Thứ Tư, 23 tháng 9, 2020

Nhan dien hoat dong loi dung hoi nhap kinh te de chong pha VN

Nhận diện hoạt động lợi dụng hội nhập kinh tế quốc tế để chống phá Việt Nam

       Một trong những nội dung quan trọng để tạo sức ép từ bên ngoài, kết hợp với kích động các hoạt động chống phá từ bên trong nước ta. Nhận thức rõ trong thời đại ngày nay, việc hội nhập quốc tế là một tất yếu khách quan, do đó Đảng, Nhà nước Việt Nam đã thực hiện nhiều giải pháp trong lãnh đạo, chỉ đạo để ngày càng phát triển, mở rộng các mối quan hệ quốc tế, trong đó có HNKTQT. Thực hiện chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước về HNKTQT, những năm qua, tiến trình này của Việt Nam đã, đang đạt nhiều kết quả hết sức to lớn. Tính đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 185 nước trên thế giới và cũng là nước ASEAN duy nhất có quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, các thành viên nhóm G7 và 13/20 nước G20. Việt Nam đã ký kết hơn 90 hiệp định thương mại song phương, gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều hiệp định hợp tác về văn hóa song phương với các nước và các tổ chức quốc tế. Nhờ HNKTQT, những năm qua, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ cùng với các lĩnh vực khác của xã hội. Năm 2016, GDP Việt Nam đạt 203 tỷ USD, gấp 3 lần so với năm 2006; GDP năm 2017 đạt hơn 220 tỷ USD, tăng cao nhất kể từ 2011 trở lại đây và tăng 6,81% so với năm 2016. Năm 2015, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam tăng 4 lần so với năm 2006, lên 11,8 tỷ USD. Năm 2017, FDI vào Việt Nam đạt gần 36 tỷ USD, cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây, tăng 42,3% so với cùng kỳ năm 2016. Riêng 10 tháng năm 2018, cả nước có 2.458 dự án đầu tư nước ngoài mới được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư; tổng vốn đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài là 27,9 tỷ USD, bằng 98,8% so với cùng kỳ năm 2017. Năm 2017, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước đạt 425,12 tỷ USD, tăng 21% (tương ứng tăng 73,74 tỷ USD) so với năm 2016, là mức tăng kỷ lục trong vòng 10 năm trở lại đây. Chỉ trong 10 tháng năm 2018, tổng trị giá xuất nhập khẩu đạt 396,85 tỷ USD, tăng 13,8%, tương ứng tăng 48,12 tỷ USD về số tuyệt đối so với cùng kỳ năm 2017. Theo Báo cáo Môi trường kinh doanh năm 2018 của Ngân hàng thế giới mới công bố, dự báo Việt Nam đứng thứ 68/190 nền kinh tế, tăng 14 bậc so với năm 2017.
         Thế nhưng trong sự thành công của Việt Nam về HNKTQT, các thế lực thù địch cũng không ngừng lợi dụng lĩnh vực này để nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” với Việt Nam. Những năm qua, các thế lực thù địch đã ráo riết triển khai một số hoạt động cơ bản như sau:
       Một là, thúc đẩy việc tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng ngày càng phụ thuộc vào bên ngoài để từng bước chi phối nền kinh tế Việt Nam; thông qua đó nhằm làm cho Nhà nước từng bước mất dần khả năng kiểm soát, điều hành nền kinh tế đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Với phương châm: “Lấy kinh tế để chuyển hóa chính trị”, các thế lực thù địch âm mưu từng bước xóa bỏ chế độ XHCN một cách từ từ, êm ả, không gây ra chấn động lớn trong xã hội mà khởi nguồn là từ những sai lầm trong HNKTQT ở Việt Nam.
      Hai là, họ lợi dụng HNKTQT và hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực, nhất là thông qua hợp tác với các cơ quan của Đảng, Nhà nước Việt Nam để xâm nhập nội bộ, mua chuộc, lôi kéo những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, thu thập tin tức bí mật nhà nước để chống phá Việt Nam. Họ đặc biệt triệt để lợi dụng sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại, các phương tiện công nghệ cao để thu thập tin, đánh cắp bí mật nhà nước, lấy cắp các phát minh, sáng chế của Việt Nam, gây ra những thiệt hại cho nền kinh tế Việt Nam.
       Ba là, triệt để thông qua các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp quốc tế hợp tác, làm ăn với Việt Nam để đưa ra các yêu cầu mang tính áp đặt phi lý. Họ còn tìm cách gây ra “khủng hoảng”, những tác động tiêu cực từ bên ngoài làm suy yếu nền kinh tế, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam, ảnh hưởng đến phúc lợi nhân dân và sức mạnh của Nhà nước.
