả
nếu thiếu sự nỗ lực và đóng góp chung của từng thành viên cộng đồng. Vi-rút
Cô-rô-na có thể sinh ra trong tự nhiên, nhưng có thể bùng phát thành thảm họa,
phần nhiều là do quyết định của từng cá thể trong xã hội. Việc phòng, chống và
kiểm soát dịch bệnh không chỉ là công việc của chính quyền mà còn là của từng
cá nhân trong cộng đồng. Từng thành viên cộng đồng vừa có thể là đối tượng tạo
ra nguyên nhân, vừa có thể là đối tượng phải gánh chịu hậu quả. Thời điểm này,
chúng ta đang sống trong một xã hội mà quyết định của một cá nhân có thể ảnh
hưởng đến sinh mệnh của cả cộng đồng.
Đại dịch COVID-19 có thể xem là phép thử cho ý thức, trách nhiệm
xã hội của từng cá nhân, của từng quốc gia. Dịch bệnh không còn là câu chuyện
“của xã hội” mà đã trở thành vấn đề “của mỗi cá nhân” và đại dịch có thể thúc
đẩy ý thức cá nhân đối với lợi ích cộng đồng; thúc đẩy trách nhiệm xã hội của
các quốc gia với từng cá nhân. Y học xã hội đã có nhiều bằng chứng cho thấy,
các cộng đồng có sự gắn kết sẽ đối phó với dịch bệnh tốt hơn và những người
trong cộng đồng đó nếu bị nhiễm bệnh cũng có thể phục hồi nhanh hơn. Ngược lại,
những cộng đồng ít gắn kết, có xu hướng độc lập, thiếu sự hợp tác sẽ khó tìm ra
cách đối phó hiệu quả. Chúng ta đạt được những kết quả đáng khích lệ bước đầu
có thể do nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó không thể không khẳng định vấn đề
đoàn kết cơ học (đoàn kết theo giá trị, xã hội truyền thống) và đoàn kết xã hội
hữu cơ (đoàn kết theo giá trị, xã hội hiện đại). Do đó, có thể khẳng định, giá
trị vì cộng đồng, niềm tin, sự kết nối, tương trợ lẫn nhau của người Việt Nam
đang đem lại những hiệu quả thực tế trước đại dịch COVID-19. (Còn nữa)
Phát huy trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng.
Tác động của cuộc
cách mạng 4.0 tới tất cả mọi mặt của đời sống xã hội, có cả những tác động tích
cực và có cả những mặt không tích cực. Mặt tiêu cực đó chính là các thế lực,
thù địch lợi dụng cuộc cách mạng này vào mục đích chống phá Đảng, Nhà nước và
sự bình yên của nhân dân. Đây chính là một thách thức không nhỏ trong cuộc đấu
tranh chống lại những “thông tin độc hại trên không gian mạng”…Với lượng thông
tin khổng lồ với các chiêu trò chống phá, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng
của các thế lực thù địch, phản động, thì việc tiếp cận thông tin thiếu định
hướng sẽ dễ dẫn đến mất phương hướng, rơi vào cực đoan khi bị tác động của các
hệ tư tưởng phản tiến bộ.
Vì vậy, toàn Đảng, tổ
chức đảng các cấp, các ngành, các lực lượng phải tự nâng cao trình độ nhận thức
cho cán bộ, đảng viên, nâng cao dân trí giúp cho cán bộ, đảng viên và người dân
ứng dụng được công nghệ cao và tiếp cận được thông tin - một trong những yếu tố
quan trọng, thậm chí là quyết định trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai,
trái của các thế lực phản động, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Từ nhận thức
đến năng lực làm chủ công nghệ, đủ năng lực để phân biệt được đúng, sai, tránh
tình trạng người dân bị lợi dụng, kích động, dẫn tới những hành vi cực đoan. Không
ngừng tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của
nhân trong việc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Top of Form
Đề cao cảnh giác, tỉnh táo với các hiện tượng dư luận xã hội.
