Thứ Tư, 3 tháng 5, 2023

CHUYỆN VỀ NỮ ANH HÙNG TRÊN “QUÊ HƯƠNG 5 TẤN”

 Vào đầu những năm 50 của thế kỷ trước, có một nữ du kích ở Thái Bình một lòng một dạ đi theo cách mạng, dẫu bị địch bắt và tra tấn dã man vẫn không nhụt chí, tiếp tục chiến đấu và lập nhiều chiến công xuất sắc và được Bác Hồ viết bài ca ngợi, biểu dương. Bà là Nguyễn Thị Chiên, nữ Anh hùng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Từ cô bé ở đợ thành du kích
Thái Bình là miền quê giàu truyền thống yêu nước và cách mạng. Đến giờ, sử sách vẫn còn ghi danh biết bao người con ưu tú của vùng đất “quê hương 5 tấn” trong những cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, trong đó không thể không nhắc đến nữ Anh hùng Nguyễn Thị Chiên.
Bà Nguyễn Thị Chiên sinh năm 1930 trong một gia đình cố nông tại xóm Trại Đồng, xã Tán Thuật (nay là thị trấn Thanh Nê, huyện Kiến Xương). Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, bố mẹ mất sớm, cuộc sống rất thiếu thốn, từ nhỏ, bà đã phải đi ở đợ cho gia đình người khác.
Cách mạng tháng Tám thành công, bà Chiên trở về nhà làm ăn, sinh sống. Sau khi được tuyên truyền giác ngộ cách mạng, hiểu rõ nguồn gốc sự cực khổ của người nghèo và người dân mất nước, bà đã hăng hái tham gia vào đội du kích ở địa phương.
Ngoài việc rải truyền đơn, thành lập và mở rộng phạm vi hoạt động, bà Chiên cùng với các chị em trong đội du kích còn được làm quen với các loại vũ khí, từ dao, kiếm đến súng, đạn, lựu đạn, mìn… để cùng với bộ đội tham gia phá hủy các đồn bốt của địch.
Thời điểm lúc bấy giờ, chính quyền về tay nhân dân chưa được bao lâu thì Chính phủ đã kêu gọi toàn quốc kháng chiến, thực hiện phương châm “Toàn dân là chiến sĩ, mỗi làng là một pháo đài”, Xã đội Tán Thuật đã tích cực luyện quân, rèn cán, cùng bà con đẩy mạnh sản xuất, dự trữ lúa gạo để xây dựng làng kháng chiến.
Mùa xuân năm 1950, quân Pháp tái chiếm Thái Bình và thiết lập một hệ thống đồn bốt dày đặc. Chúng tiến hành đàn áp và mua chuộc, ép buộc nhân dân “lập Tề” hòng tạo ra một vành đai vững chắc làm bàn đạp cho chúng tiến công sang các địa phương khác.
Đội nữ du kích Tán Thuật sau khi thành lập đã hoạt động không biết mệt mỏi. Những cán bộ, đảng viên bám đất, bám dân phải ẩn nấp ngoài đồng ruộng, trong hầm kín, sinh hoạt trong điều kiện vô cùng thiếu thốn, hiểm nguy.
Vậy mà, cô thanh nữ Nguyễn Thị Chiên vốn chỉ quen tay cấy, tay cày đã “thắp lửa” cho đồng đội mình, giúp chị em vững tin, dũng cảm bước tiếp dưới cờ Đảng, dưới khát vọng giành độc lập, tự do cho dân tộc. Chứng kiến cảnh giặc Pháp tàn sát đồng bào, nhiều chị em trong Đội du kích đều thề sẽ đánh giặc đến khi nào giải phóng mới nghĩ đến chuyện chồng con...
Chỉ trong một thời gian ngắn, bà Chiên được đồng đội tín nhiệm bầu làm Trung đội trưởng Đội nữ du kích xã Tán Thuật (Kiến Xương, Thái Bình). Dưới sự chỉ huy của bà, Đội nữ du kích liên tiếp lập chiến công, gây tiếng vang rất lớn. Bằng sự gan dạ, sáng tạo, cá nhân bà Chiên trở thành du kích cừ khôi mà tiếng tăm không chỉ gói gọn trong huyện, trong tỉnh.