       Bốn là, họ tìm cách tác động tới các chính khách cực đoan trong quốc hội một số nước phương Tây, đòi gắn vấn đề viện trợ, hợp tác kinh tế với điều kiện cải cách chính trị, pháp luật theo kiểu phương Tây (như yêu cầu Nhà nước xóa bỏ một số điều về an ninh quốc gia trong Bộ luật Hình sự hiện hành…); đòi thay Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh bằng hệ tư tưởng dân chủ tư sản; đòi hỏi Nhà nước Việt Nam phải thúc đẩy tự do báo chí, tự do ngôn luận theo tiêu chí phương Tây, đòi thả các đối tượng chống đối vi phạm pháp luật... nhằm tạo nên những tiền đề gây mất ổn định chính trị, xã hội ngay từ bên trong đất nước.
       Cũng cần phải nghiêm túc nhìn nhận rằng, việc HNKTQT của Việt Nam vẫn tồn tại những hạn chế nhất định, đó là: Cơ cấu tăng trưởng kinh tế Việt Nam chưa thay đổi căn bản; chất lượng tăng trưởng vẫn còn thấp và chưa thực sự ổn định, bền vững. Quá trình HNKTQT chưa gắn kết chặt chẽ với quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu bảo đảm quốc phòng, an ninh. Việt Nam chưa có kế hoạch tổng thể và lộ trình hợp lý về HNKTQT; chưa có chiến lược rõ ràng khi tham gia các FTA. Việc ứng phó với các biến động và xử lý những tác động xấu do nền kinh tế thế giới gây ra còn bị động, lúng túng và chưa đồng bộ; hệ thống luật pháp Việt Nam theo yêu cầu HNKTQT chưa hoàn thiện và đầy đủ. Ở một số địa phương, các vụ việc phức tạp xảy ra liên quan đến khiếu nại, tố cáo… chậm được giải quyết, tiềm ẩn những nguy cơ gây mất ổn định chính trị-xã hội. Sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo diễn ra ngày càng gay gắt. Còn tồn tại tệ nạn tham nhũng, tiêu cực trong xây dựng, triển khai các dự án, đề án hợp tác kinh tế quốc tế… Đó là những yếu tố để kẻ địch triệt để lợi dụng hòng thúc đẩy âm mưu “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam.
Nhằm tận dụng những cơ hội, thuận lợi trong hội nhập quốc tế để xây dựng, phát triển đất nước và phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hành vi lợi dụng HNKTQT để chống phá Việt Nam, chúng ta cần thực hiện tốt một số giải pháp trọng tâm như sau:
         Một là, công tác phòng, chống hoạt động lợi dụng HNKTQT để chống phá nước ta luôn phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối của Đảng; sự quản lý, điều hành của Chính phủ nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong triển khai công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về tính tất yếu khách quan của việc HNKTQT; âm mưu, hoạt động lợi dụng vấn đề này để “diễn biến hòa bình” đối với nước ta của các thế lực thù địch; vị trí, vai trò công tác đấu tranh chống hoạt động lợi dụng HNKTQT để huy động sự tham gia của cả xã hội trong công tác này.
       Hai là, bảo đảm thực hiện hiệu quả quá trình HNKTQT trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với xây dựng và bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh quốc gia; giữ vững ổn định chính trị-xã hội, kiên định lợi ích quốc gia, dân tộc. Xác định rõ hội nhập là quá trình vừa có nhiều cơ hội, vừa gặp nhiều thách thức, vừa hợp tác, vừa đấu tranh; do vậy, cần chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu. Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế có khả năng tự chủ cao, ứng phó được với những biến động kinh tế quốc tế, coi đây là giải pháp có tính quyết định để nâng cao nội lực nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức trong HNKTQT.
      Ba là, thường xuyên nắm chắc tình hình hoạt động của các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp nước ngoài hợp tác, làm ăn với Việt Nam để chủ động phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn kịp thời âm mưu, hoạt động lợi dụng hợp tác để xâm phạm an ninh quốc gia của Việt Nam. Cần tập trung nắm tình hình hoạt động của các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp nước ngoài, các chương trình, dự án đầu tư có yếu tố nước ngoài triển khai ở Việt Nam… nhằm kịp thời phát hiện những vấn đề phức tạp liên quan đến an ninh chính trị, trật tự xã hội để phòng, chống hiệu quả. Chủ động phát hiện đấu tranh, ngăn chặn, xử lý nghiêm những trường hợp làm lộ, lọt bí mật nhà nước, cung cấp bí mật nhà nước cho các tổ chức nước ngoài, hoặc bị kẻ địch mua chuộc, lôi kéo nhằm phá hoại kinh tế nước ta.
      Bốn là, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ làm việc ở các cơ quan, đơn vị thường xuyên tiếp xúc, trao đổi, hợp tác với các tập đoàn kinh tế nước ngoài, bảo đảm cho đội ngũ này luôn có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, vừa “hồng”, vừa “chuyên”, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu chủ động và tích cực HNKTQT; có khả năng nắm bắt và tận dụng cơ hội lớn, vượt khó khăn, thách thức đối với công tác bảo vệ an ninh quốc gia nước ta trong HNKTQT, phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