Dư luận xã hội là nguồn thông tin phản hồi có vai trò rất quan trọng đối với công tác lãnh đạo, quản lý xã hội, góp phần bổ sung, điều chỉnh nhiều chủ trương, quyết sách của Đảng và Nhà nước. Đối với những dư luận tốt, nó sẽ là nguồn cổ vũ, động viên, đồng thời là nhân tố, điều kiện rất quan trọng để các hành vi tốt đẹp này sinh sôi, nảy nở, phát triển.
Tuy
nhiên các thế lực phản động, thù địch thực hiện "Diễn biến hòa bình"
trên thực tế, từ lâu đã rất coi trọng cách thức tạo dư luận có sức hấp dẫn và tạo
cảm giác gần gũi với các quan điểm, suy nghĩ của công chúng, từ đó nâng dần
lên, dẫn dắt dần đến các thông tin thiếu trung thực, bóp méo sự thật, lèo lái
theo những ý đồ xấu. Sự phát tán thông tin hỗn độn và sai lệch như thế làm cho
nhiều người mất niềm tin vào cả nguồn thông tin, dẫn đến hậu quả là những thông
tin tốt đẹp cũng có thể bị loại trừ, tẩy chay theo.
Trong
khi các cơ quan chức năng đang tiếp tục hoàn chỉnh luật pháp để quản lý chặt chẽ
hơn, đẩy lùi các thông tin xuyên tạc bịa đặt, thông tin "xấu, độc", mỗi
công dân không nên hùa theo những quan điểm mang tính trào lưu, cần phải tỉnh
táo, cần biết "gạn đục khơi trong", nhận rõ tính hai mặt của dư luận
xã hội, cảnh giác với những thông tin xấu độc, không chia sẻ bừa bãi trên mạng
xã hội một cách vô trách nhiệm, tránh tình trạng vô tình tiếp tay cho các hoạt động
chống phá, có các hành vi tiêu cực, phản cảm, thiếu văn hoá, thậm chí vi phạm
pháp luật.
Nhận diện một số quan điểm sai trái, thù địch mà các thế lực thù địch, phản động thường sử dụng
Nhận diện và đấu tranh với những luận điệu xuyên tạc, sai trái,
thù địch trên không gian mạng
Trong quá
khứ và cả hiện tại, các thế lực thù địch, phản động vẫn luôn ra sức chống phá
cách mạng nước ta với nhiều luận điệu, lời lẽ xuyên tạc, vu khống Đảng và Nhà
nước ta. Những luận điệu sai trái, thù địch mà kẻ thù nhắm đến để tuyên truyền,
chống phá thường tập trung vào các nội dung cơ bản sau:
Một
là, chống
phá nền tảng tư tưởng của Đảng. Nền tảng tư tưởng của Đảng ta là chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nền tảng tư tưởng đúng đắn đó là kim
chỉ nam dẫn dắt dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, dưới sự lãnh
đạo của Đảng.
Thế
nhưng, cố tình phủ nhận tính cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, các
thế lực thù địch rêu rao quan điểm cho rằng: “Chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời,
chủ nghĩa xã hội khoa học không có sức sống”, là “bóng ma ám ảnh châu Âu”,
những thất bại của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là do “những chính
sách Mác-Lênin bắt nguồn từ một nhận thức sai về lịch sử và về bản chất con
người” (4). Đối với tư tưởng Hồ Chí Minh, các thế lực thù địch, phản động đã nêu
các quan điểm có tính chất xuyên tạc, bóp méo, thậm chí vu cáo, dựng chuyện,
nhằm bôi nhọ đời tư, hạ thấp uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chúng thường
xuyên bịa đặt những luận điệu như: “Nhật ký trong tù không phải của
Hồ Chí Minh”, “Hồ Chí Minh bắt đầu nảy ra tư tưởng cứu nước kể từ khi Pháp bác
đơn cho theo học trường thuộc địa”, rằng Đảng Cộng sản Việt Nam “sáng tác ra tư
tưởng Hồ Chí Minh để giúp Đảng chỉnh hướng trong cơn bối rối” (?!)(5),…
Hai
là, chống
phá Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng. Nhờ xác định Cương lĩnh,
đường lối đúng đắn nên Đảng ta lãnh đạo nhân dân ta giành thắng lợi trong 2
cuộc chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn,
lạc hậu đã thoát khỏi tình trạng chậm phát triển, bước vào hàng ngũ các quốc
gia có thu nhập trung bình, có tốc độ tăng trưởng cao ở khu vực Đông Nam Á; trở
thành thành viên có trách nhiệm, tích cực trong cộng đồng quốc tế. Đặc biệt,
Đảng ta nắm vững và xử lý hài hòa các mối quan hệ lớn, như mối quan hệ giữa đổi
mới kinh tế với chính trị; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực
hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ; giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế;…
Tuy
nhiên, các thế lực thù địch, phản động cố tình phủ nhận tính đúng đắn của Cương
lĩnh, đường lối chính trị của Đảng ta, phủ nhận những thành quả cách mạng của
nhân dân ta, đồng thời cổ xúy, tán dương chủ nghĩa tư bản, dân chủ tư sản, yêu
cầu phải thực hiện tư nhân hóa hoàn toàn theo kiểu tư bản, thực hiện đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập… và cho rằng nếu không thực hiện như thế, có nghĩa
là Đảng Cộng sản Việt Nam đang “bảo thủ, giáo điều, cứng nhắc, lỗi thời”(6).