Bắt đầu từ bấy giờ, bà Chiên “lọt vào tầm ngắm” của địch. Chúng xua quân đi lùng sùng, quyết bắt bà cho bằng được. Tháng 4/1950, trong một lần đưa cán bộ về hoạt động tại xã, bà Chiên không may bị địch bắt tại làng Rặng Thông (Cầu Trục, Kiến Xương).
Hơn ba tháng giam cầm trong lao tù, bị đánh đập, tra tấn bằng đủ mọi cách, nhưng địch không moi được gì ở bà Chiên. Không đủ chứng cứ để kết tội bà làm du kích, cuối cùng giặc phải thả bà ra.
Bác Hồ viết bài khen ngợi, biểu dương
Sau khi được tự do, bà Chiên tiếp tục lãnh đạo, chỉ huy Đội nữ du kích đã tổ chức hơn 40 trận đánh, quấy rối nổi tiếng, diệt và bắt sống nhiều tên địch...
Tiêu biểu như vào tháng 10/1951, Đội du kích xã Tán Thuật đã phối hợp với Đại đội 44, Tiểu đoàn 680, Đại đoàn 320 tiêu diệt lính Âu Phi trên đường 39. Trong trận này, trực tiếp bà chỉ huy bắn bị thương 1 tên địch, bắt sống 6 tên và thu giữ 4 khẩu súng. Tháng 12/1951, khi quân Pháp lùng sục vào làng, lợi dụng lúc địch chủ quan, bà chỉ huy trung đội bất ngờ xông ra bắt sống 4 tên, trong đó có 01 tên quan hai và 3 lính Pháp.
Đầu năm 1952, Trung đội du kích của bà Chiên được giao nhiệm vụ đánh vào một bốt An Bồi. Với vai trò quân báo, thương binh và thu dọn chiến trường, bà cùng Trung đội du kích đã phối hợp với bộ đội địa phương tiêu diệt địch, hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Trận này ta bắt sống 52 tên, g.i.ết 3 tên, bắn bị thương 7 tên, thu được 01 mooc-chi-ê, 02 trung liên, 3 tiểu liên, nhiều súng trường, đạn dược, quân trang, quân dụng. Kết thúc trận đánh, bà Chiên được Ban Chỉ huy khen thưởng vì đã chiến đấu gan dạ, bình tĩnh, đưa được thương binh ra ngoài trong khi địch bắn rát, đã khám phá được kho súng đạn của địch.
Năm 1952, bà Chiên vinh dự là đại biểu nữ du kích duy nhất được chọn đi báo cáo điển hình tại Đại hội Anh hùng Chiến sĩ thi đua Toàn quốc lần thứ nhất tổ chức tại Việt Bắc (01/5/1952). Với những đóng góp của mình, nữ du kích quê Thái Bình vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Năm ấy bà mới 22 tuổi.
Cũng tại Đại hội, bà Chiên đã được gặp Bác Hồ, được Bác tặng thưởng khẩu súng ngắn và đặc biệt được chính Người viết bài ca ngợi, tuyên truyền tấm gương gan dạ, dũng cảm và thành tích trong chiến đấu.
Trên báo Nhân dân số 60 ra ngày 5/6/1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có bài viết Người cán bộ cách mạng dưới bút danh CB, trong đó có đoạn viết: “Nữ Trung đội trưởng du kích Nguyễn Thị Chiên là một cố nông, 22 tuổi, vào đội du kích từ 1946. Vùng chị Chiên thường bị giặc càn quét. Cơ sở tan rã. Nhân dân hoang mang. Chị cứ bám sát lấy dân, lập lại cơ sở chính quyền và đoàn thể, tổ chức một trung đội nữ du kích chống càn quét, bảo vệ làng.