dung de ma tran xuyen tac ve chu quyen lanh tho

Đừng để ngập chân trong “ma trận” xuyên tạc về chủ quyền lãnh thổ

       Có thể nói rằng, lợi dụng vấn đề chủ quyền lãnh thổ, trong đó có chủ quyền về biển, đảo để xuyên tạc sự thật, kích động dư luận và gây rối vốn là “nghề” của các thế lực thù địch muốn chống phá Việt Nam. Và như một thói xấu cố hữu, thường thì cứ mỗi khi nước ta đứng trước những sự kiện trọng đại, ngón nghề này lại được chúng tung ra để phá bĩnh, làm đảo lộn tình hình.
       Trong những ngày toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang phấn khởi chào mừng sự thành công của đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XIII của Đảng, dư luận tiến bộ trong nước và quốc tế không khỏi bức xúc khi trên mạng xã hội xuất hiện những thông tin xuyên tạc vấn đề chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam. Chỉ cần bớt chút thời gian suy ngẫm, đối chiếu và nhìn nhận một cách thấu đáo, có thể kết luận đây là luận điệu của các phần tử cơ hội, phản động, thường xuyên rình rập cơ hội để chống Đảng, chống Nhà nước và gây xáo trộn cuộc sống ổn định, hòa bình hiện nay của nhân dân Việt Nam. Ở đâu đó, trên các trang mạng xã hội hay các diễn đàn quy tập nhiều phần tử bất mãn, rêu rao rằng: “Đảng, Nhà nước Việt Nam coi trọng việc tổ chức đại hội Đảng hơn vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo”; hoặc cố tình xuyên tạc quan điểm, đường lối, chủ trương đấu tranh giữ vững chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc thông qua những “thuyết âm mưu” nhuốm màu kích động như: Việt Nam lôi bè kéo cánh, đi với nước này, chống nước kia;  và rằng, không đánh nhau thì mất biển, mất đảo, thế nước lâm nguy...
        Vạch trần chân tướng và đường đi của những chiêu trò này là việc nhất thiết phải bàn, phải làm. Có thể tự hào khẳng định rằng, lịch sử quá trình dựng nước, giữ nước, xây dựng và phát triển đất nước đã chứng minh, trong mỗi người dân Việt Nam là một trái tim yêu nước. Khi chủ quyền lãnh thổ quốc gia đứng trước những thách thức hoặc bị xâm phạm, lòng yêu nước được người dân thể hiện bằng cách dồn tối đa sự quan tâm, thường xuyên dõi theo những thông tin liên quan. Lợi dụng tâm lý này, các đối tượng thù địch đưa ra những thông tin sai sự thật hòng bẻ lái dư luận, kích động người dân nhằm mục đích cuối cùng là xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước, chia rẽ mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước và quân đội. Cụ thể, cùng với việc phê phán các hành vi vi phạm luật pháp quốc tế, xâm phạm chủ quyền Việt Nam, các đối tượng này cũng đồng thời quy chụp lãnh đạo cấp cao Đảng và Nhà nước ta "phản ứng chậm" hoặc "né tránh, không dám đối đầu, đang tâm để chủ quyền lãnh thổ quốc gia bị đe dọa” (!). Mưu đồ cốt lõi của những luận điệu này là khiến lòng dân mất yên, dần mất niềm tin vào lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
Càng nguy hiểm hơn khi nhiều đối tượng lợi dụng vấn đề chủ quyền lãnh thổ, trong đó có chủ quyền biển, đảo để kích động, kêu gọi người dân “xuống đường” thể hiện lòng yêu nước, từ đó gây mất an ninh, trật tự xã hội và kiếm cớ để tiếp tục chống phá.
        Một thực tế khác cần nhìn nhận, đó là trong khi đa số người dân nhận thức đúng đắn về quan điểm, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia, gần như “miễn nhiễm” với những luận điệu xuyên tạc, hồ đồ và cũ rích ấy, thì vẫn còn khá nhiều người "sập bẫy", trong đó chủ yếu là những người mới hoặc ít tiếp xúc với internet, mạng xã hội. Sự thiếu nhận thức đúng đắn về chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước khiến họ chưa kịp chắt lọc thông tin đúng-sai, dễ bị cuốn vào “ma trận phản động” trên internet.
      Cùng với việc nhận diện âm mưu của các thế lực thù địch chống phá sự ổn định của Việt Nam thông qua chiêu bài về chủ quyền lãnh thổ, việc nắm vững chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, tỉnh táo để hấp thụ đầy đủ bản chất của vấn đề là nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi chúng ta.
Trước hết, phải nhắc lại rằng, quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta là kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước. Điều này đã được nêu rõ trong Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và được chứng minh trong cách thức Việt Nam giải quyết vấn đề Biển Đông, với tinh thần thượng tôn pháp luật, giải quyết hòa bình các tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế và Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS 1982); kiềm chế, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, thực hiện đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và sớm đạt được Bộ quy tắc ứng xử tại Biển Đông (COC).
       Quan điểm xuyên suốt này còn được nêu rõ trong các phát biểu của lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước và quân đội. Trong cuộc tiếp xúc cử tri quận Ba Đình (Hà Nội) vào giữa tháng 10-2019, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định quan hệ đối ngoại của Việt Nam thời gian qua rất tốt, bằng chứng là 192 nước đã nhất trí bầu Việt Nam là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021. Cùng với đó, kinh tế đối ngoại cũng không ngừng được mở rộng. Tuy nhiên, một số khu vực, địa bàn còn tiềm ẩn sự phức tạp về an ninh-trật tự, nhất là về vấn đề lãnh thổ, biên giới, biển đảo. Cũng tại cuộc tiếp xúc đó, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước kêu gọi cử tri cảnh giác với những quan điểm cực đoan về vấn đề Biển Đông và khẳng định cần phải giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, đồng thời kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không bao giờ nhân nhượng trước những vấn đề thuộc về chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
       Hay như tại lễ công bố Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019, cùng với việc nhấn mạnh chính sách quốc phòng mang tính chất hòa bình và tự vệ của Việt Nam, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đã nêu rõ: “Chúng ta mong muốn hòa bình, chủ trương giải quyết mọi tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Chúng ta xây dựng quốc phòng cũng vì mục đích hòa bình. Nếu một khi đất nước chúng ta bị chiến tranh, chúng ta buộc lòng phải cầm súng thì chúng ta cũng phải cầm súng vì hòa bình. Chúng ta chỉ sử dụng sức mạnh quốc phòng trong tình huống tự vệ khi đất nước bị xâm hại, trước hết là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia-dân tộc, sự ổn định của chế độ”.
        Ngoài ra, Sách trắng Quốc phòng cũng khẳng định quan điểm nhất quán của Việt Nam là "không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế", "không tham gia liên minh quân sự", và bởi vậy, quan điểm cho rằng Việt Nam “bài nước này, thân nước kia” hay “đi theo nước này, chống nước kia”, suy cho cùng chỉ là dối trá, lừa phỉnh dư luận.
       Những bài học đắt giá từ các cuộc chiến tranh trong quá khứ đã khiến nhiều nước, trong đó có cả những quốc gia có tiềm lực quân sự mạnh, đang đi theo hướng lấy đối thoại, luật pháp quốc tế làm “kim chỉ nam” cho mọi hành động liên quan đến vấn đề chủ quyền lãnh thổ, thay vì cổ xúy cho xung đột và đối đầu. Điều đó càng chứng minh rằng quan điểm, chủ trương, đường lối, đối sách của Việt Nam trong bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia và giải quyết các vấn đề liên quan là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với xu thế chung của thế giới.
Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia cũng như cuộc sống hòa bình, ổn định hiện có, là vấn đề chiến lược, việc đại sự, đòi hỏi phải có chủ trương, đường lối, đối sách đúng đắn, phù hợp, hiệu quả và bền vững. Do đó, chúng ta cần hết sức tỉnh táo, cảnh giác trước các chiêu trò, luận điệu kêu gào, xuyên tạc, kích động để không mắc mưu những phần tử xấu và thế lực thù địch để rồi ngập chân trong thứ “ma trận” quái gở mà chúng cố tình giăng ở khắp nơi.