Thực chất, việc chống phá Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng là nhằm phủ
nhận vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến tới thiết
lập chế độ đa đảng.
Ba là, chống phá tổ
chức của Đảng. Xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, đạo đức,
văn minh, đủ năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu là nhiệm vụ, mục tiêu xuyên
suốt, cốt lõi, bảo đảm sự tồn tại và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
cách mạng nước ta. Hơn 90 năm qua, kể từ khi thành lập đến nay, Đảng ta không
ngừng xây dựng, chỉnh đốn để luôn xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và dân tộc; là biểu tượng của trí tuệ, lương tâm và
danh dự của dân tộc.
Trong
công tác tổ chức Đảng, các thế lực thù địch, phản động tập trung chống phá các
nguyên tắc xây dựng Đảng, đặc biệt là nguyên tắc “tập trung dân chủ”. Chúng
thường rêu rao luận điệu: “Thực hiện tập trung dân chủ sẽ dẫn đến mất dân chủ
trong Đảng, làm cho Đảng rơi vào độc đoán, chuyên quyền” và tích cực tuyên
truyền, khuyến khích thực hiện “dân chủ tuyệt đối”, “dân chủ phi chính trị”. Họ
còn ra sức cổ vũ cho cái gọi là “bất đồng chính kiến” hòng tạo những mâu thuẫn,
chia rẽ trong nội bộ Đảng. Họ tích cực o bế những phần tử bất mãn, cơ hội chính
trị, nhằm dựng nên “những ngọn cờ” chống phá Đảng, Nhà nước ta. “Họ đối lập
những người lãnh đạo Đảng với đông đảo đảng viên, chia rẽ lớp đảng viên này với
lớp đảng viên khác, mưu toan gây ra mâu thuẫn nội bộ” (7).
Với chiêu
bài này, các thế lực thù địch, phản động hướng đến mục tiêu phá vỡ sự thống
nhất, đoàn kết của Đảng, âm mưu làm tê liệt hoặc tan rã tổ chức đảng, làm cho
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, của đảng viên suy yếu dần,
tạo mảnh đất màu mỡ cho việc phát triển các “thế lực dân chủ”.
Bốn
là, chống
phá mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân. Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta
luôn xác định mối liên hệ, gắn bó máu thịt với nhân dân. Trong các Cương lĩnh,
đường lối chính trị đề ra, Đảng luôn quán triệt nguyên tắc “lấy dân làm gốc”,
bao nhiêu quyền hành đều từ dân, bao nhiêu lực lượng đều do dân; luôn giáo dục
mọi cán bộ, đảng viên phải yêu dân, kính dân, lắng nghe dân, thấu hiểu dân và
phải hết sức làm điều có lợi cho dân.
Tuy
nhiên, các thế lực thù địch, phản động luôn tìm mọi cách để chia rẽ mối quan hệ
giữa Đảng với nhân dân. Chúng tuyên truyền, kích động, chuyển hóa những xung
đột xã hội thành mâu thuẫn giữa chính quyền, lực lượng vũ trang với nhân dân.