Bị bắt, bị tra tấn suốt 3 tháng, bị đưa ra bắn dọa 3 lần, chị vẫn bình tĩnh, không khai nửa lời. Vừa thoát được về, tuy mình đầy vết thương, chân đau không đi được, chị vẫn hoạt động lại ngay. Trong đợt thi đua từ ngày 19/5 đến 19/12/1951, chị đã thắng 10 trận, tự tay tước được 15 súng và bắt sống 12 tên giặc (01 tên quan hai Pháp).
Trong các trận, chị không hề bỏ sót một người thương binh nào. Trong vụ thuế nông nghiệp, chị đã thức 30 đêm liền, tuyên truyền giải thích từng nhà, từng người. Nhiều người lạc hậu, thấy chị chân thành, đều cảm động và trở nên hăng hái. Khi bắt được tên Đồn trưởng (nó đã giết người anh của chị), chị giải thích chính sách khoan hồng của Chính phủ, rồi thả nó. Vì vậy, nó đã gọi nhiều ngụy binh ra hàng.
Chị Chiên vì yêu nước, căm thù giặc, trung thành với đoàn thể, kiên quyết bám sát dân, luôn thương yêu đồng đội, nắm vững và ra sức thi hành chính sách nên đã lập được công to, rất xứng đáng là Anh hùng Quân đội”.
Ấm áp, bình dị giữa đời thường
Sau Đại hội, Anh hùng Nguyễn Thị Chiên được cử tham gia đoàn đại biểu đi dự Đại hội Hòa bình châu Á - Thái Bình Dương tại Bắc Kinh (Trung Quốc), Đại hội Hòa bình Thế giới tại Viên (Áo) do đồng chí Xuân Thủy làm Trưởng đoàn.
Năm 1953, bà Chiên về công tác tại Tổng cục Chính trị và Quân khu Thủ đô. Với kinh nghiệm tổ chức và triển khai lực lượng du kích địa phương bà đã được giao nhiệm vụ phụ trách và quản lý dân quân 4 huyện ngoại thành của thành phố Hà Nội.
Nhưng do điều kiện sức khỏe suy giảm vì những vết thương cũ liên tục tái phát và hoàn cảnh gia đình, ít lâu sau bà Chiên phải xin được nghỉ chế độ với quân hàm Trung tá, trở về với cuộc sống bình dị tại một ngôi nhà nhỏ ở phường Ngọc Thụy, quận Long Biên, Hà Nội.
Mặc dù nghỉ chế độ, nhưng bà vẫn tích cực tham gia các hoạt động xã hội như tham gia Ban Chấp hành Hội Cựu chiến binh Việt Nam, tham gia hội phụ nữ phường cùng các phong trào của tổ dân phố.
Tuy cuộc sống thời hậu chiến còn nhiều khó khăn, song bà Chiên luôn giữ tâm thế lạc quan, yêu đời. Bởi theo bà, biết bao đồng bào, đồng chí đã hy sinh trong thầm lặng. Thậm chí có những người ngã xuống trước thời khắc lịch sử của dân tộc có vài tiếng đồng hồ. Thế nên đối với bà, việc còn sống, được chứng kiến cảnh đất nước thống nhất, Bắc – Nam sum họp một nhà và được hưởng niềm vui hòa bình là hạnh phúc lắm rồi. Và quan niệm “còn sống, còn làm việc là người có ích cho xã hội” đã theo bà Chiên đến tận lúc cuối đời (bà mất năm 2016).
Gan dạ, dũng cảm trước quân thù, ấm áp, bình dị giữa đời thường. Đó là lời nhận xét, đánh giá của nhiều đồng đội, đồng chí về nữ Anh hùng Nguyễn Thị Chiên. Giờ, bà không chỉ là niềm tự hào riêng của người dân quê lúa Thái Bình, mà còn là tấm gương tiêu biểu về người phụ nữ Việt Nam với những phẩm chất cao quý mà Bác Hồ đã trao tặng “Anh hùng - Bất khuất - Trung hậu - Đảm đang”.
Báo Công lý