Những bằng chứng khoa học chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa

    Trong bài viết cho báo Lao động gần đây, Tiến sĩ sử học Hãn Nguyên Nguyễn Nhã đã cung cấp những bằng chứng khoa học chứng minh rằng, từ thế kỷ XVII đến nay, Việt Nam là quốc gia duy nhất thực thi chủ quyền liên tục, hòa bình đối với 2 quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa và quá trình xác lập chủ quyền này được thể hiện rõ trên 4 nội dung sau đây:

    Một là, chưa hề có nước nào như ở Việt Nam, chính sử, sách điển chế, sách địa lý ghi rõ việc xác lập chủ quyền của Việt Nam tại 2 quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa. Sách Đại Việt sử ký tục biên (1676-1789) do các sử thần thời Lê - Trịnh biên soạn theo lệnh của Trịnh Sâm năm 1775, có đoạn viết: “Tám người thuộc đội Hoàng Sa xã An Vĩnh huyện Bình Sơn phủ Quảng Ngãi đi thuyền nhỏ vào bãi Hoàng Sa giữa hải đảo tìm thấy hóa vật, bị gió dạt vào cửa sông Thanh Lan huyện Văn Xương phủ Lô Châu (nước Thanh)... Ngoài biển xã An Vĩnh có nhiều đảo lớn gồm hơn 130 đảo, cách nhau một ngày đi thuyền, hoặc vài canh giờ... Đặt đội Hoàng Sa gồm 70 suất, lấy người xã An Vĩnh xung vào đội ấy, cắt lượt nhau đi thuyền đến đảo mò tìm sản vật. Mỗi năm cứ tháng ba ra đi, mang lương ăn sáu tháng, đi thuyền ra biển ba ngày ba đêm mới đến đảo…”. Sang triều Nguyễn từ năm 1802 đến 1909, năm bắt đầu bị tranh chấp, có rất nhiều tài liệu chính sử, sách điển chế, sách địa lý minh chứng chủ quyền của Việt Nam trên 2 quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa như Dư địa chí (1821) của Phan Huy Chú - nhà nghiên cứu bách khoa của Việt Nam đã viết cuốn này trong bộ Lịch triều hiến chương loại chí. Chính Dư địa chí quyển 5, ở phần Quảng Nam, có nói đến phủ Tư Nghĩa. Hầu hết nội dung nói về phủ Tư Nghĩa là nói đến Hoàng Sa. Chứng tỏ Hoàng Sa rất quan yếu đối với phủ Tư Nghĩa hồi bấy giờ ....

    Hai là, chưa hề có nước nào như ở Việt Nam, qua châu bản, văn bản chính quyền từ Trung ương đến địa phương ghi rõ việc xác lập và hành xử chủ quyền tại 2 quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa. Tài liệu rất quý giá là châu bản triều Nguyễn (thế kỉ XIX), là các văn bản của triều đình nhà Nguyễn hiện đang được lưu trữ tại Kho lưu trữ Trung ương 1 ở Hà Nội. Ở đó người ta tìm thấy những bản tấu, phúc tấu của các đình thần các bộ như bộ Công, và các cơ quan khác hay những Dụ của các nhà vua về việc xác lập chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa dưới triều Nguyễn như việc vãng thám, đo đạc, vẽ hoạ đồ Hoàng Sa, cắm cột mốc .… Chẳng hạn như Dụ ngày 18 tháng 7 năm Minh Mạng thứ 16 (1835) trong Châu bản tập Minh Mạng số 54, trang 92 có đoạn viết: “Vua Minh Mạng ra chỉ dụ giao cho Bộ Công phạt cai đội Hoàng Sa Phạm Văn Nguyên 80 trượng vì tội trì hoãn thời gian công tác hay phạt 80 trượng giám thành Trần Văn Vân, Nguyễn Văn Tiệm, Nguyễn Văn Hoằng chưa chu tất việc vẽ bản đồ Hoàng Sa. Trong khi đó lại thưởng dân binh đội Hoàng Sa Võ Văn Hùng, Phạm Văn Sanh, mỗi người một quan tiền vì đã có công hướng dẫn hải trình của thủy quân đi Hoàng Sa” ....

    Ba là, chưa hề có nước nào như ở Việt Nam, lại có nhiều tư liệu phương Tây từ thế kỷ XIX trở về trước ghi rõ việc xác lập và hành xử chủ quyền của Việt Nam tại 2 quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa. Ở đây có thể nêu ra một số tài liệu chính như: Nhật ký trên tàu Amphitrite (năm 1701) xác nhận Paracels là một quần đảo thuộc về nước An Nam. Hồi ức về Nam Kỳ (Le Mémoire sur Cochinchine) của Jean Baptiste Chaigneau (1769-1825) viết vào các năm cuối đời Gia Long (hoàn tất năm 1820) đã khẳng định năm 1816 vua Gia Long đã xác lập chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Paracels. Thế giới, lịch sử và mô tả về tất cả các dân tộc cùng tôn giáo, cách cư xử và tập quán của họ (Univers, histoire et description de tous les peuples, de leurs religions, moeurs et coutumes) của Giám mục Taberd xuất bản năm 1833 cho rằng hoàng đế Gia Long chính thức khẳng định chủ quyền trên đảo Hoàng Sa năm 1816 .… Đó là chưa kể chính những tài liệu của Trung Quốc như các bản đồ cổ Trung Quốc do chính người Trung Quốc vẽ từ năm 1909 trở về trước đều minh chứng Tây Sa và Nam Sa (tên gọi do Trung Quốc tự đặt ra để chỉ 2 quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa) chưa hề thuộc về Trung Quốc. Tất cả các bản đồ cổ của Trung Quốc do người Trung Quốc vẽ không có bản đồ nào có ghi các quần đảo này. Tất cả các bản đồ ấy đều xác định đảo Hải Nam là cực nam của biên giới phía Nam của Trung Quốc ....

    Bốn là, chưa hề có nước nào như Việt Nam mà người phương Tây đã vẽ bản đồ xác định rất rõ “Paracel tức Hoàng Sa” và ghi chú Hoàng Sa thuộc xứ Đàng Trong của Vương quốc An Nam tức Việt Nam. Ngoài bản đồ An Nam đại quốc họa đồ của Giám mục Taberd, người ta còn thấy rất nhiều bản đồ do phương Tây vẽ từ thế kỷ XVIII, có ghi chú rõ Paracel thuộc Vương quốc An Nam hay Đàng Trong (Cochinchine). An Nam đại quốc họa đồ dài 80cm5 rộng 44cm của Giám mục Taberd xuất bản năm 1838 khẳng định “Paracel seu Cát Vàng” (seu, trong tiếng La tinh có nghĩa “hoặc” hay “là”) Paracel hay là Cát Vàng tức Hoàng Sa, nằm trong cuốn từ điển Latinh - Annam ghi rõ ở tọa độ địa lý hiện nay và nằm trong vùng biển của Việt Nam ….