Chúng cố tình khoét sâu những khuyết điểm, sai phạm của một số cán bộ,
đảng viên; thổi phồng, quy chụp, làm phức tạp hóa, chính trị hóa những khuyết
điểm, sai phạm; lợi dụng các phần tử bất mãn, phản động đội lốt tôn giáo, dân
tộc để kích động đồng bào tư tưởng kỳ thị, hiềm khích, ích kỷ, hẹp hòi, cái gọi
là “hận thù dân tộc”, nhằm gây bất ổn trong nhân dân, âm mưu bạo động lật đổ
chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta từ bên trong.
Năm
là, chống
phá những thành tựu xây dựng, phát triển đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Việt
Nam đang vững bước tiến lên trên con đường xây dựng xã hội “Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” với nhiều thành tựu đạt được trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do quá độ lên chủ nghĩa xã hội chưa có tiền
lệ trong lịch sử, nên không tránh khỏi những sai lầm, khuyết điểm. Đảng ta
nghiêm túc, thẳng thắn nhìn nhận, đúc rút kinh nghiệm, bài học để lãnh đạo công
cuộc đổi mới ngày càng phù hợp với các quy luật phát triển khách quan của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thế nhưng, các thế lực thù địch, phản động cố
tình khoét sâu, thổi phồng những sai lầm, phủ định những thành tựu chúng ta đạt
được hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo, đường lối chính trị của Đảng ta.
Ngoài ra,
các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng mạng xã hội để phát tán các
quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận những thành quả cách mạng để chống phá
ta. Thời gian qua, trên một số trang mạng xã hội xuất hiện nhiều bộ sách, tài
liệu liên quan đến tôn giáo, dân tộc, địa danh, nhân vật, lịch sử, chính trị
đội lốt nghiên cứu, sưu tầm… có khuynh hướng xét lại, phủ nhận quan điểm chính
thức của Đảng và Nhà nước ta, khơi mào cho sự trỗi dậy của tư tưởng phản động,
lạc hậu, kích động sự thù hận mù quáng,… Việc nhận diện và nắm rõ bản chất
những luận điệu sai trái, thù địch là cơ sở quan trọng để chúng ta kịp thời có
những biện pháp phản bác, đấu tranh, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
ta và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Cảnh báo: Thông tin Facebook sử dụng hình ảnh cá nhân là không đúng sự thật
Việt Nam đã có luật an ninh mạng, do vậy,
mọi thông tin cá nhân trên mạng đều được quản lý, kể cả Facebook cũng phải tuân thủ khi hoạt động tại Việt Nam.
Vài ngày nay khá nhiều người dùng Facebook
lại chia sẻ bài viết về chuyện "Đừng quên ngày mai bắt đầu điều lệ mới của
Facebook, nơi họ có thể sử dụng ảnh của bạn. Đừng quên hạn chót ngày hôm
nay!!!".
Cụ thể "điều lệ" mới nói về việc
"tất cả những gì bạn từng đăng đều trở thành công khai từ hôm nay ngay cả
những tin nhắn đã bị xóa hoặc những bức ảnh không được cho phép" và
"nó có thể được sử dụng trong các trường hợp kiện tụng chống lại bạn ở tòa
án".
Tiếp đó là lời "tuyên bố" nghiêm
cấm Facebook: "Tôi không cho Facebook hoặc bất kỳ thực thể nào liên quan
đến Facebook được phép sử dụng hình ảnh, thông tin, tin nhắn hoặc bài đăng của
tôi, cả quá khứ và tương lai. Với tuyên bố này, tôi nghiêm cấm Facebook tiết
lộ, sao chép, phân phối, hoặc thực hiện bất kỳ hành động nào khác chống lại tôi
dựa trên trang cá nhân này và/hoặc nội dung của nó. Nội dung của trang cá nhân
này là thông tin riêng tư và bí mật. Việc vi phạm quyền riêng tư có thể bị luật
pháp trừng phạt (UCC 1-308-1 1 308-103 và quy định Rome".