    Tóm lại, từ thế kỷ XVII đến nay, Việt Nam là quốc gia duy nhất thực thi chủ quyền một cách liên tục, hòa bình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc Trung Quốc gần đây gia tăng các hoạt động lấp biển, xây đảo nhân tạo, quân sự hóa, tổ chức huấn luyện quân sự gọi là “thực chiến hóa”, nhất là việc đưa tàu Địa chất Hải dương 8 vào xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, đã và đang bị dư luận, công luận Việt Nam và các nước lên án mạnh mẽ trên các phương tiện thông tin truyền thông, mạng internet cũng như tại các diễn đàn, hội nghị, hội thảo quốc tế, khu vực./.

Thứ Ba, 22 tháng 9, 2020

Nhìn rõ bản chất của tổ chức phản động lưu vong “Triều Đại Việt”

Thời gian gần đây, tổ chức phản động lưu vong “Triều đại Việt” triển khai nhiều hoạt động khủng bố, phá hoại, đe dọa trực tiếp đến an ninh quốc gia. Qua mạng xã hội, số đối tượng cầm đầu ở bên ngoài từng bước tiếp cận, tác động đối tượng trong nước để liên lạc, chuẩn bị phương tiện vũ khí, kế hoạch khủng bố, phá hoại kích động biểu tình gây rối an ninh trật tự...

Tổ chức “Triều đại Việt” do các đối tượng nguyên là thành viên tổ chức khủng bố “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” đứng ra thành lập. Khoảng tháng 1-2018, do bất đồng quan điểm, Ngô Văn Hoàng Hùng (SN 1952, trú tại Tiền Giang, quốc tịch Canada), đối tượng từng bị kết án tử hình vào năm 1990 về tội “Hoạt động nhằm chống chính quyền nhân dân”, sau đó được giảm án xuống chung thân nhưng trốn trại vượt biên sang Canada định cư cùng một số đối tượng cốt cán của tổ chức khủng bố “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” do Đào Minh Quân (SN 1952, quốc tịch Mỹ, nguyên trung úy quân đội Việt Nam Cộng hòa) cầm đầu tách ra khỏi tổ chức và thành lập cái gọi là “Triều đại Việt”. Tổ chức này có trụ sở đặt tại 31 RVE Meunited West, Laval, Quebec, Canada; trang web và các kênh truyền thông “Triều đại Việt”; “Free Bibet”. “Hoàng Kỳ”, “Giải độc chính trị” ; “ViệtNam today”, “Việt tự do”, “Rado tiếng nói quốc dân”, “Phùng Nguyen”; “Scott Huynh”, “Jeffrey Thai”, “Tin tức hàng ngày TV 24”.

Các đối tượng chủ trương hoạt động bạo động vũ trang, lật đổ Đảng và Nhà nước ta với phương châm “đốt sạch”, “giết sạch”, “phá sạch”, “cướp sạch” lấy cờ ngũ sắc làm quốc kỳ. Để thực hiện dã tâm này, các đối tượng triệt để sử dụng các tiện ích trên không gian mạng, đặc biệt là Youtube, Facebook đăng tải gần 200 video, clip dưới hình thức livestream với nội dung xuyên tạc lịch sử, vụ cáo Nhà nước Việt Nam, kêu gọi người dân đứng lên đấu tranh bạo động, lật đổ chế độ, ủng hộ “Triều Đại Việt” về lãnh đạo đất nước.

Tổ chức “Triều đại Việt” do Ngô Văn Hoàng Hùng cầm đầu sử dụng đồng tiền để lừa phỉnh, lợi dụng sự nhẹ dạ cả tin của một số người dân để tuyên truyền, kích động, khiến họ hiểu sai về đường lối, chính sách của Đảng..., có những hoạt động vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia. Chúng chỉ đạo đồng bọn ở trong nước mua vũ khí, vật liệu nổ từ Campuchia mang về nước; hỗ trợ tiền, chỉ đạo một số cơ sở trong nước mua sắm vũ khí, chế tạo bom, mìn hoạt động khủng bố, phá hoại; kích động người dân xuống đường cướp vũ khí để đảo chính.

Tổ chức 'Triều đại Việt' gây ra hàng loạt vụ nổ

Tháng 6-2018, số cầm đầu “Triều Đại Việt” đã chuyển hàng trăm triệu đồng về nước và chỉ đạo 6 nhóm đối tượng do Nguyễn Khanh làm “Trưởng nhóm” chế tạo quả nổ, tấn công trụ sở Công an phường 12, quận Tân Bình gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự và an ninh quốc gia. Ngoài ra, chúng còn chuẩn bị một lượng lớn vũ khí gồm các quả nổ và kịp nổ lên kế hoạch tấn công khủng bố nhà riêng của một số đồng chí lãnh đạo địa phương nhưng đã bị Công an TP Hồ Chí Minh chủ trì phối hợp với Công an tỉnh Đồng Nai bắt giữ, xử lý. Ngô Văn Hoàng Hùng cùng đồng bọn tiếp tục chuyển tiền về nước để chỉ đạo số đối tượng trong nước mua vũ khí, thuốc nổ từ Campuchia mang về Việt Nam để “chờ lệnh”, chỉ đạo đối tượng hoạt động bí mật, phát triển lực lượng, chuẩn bị “quốc kỳ” băng rôn, khẩu hiệu để tham gia biểu tình, bạo loạn khi có thời cơ.

Nguyễn Khanh, đối tượng trong nước do bức xúc với cách giải quyết đất đai của chính quyền địa phương nên bị Ngô Hùng (ở Canada, đang bị truy nã quốc tế) lôi kéo, tham gia tổ chức “Triều đại Việt” từ tháng 11.2017. Từ khi tham gia vào tổ chức, Nguyễn Khanh đã nhận 144 triệu đồng và 600 đô la Canada từ Ngô Hùng để lôi kéo người khác tham gia vào tổ chức; mua thuốc nổ và kíp nổ của Nguyễn Trung Trực; chỉ đạo Dương Bá Giang mua remote, bình ắc quy để chế tạo trái nổ sử dụng kích nổ bằng remote. Sáng 20.6.2018, Nguyễn Khanh, Dương Khắc Minh, Vũ Hoàng Nam, Dương Bá Giang thực hiện gây nổ tại trụ sở Công an P.12, Q.Tân Bình, TP.HCM làm 2 cán bộ bị thương, gây thiệt hại về tài sản hơn 349 triệu đồng.

Ngoài ra, Ngô Hùng lôi kéo các bị cáo Nguyễn Minh Tấn, Phạm Trần Phong Vũ gây nổ trong khuôn viên trụ sở Công an tỉnh Hậu Giang vào khoảng 2 giờ ngày 5.7.2018; cùng Nguyễn Khanh lôi kéo một số bị cáo khác ở một số tỉnh thành: Hậu Giang, Tiền Giang, An Giang, Bình Phước tham gia tổ chức để khủng bố nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, sau đó các bị cáo này bị Cơ quan An ninh phát hiện, bắt giữ kịp thời và đưa ra xét xử trong vụ án của Nguyễn Khanh và đồng phạm.

Các thành viên tổ chức 'Triều đại Việt' lãnh án

Ngày 22.9.2020, vụ án khủng bố do các đối tượng trong tổ chức “Triều đại Việt” đã được đưa ra xét xử. TAND TP.HCM tuyên án đối với bị cáo Nguyễn Khanh (56 tuổi, trú Đồng Nai) và 19 bị cáo khác trong vụ án “khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân”, “chế tạo, tàng trữ, mua bán trái phép vật liệu nổ”.

Tại phiên tòa, các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Theo HĐXX, tổ chức “Triều đại Việt” đã lôi kéo nhiều người trong và ngoài nước tham gia vào việc chống phá, lật đổ chính quyên nhân dân. Theo đó, các bị cáo đã gây ra hàng loạt vụ nổ tại TP.HCM, Đồng Nai, Kiên Giang, Hậu Giang. Từ đó có đủ cơ sở kết luận, các bị cáo đã phạm vào tội “khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân” và “chế tạo, tàng trữ, mua bán trái phép vật liệu nổ”. Cáo trạng truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hành vi phạm tội của các bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, hủy hoại nhiều tài sản, xâm phạm tới sức khỏe, tính mạng của cán bộ. Xét thấy, đây là hành vi phạm tội có tổ chức nên cần phải xử lý nghiêm khắc nhằm răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

HĐXX tuyên phạt bị cáo Nguyễn Khanh, chủ mưu vụ gây nổ tại trụ sở Công an P.12, Q.Tân Bình (TP.HCM) 20 năm tù về tội "khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân", 4 năm tù về tội "chế tạo, tàng trữ, mua bán trái phép vật liệu nổ". Tổng hợp hình phạt là 24 năm tù. Hai bị cáo Vũ Hoàng Nam và Dương Khắc Minh, người đặt 2 quả nổ ở trụ sở Công an P.12 (Q.Tân Bình) cùng bị tuyên phạt 17 năm tù. Các bị cáo còn bị phạt bổ sung quản chế 5 năm sau khi mãn hạn tù. Hai bị cáo Dương Bá Giang, Nguyễn Minh Tấn (người nhận chỉ đạo đặt quả nổ ở Công an tỉnh Hậu Giang) cùng nhận mức án 18 năm tù. Các bị cáo còn lại tham gia tổ chức “Triều đại Việt” lãnh từ 2 - 12 năm tù về tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân; bị phạt bổ sung quản chế từ 3 - 5 năm sau khi mãn hạn tù.

Cần tỉnh táo trước âm mưu thủ đoạn của các đối tượng phản động

Có thể thấy, những âm mưu thủ đoạn và dã tâm của tổ chức “Triều đại Việt” của nhóm Ngô Văn Hoàng Hùng và đồng bọn là rất nguy hiểm. Vì thế, mỗi người dân yêu nước cần phải tỉnh táo trước âm mưu và luận điệu tuyên tuyền phản động của các đối tượng và đồng bọn, người dân cần hết sức tỉnh táo hiểu rõ âm mưu, ý đồ, phương thức và thủ đoạn hoạt động của “Triều đại Việt”; đặc biệt là hoạt động khủng bố, phá hoại. Khẳng định rõ hậu quả của việc ủng hộ, hậu thuẫn cho “Triệu đại Việt” sẽ bị xử lý theo pháp luật, người nào có hành vi tham gia tuyên truyền, lôi kéo, xúi giục người khác tham gia tài trợ, nhận tài trợ của “Triều đại Việt”; tham gia các khóa đào tạo, huấn luyện do “Triều đại Việt” tổ chức; hoạt động theo chỉ đạo của “Triều đại Việt”... là phạm tội khủng bố, tài trợ khủng bố và sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở đó nâng cao tinh thần cảnh giác, không ủng hộ, tham gia tổ chức  phản động này.

Các cấp ủy đảng, cán bộ, đảng viên cần tiếp tục kiên trì, quyết liệt trong công tác đấu tranh chống âm mưu, hoạt động của các tổ chức phản động nói chung, của “Triều đại Việt” nói riêng; tích cực đấu tranh phản bác các thông tin, quan điểm sai trái, thù địch và phòng, chống nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; đẩy mạnh công tác tuyên tuyền, vận động quần chúng nơi cư trú cảnh giác với hoạt động chiến tranh tâm lý, phá hoại tư tưởng của kẻ địch và bọn phản động.

(Tổng hợp từ báo điện tử http://congan.com.vn/, http://antg.cand.com.vn/, https://thanhnien.vn/).