Đặc biệt, nội dung bài viết còn yêu cầu
người đọc phải đăng lại trên trang cá nhân của mình, kèm theo cả lời hù doạ:
"Facebook bây giờ là một thực thể công khai. Tất cả các thành viên của
Facebook phải đăng một bản thông báo như thế này để tránh phiền hà sau này. Nếu
bạn thích, bạn có thể sao chép và dán phiên bản này. Nếu bạn không đưa ra một
tuyên bố như thế này, nó sẽ bị hiểu ngầm là bạn cho phép Facebook sử dụng các
bức ảnh của bạn, cũng như thông tin chứa trong các bài viết cập nhật của bạn về
trạng thái hoặc hồ sơ cá nhân. TÔI KHÔNG ĐỒNG Ý CHO FACEBOOK CHIA SẺ ẢNH HOẶC
TIN CÁ NHÂN CỦA TÔI".
"Nội dung vô thưởng vô phạt chứ chẳng
có tác dụng gì với người dùng hay Facebook. Nó đơn thuần chỉ là một tin giả
không có ý nghĩa. Bản thân người dùng có thể nhận thấy các thông tin cá nhân,
hình ảnh của mình đã được đưa lên Facebook (do họ hoặc bạn bè, người thân đưa
lên) bao nhiêu năm nay rồi.
Giờ có tuyên bố hay cấm thì các thông tin
kia cũng đã tràn lan trên Facebook. Các thông tin này hoàn toàn có thể bị khai
thác bởi nhiều cá nhân, công ty khác cho các mục đích xấu như theo dõi, lừa
đảo... chứ đâu cần đến lượt Facebook mà đòi cấm", một chuyên gia an ninh
mạng (đề nghị không nêu tên) cho biết.
Đây không phải là lần đầu tiên,
"phong trào" tuyên bố với Facebook nêu trên xuất hiện trên mạng xã
hội Việt Nam. Trò đùa này đã xuất hiện từ năm 2015 và được cảnh báo nhiều lần
nhưng sau đó đều bỗng nhiên nổi lên lại vào các năm 2018 và 2019. Rất nhiều
người dùng đọc từ Facebook của bạn bè rồi chia sẻ lên trang mình, cứ thế lượt
chia sẻ bài viết "vô thưởng vô phạt" này tràn lan
CẦN VỮNG TIN TÂM DỊCH TẠI ĐÀ NẴNG ĐÃ ĐƯỢC KIỂM SOÁT
Cùng với việc đẩy nhanh xét
nghiệm, ban chỉ đạo nhấn mạnh giải pháp hiệu quả ngay từ đầu vẫn phải phát hiện
thật sớm, truy vết nhanh và xét nghiệm theo các nhóm đối tượng được cơ quan y
tế chỉ định.
Theo Bộ Y tế, ở đợt dịch lần này, cùng với thành phố Đà Nẵng, đã
xuất hiện nhiều ổ dịch nhỏ khác có nguy cơ lây nhiễm.
PGS.TS Trần Đắc Phu cho rằng công tác chống dịch ở Đà Nẵng vừa
qua đã được thực hiện rất quyết liệt, toàn diện, hiệu quả. Đến nay, có thể nói
"chúng ta đã kiểm soát, khống chế được tâm dịch ở Đà Nẵng và ổ dịch ở Bệnh
viện Đà Nẵng, hạn chế được lây lan".
Tuy nhiên, nguy cơ dịch bệnh vẫn thường trực, nên cần kiên trì 5
nguyên tắc: ngăn chặn, phát hiện, cách ly, khoanh vùng, dập dịch; chủ động xây
dựng kịch bản đáp ứng dịch; tập huấn cho cán bộ y tế; chuẩn bị sẵn sàng vật tư,
trang thiết bị, sinh phẩm để thực hiện tốt công tác phát hiện, khoanh vùng, xử
lý ổ dịch, thu dung, điều trị bệnh nhân trong trường hợp phát hiện ca bệnh trên
địa bàn.
GS.TS Nguyễn Thanh Long, quyền bộ trưởng Bộ Y tế, cho biết đến
thời điểm hiện tại Bộ Y tế đã qua 3 lần điều chỉnh chiến lược xét nghiệm theo
hướng mở rộng đối tượng, đẩy nhanh tiến độ xét nghiệm.