TĐC

Đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách hiện nay

 

Đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách hiện nay

 

Trong bối cảnh các thế lực thù địch, cơ hội chính trị tung ra rất nhiều luận điệu, bằng nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi nhằm xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, hòng thực hiện mưu đồ chống phá hệ tư tưởng của Đảng ta, làm cho Đảng tan rã về ý thức hệ, từ đó tan rã về tổ chức, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thay đổi chế độ ta. Vì vậy, kiên quyết, kiên trì đấu tranh trên cơ sở nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong điều kiện mới là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách hiện nay.

Chủ nghĩa Mác do C.Mác và Ph.Ăng-ghen sáng lập vào khoảng giữa những năm 40 của thế kỷ XIX ở Tây Âu, đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong điều kiện lịch sử mới đã được V.I. Lê-nin bổ sung, phát triển thành chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Chủ nghĩa Mác ra đời là một cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, mang bản chất khoa học và cách mạng, trở thành vũ khí tư tưởng - lý luận của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản nhằm mục tiêu giải phóng xã hội, giải phóng con người thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công, tha hóa, phát triển toàn diện con người.

Từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác đã tồn tại trên 172 năm và trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử. Mặc dù mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu đã sụp đổ; mặc dù chủ nghĩa đế quốc cùng những thế lực phản động, thù địch dùng nhiều thủ đoạn thâm độc chống phá, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác  - Lê-nin nhưng chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn tồn tại, phát triển mà chưa có một học thuyết nào có thể thay thế được, nó có giá trị trường tồn, sức sống bền vững. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn là thế giới quan và phương pháp luận khoa học của hàng triệu triệu người trên trái đất. Đúng như lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nhận định: “Bây giờ, chủ nghĩa nhiều, học thuyết nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin”.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng ta, Hiến pháp năm 2013 của Nhà nước ta đều khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng, kim chỉ nam cho hành động. Sự khẳng định đó nói lên ý nghĩa to lớn, giá trị vững bền của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng nước ta. Chủ nghĩa Mác  - Lê-nin đã trở thành ngọn cờ tư tưởng, lý luận và phương pháp luận khoa học để nhận thức thời đại, nhận thức tình hình thế giới và trong nước, là cơ sở khoa học để Đảng ta đề ra đường lối, chính sách đổi mới, phát triển đất nước, nhất là trong bối cảnh tình hình thế giới biến đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường như hiện nay. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin cũng là cơ sở cho sự thống nhất về tư tưởng trong Đảng, cho sự thống nhất và củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân, tạo đoàn kết, đồng thuận trong xã hội.

Trong quá trình xây dựng, phát triển học thuyết khoa học của mình, C.  Mác, Ph.  Ăng-ghen và sau này là V.I. Lê-nin đã phải thường xuyên đấu tranh chống các quan điểm sai trái, như chủ nghĩa duy tâm, siêu hình, giáo điều, xét lại. C.  Mác và Ph.  Ăng-ghen từng phê phán quan điểm của phái Hê-ghen trẻ, của Pru-đông, của Đuy-rinh, của Lát-xan và nhiều quan điểm tư sản khác. Thông qua đấu tranh phê phán quan điểm phản diện, các ông đã trình bày quan điểm chính diện của mình, đã phát triển, hoàn thiện học thuyết của mình. C.  Mác và Ph.  Ăng-ghen đã từng khẳng định rằng, học thuyết của các ông có tính phê phán và cách mạng, nó không đội trời chung với quan điểm giáo điều, bảo thủ, với quan điểm duy tâm, siêu hình, cơ hội và xét lại. Có thể khẳng định rằng, đấu tranh tư tưởng, lý luận để chống quan điểm sai trái nhằm bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác mang tính quy luật trong sự tồn tại, phát triển của chủ nghĩa Mác.

Để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện lịch sử mới, V.I. Lê-nin đã kiên quyết đấu tranh, kịch liệt phê phán quan điểm duy tâm, siêu hình của chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán của E. Ma-khơ, A-vê-na-ri-út,...; đấu tranh với những quan điểm cơ hội, xét lại của các nhà lãnh đạo Quốc tế II, như Béc-xtanh, Cau-xky,...; đấu tranh với những quan điểm sai lầm của Plê-kha-nốp, Tờ-rốt-xki,  Bu-kha-rin,  Di-nô-vi-ép,... Thông qua đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, V.I. Lê-nin đã bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác lên một giai đoạn mới - giai đoạn Lê-nin trên cả ba bộ phận cấu thành là triết học, kinh tế học chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học phù hợp với điều kiện lịch sử mới và phù hợp với những thành tựu mới nhất trong khoa học tự nhiên ở thời kỳ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. V.I. Lê-nin đã từng gọi chủ nghĩa duy vật mác-xít là “chủ nghĩa duy vật chiến đấu”, nghĩa là nó không ngừng đấu tranh chống lại các quan điểm duy tâm, siêu hình, cơ hội, xét lại, các quan điểm muốn bảo vệ trật tự tư sản. Vận dụng chủ nghĩa Mác một cách sáng tạo vào thực tiễn nước Nga, V.I. Lê-nin và Đảng Bôn-sê-vích đã lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân Nga tiến hành thắng lợi Cách mạng Tháng Mười vĩ đại, mở ra một thời đại mới trong sự phát triển của xã hội loài người - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga là sự khẳng định tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đường lối của Lê-nin, là sự bác bỏ mạnh mẽ nhất, quyết định nhất, có tính thuyết phục nhất đối với các quan điểm sai trái, thù địch lúc bấy giờ.

Từ khi ra đời cho đến nay, trong hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh không ngừng đi sâu nhận thức chủ nghĩa Mác - Lê-nin, nắm vững bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam và thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải nắm vững và vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp Mác - Lê-nin vào thực tiễn cách mạng, từ đó đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Nhận thức rõ âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng chính trị, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, biện pháp đẩy mạnh cuộc đấu tranh phê phán, bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch nhằm ngăn chặn biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm thất bại âm mưu “chiến thắng không cần chiến tranh” của các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Văn kiện các kỳ đại hội Đảng toàn quốc thời kỳ đổi mới đều nhấn mạnh nhiệm vụ đấu tranh này. Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XII của Đảng yêu cầu tăng cường đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch. Ban Chấp hành Trung ương cũng đã ban hành một số nghị quyết chuyên đề (Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX “Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới”, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X “Về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới”...), Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch. Đặc biệt ngày 22-10-2018, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW, “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Nghị quyết chỉ rõ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng phải trên cơ sở quán triệt sâu sắc, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam, trước hết trong xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nghị quyết nêu ra các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, trong đó có nhiệm vụ đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch theo hướng chủ động, có tính thuyết phục cao./.