Phó thủ tướng Vũ Đức Đam nhấn mạnh cần tiếp tục các biện pháp
phòng dịch đã quán triệt từ trước, nhất là được siết lại cách đây 1 tuần, thì
chúng ta có lòng tin sẽ không để dịch bệnh bùng phát trên diện rộng.
Không chỉ riêng thành phố Đà Nẵng, Quảng Nam, mà hệ thống chống
dịch, nòng cốt là lực lượng y tế, công an ở tất cả các địa phương, đã được khởi
động nghiêm túc. Tinh thần luôn sẵn sàng chống dịch phải được duy trì liên tục,
không để lơi lỏng sau một thời gian.
Bên cạnh đó, qua thực tiễn ở thành phố Đà Nẵng, Quảng Nam, với
sự kết hợp của địa phương và lực lượng của Bộ Y tế cử vào, chúng ta cần sớm
biên soạn "sổ tay", tổng kết kinh nghiệm, hướng dẫn cụ thể.
Tới đây sẽ đẩy mạnh xét nghiệm theo hướng dẫn cụ thể của Bộ Y
tế, lúc nào dùng xét nghiệm kháng thể, lúc nào dùng xét nghiệm PCR.
Tuy vậy, Ban Chỉ đạo nhấn mạnh giải pháp hiệu quả ngay từ đầu
vẫn phải phát hiện sớm, truy vết nhanh và xét nghiệm theo các nhóm đối tượng
được cơ quan y tế chỉ định.
Để xét nghiệm hiệu quả nhất, phải truy vết được ca bệnh bằng
cách kết hợp nhiều giải pháp như "đi từng ngõ, gõ từng nhà", kết hợp
sử dụng các ứng dụng công nghệ phục vụ phòng, chống dịch bệnh như NCOVI,
Bluezone, nâng cao ý thức cảnh giác của người dân.
Phó thủ tướng Vũ Đức Đam kêu gọi "tất cả mọi người dân, mà
trước hết các các bạn trẻ, cùng chung tay để chiến thắng dịch bệnh COVID-19
bằng việc thực hiện nghiêm tất cả các giải pháp, khuyến cáo về phòng chống dịch
bệnh COVID-19, trong đó có giải pháp ứng dụng công nghệ".
Liên quan đến công tác tổ chức thi tốt nghiệp THPT, Ban Chỉ đạo
COVID-19 cho rằng đây là đợt tập dượt rất tốt, cho chúng ta kinh nghiệm quý về
đảm bảo an toàn dịch tễ trên diện rộng để tổ chức các hoạt động cần thiết trong
điều kiện dịch bệnh.
Ban Chỉ đạo quốc gia phòng chống COVID-19 yêu cầu Bộ Giáo dục và
đào tạo, Bộ Y tế tiếp tục theo dõi sát tình hình dịch tiếp theo để đảm bảo
quyền lợi cho các thí sinh chưa được thi đợt này trên tinh thần công bằng, nhân
văn.
CẢNH GIÁC VỚI LUẬN ĐIỆU CHỐNG PHÁ TRƯỚC THỀM ĐẠI HỘI ĐẢNG
Hải Đăng
Thực hiện tốt để đẩy lui Covid
1. Hạn chế đến nơi công cộng, nơi tập trung đông người.
2. Đeo khẩu trang khi ra ngoài, giữ khoảng cách tiếp xúc tốt nhất 2m
3. Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng hoặc dung dịch sát khuẩn.
4. Không đưa tay lên mắt, mũi, miệng, thường xuyên súc họng bằng nước muối hoặc dung dịch sát khuẩn
5. Vệ sinh thông thoáng nhà cửa, lau rửa các bề mặt tiếp xúc.
6. Thực hiện khai báo y tế, cập nhật tình hình sức khỏe hàng ngày, giữ liên hệ với cơ sở y tế gần nhất.
Liên hệ ngay với đường dây nóng Bộ Y tế: 1900.9095 để được tư vấn; cài đặt ứng dụng Bluezone để được cảnh báo nguy cơ lây nhiễm COVID-19: http://www.bluezone.gov.vn