 

Kịp thời đấu tranh với chiêu trò chống phá, xuyên tạc sự thật

 

Lịch sử hơn 75 năm xây dựng và trưởng thành của Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam đã khẳng định chân lý: Kỷ luật là sức mạnh của quân đội. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ “kỷ luật là động lực giữ sức mạnh của bộ đội”. Điều này thể hiện rõ ở việc, tất cả vụ việc sai phạm từ nhỏ đến lớn đều được đưa ra xem xét, xử lý thấu đáo theo phân cấp. Trong quá khứ cũng như hiện tại, chúng ta từng xử lý nghiêm khắc những cán bộ, quân nhân có sai phạm.

Như vậy, tính kỷ luật không chỉ thể hiện trong thời chiến tranh mà cả thời bình hiện nay. Thế nhưng vừa qua, lợi dụng sự nghiêm minh của "kỷ luật thép", những cán bộ vi phạm được các phương tiện truyền thông công khai rộng rãi, các thế lực thù địch đã chủ ý cấu kết với các đối tượng cơ hội chính trị tung ra nhiều chiêu trò chống phá, xuyên tạc sự thật, hòng làm sai lệch bản chất và truyền thống tốt đẹp của QĐND Việt Nam.

Vì lẽ đó, mỗi quân nhân, tập thể quân nhân cần nhận thức rõ rằng “Kỷ luật thép” là truyền thống cao quý, bản chất tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam",  đồng thời có biện pháp tổ chức kịp thời đấu tranh với các quan điểm sai trái, chống phá Quân đội ta.

Cần nêu cao hơn nữa trách nhiệm cán bộ, chỉ huy các cấp, tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền, vạch rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, lợi dụng các vụ việc sai phạm của cán bộ quân đội để xuyên tạc, gây xói mòn lòng tin trong nhân dân, cán bộ, chiến sĩ, nhằm thực hiện “tự diễn biến", "tự chuyển hóa”.

Cùng với đó, cấp ủy, tổ chức đảng, người chỉ huy các cấp phải kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời đối với cán bộ có sai phạm. Đồng thời, cán bộ các cấp phải luôn nêu cao ý thức trách nhiệm, tự mình soi xét, tu dưỡng. Cấp ủy, chỉ huy các cấp tăng cường kiểm tra, kiểm soát tài sản công, không để xảy ra tham ô, tham nhũng, không để “con sâu làm rầu nồi canh”, qua đó giữ vững niềm tin, hình ảnh của Bộ đội Cụ Hồ.

Tạo “sân chơi”, chủ động kiểm soát tình hình

 

Có thể khẳng định rằng, không phải trước đây, hiện nay và những năm theo mỗi chúng ta cần phải tiếp tục khẳng định truyền thống tốt đẹp, bản chất tự giác nghiêm minh của kỷ luật quân đội và lật tẩy các chiêu trò, mưu đồ “mượn gió bẻ măng” của lực lượng thù địch, chống phá. Đó là: Cần phải tạo “sân chơi”, chủ động kiểm soát tình hình.

“Kỷ luật thép” là truyền thống cao quý, bản chất tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam", góp phần đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các phần tử lợi dụng những trang mạng tung ra nhiều chiêu trò chống phá, xuyên tạc sự thật, hòng làm sai lệch bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội ta.

Thủ đoạn của các thế lực thù địch hết sức thâm độc và xảo quyệt. Cứ mỗi lần chúng ta tổ chức đại hội đảng là các thế lực thù địch lại ra sức chống phá cách mạng nước ta bằng nhiều chiêu trò thâm độc, đặc biệt trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận và tổ chức cán bộ. Điều nguy hiểm nhất là các phần tử lợi dụng sai phạm của một số sĩ quan, tướng lĩnh bị xử lý để bôi nhọ và hạ thấp vai trò của quân đội, gây mất lòng tin của quần chúng nhân dân đối với LLVT. Việc làm này, mới đầu, không ít người cho rằng họ chỉ tập trung nói về một vài cá nhân nào đó, nhưng thực chất là nói xấu, xuyên tạc bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội ta.

Thế nên, để đấu tranh, ngăn ngừa những luận điệu này, chúng ta cần phải tỉnh táo, phân biệt rõ đúng-sai, từ đó tỏ rõ thái độ kiên quyết đấu tranh với những hành vi chống phá của các thế lực thù địch, không để các luồng thông tin xấu độc này thẩm thấu vào trong các cơ quan, đơn vị quân đội. Muốn vậy, trước hết, đội ngũ lãnh đạo, chỉ huy các cấp cần phải có biện pháp quản lý chặt chẽ tình hình tư tưởng cán bộ, chiến sĩ; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cho các đối tượng nhận thức rõ tính hai mặt của thông tin mạng, trên cơ sở đó nâng cao ý thức chấp hành kỷ luật quân đội, quy định của đơn vị; tuyệt đối nghiêm cấm các hành vi tán phát tài liệu xấu độc trong đơn vị. Trường hợp nào vi phạm thì phải xử lý nghiêm minh.

Hiển nhiên thực tế trong thời gian qua, nhờ phát huy tinh thần cảnh giác cách mạng, quản lý chặt chẽ tình hình tư tưởng, nên các cơ quan, đơn vị trong toàn quân nói chung và Học viện Quốc phòng nói riêng cơ bản chưa để xảy ra tình trạng thông tin xấu độc xâm nhập vào nội bộ đơn vị. Các cơ quan, đơn vị chủ động tạo “sân chơi” cho bộ đội; đội ngũ cán bộ các cấp thường xuyên duy trì chặt chẽ các chế độ trong ngày, trong tuần; kịp thời nắm bắt tình hình, định hướng tư tưởng, duy trì nghiêm kỷ luật trong mọi hoạt động...