Phản bác quan điểm sai trái, bịa đặt Việt Nam đứng về bên này chống bên kia xung quanh xung đột quân sự Nga – Ucraina.

 


                                                                     

Chiến dịch quân sự đặc biệt do Nga triển khai tại Ucraina cùng với sự can dự của Mỹ và phương Tây kéo dài và chưa có dấu hiệu kết thúc. Cuộc xung đột này đã gây xáo trộn trật tự thế giới trong quan hệ giữa các nước, các tổ chức và các định chế quốc tế. Quan điểm, lập tường và thái độ của Việt Nam về vấn đề xung đột quân sự Nga – Ucraina được đưa ra từ khi khởi phát cuộc xung đột này đến nay là nhất quán, khách quan, trách nhiệm và công bằng.

ĐIỆN BIÊN PHỦ - "56 NGÀY ĐÊM LỪNG LẪY NĂM CHÂU CHẤN ĐỘNG ĐỊA CẦU"

 Chiến thắng Điện Biên Phủ đi vào lịch sử của dân tộc Việt Nam như một Bạch Đằng, một Chi Lăng, hay một Đống Đa trong thế kỷ 20 và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa kiểu cũ của chủ nghĩa đế quốc.

Theo đánh giá của tướng H.Navarre và các nhà quân sự Pháp-Mỹ thì “Điện Biên Phủ là một vị trí chiến lược quan trọng đối với chiến trường Đông Dương và cả miền Đông Nam Á, nằm trên trục giao thông nối liền các miền biên giới của Lào, Thái Lan, Miến Điện (Myanmar) và Trung Quốc. Từ Điện Biên Phủ, quân Pháp có thể bảo vệ được Lào, rồi từ đó đánh chiếm lại các vùng đã mất ở Tây Bắc trong những năm 1952-1953 và tạo điều kiện thuận lợi để tiêu diệt các sư đoàn chủ lực của Việt Nam”. Đánh giá Điện Biên Phủ là một vị trí chiến lược quan trọng bậc nhất ở Đông Dương, nên sau khi đánh chiếm Điện Biên Phủ vào ngày 20/11/1953, quân Pháp không ngừng tăng thêm binh lực, vũ khí, trang thiết bị quân sự, xây thêm nhiều công sự, đồn lũy và các loại vật tư khác. Được sự giúp đỡ của Mỹ về cố vấn, trang bị kỹ thuật, kinh tế, Pháp đã xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm quân sự mạnh nhất Đông Dương.
Tính đến tháng 3/1954, tại Điện Biên Phủ đã có 12 tiểu đoàn và bảy đại đội bộ binh, ba tiểu đoàn pháo binh, một đại đội xe tăng, một phi đội máy bay thường trực (14 chiếc). Sau này trong quá trình chiến dịch, quân Pháp tăng viện thêm bốn tiểu đoàn, hai đại đội lính dù, tổng cộng có 17 tiểu đoàn, phần lớn đều là lính tinh nhuệ. Ngoài ra còn có các quân chủng pháo binh, công binh, thiết giáp, phân đội hỏa pháo. Tổng số quân tăng lên hơn 16.000 người và 300 máy bay vận tải tiếp tế, có sự chi viện của không quân Mỹ.
Tại Hội nghị phổ biến nhiệm vụ quân sự và kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954 diễn ra cùng thời điểm quân Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, Tổng Tư lệnh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho rằng, “địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ là để che chở cho Lai Châu và Thượng Lào bị uy hiếp. Như vậy là bị động phân tán lực lượng để đối phó với ta. Vô luận rồi đây, địch tình thay đổi thế nào, địch nhảy dù xuống Điện Biên Phủ căn bản là có lợi cho ta."
Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ với bí danh Trần Đình, nhất trí thông qua phương án tác chiến của Tổng Quân ủy. Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Hoàng Văn Thái - Tham mưu trưởng, Lê Liêm - Chủ nhiệm Chính trị, Đặng Kim Giang - Chủ nhiệm Cung cấp.
Với những nỗ lực cao nhất, Việt Nam đã dồn hết sức người, sức của cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Nhiều tầng lớp nhân dân hăng hái lên đường tham gia chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ như công nhân, nông dân, trí thức, văn nghệ sỹ… Và đã có biết bao tấm gương hy sinh trên đường ra trận, nhiều anh hùng quên mình xả thân cho cuộc kháng chiến. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, đỉnh cao của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã khẳng định đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ tự lực cánh sinh, đã phát huy cao độ truyền thống yêu nước, ý chí chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.
Đầu tháng 3/1954, thời gian chuẩn bị mọi mặt cho cuộc tiến công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ với phương châm “đánh chắc, tiến chắc” đã hoàn thành. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ có tất cả 49 cứ điểm, được chia làm ba phân khu. Trên chiến trường, ta mở ba đợt tiến công vào Điện Biên Phủ.
Đợt một của chiến dịch Điện Biên Phủ mở màn ngày 13/3/1954, với trận tiêu diệt cụm cứ điểm Him Lam thuộc vòng ngoài Phân khu Bắc của tập đoàn cứ điểm. Đợt hai diễn ra ngày 30/3/1954, đánh vào phân khu trung tâm. Đợt ba chiến dịch diễn ra ngày 1/5 và kết thúc ngày 7/5/1954, đánh chiếm các cứ điểm phía Đông và tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Sau 56 ngày đêm chiến đấu, hy sinh, gian khổ, quân và dân Việt Nam đã tiêu diệt toàn bộ Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, buộc thực dân Pháp phải ngồi vào bàn Hội nghị cùng ký Hiệp định Geneva chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược (1945-1954) ở Đông Dương, miền Bắc Việt Nam được hoàn toàn giải phóng. Hiệp định Geneva đã tạo được cục diện mới, tạo tiền đề và cơ sở pháp lý rất quan trọng để dân tộc Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).
Những cột mốc đáng nhớ trong chiến dịch Điện Biên Phủ
20/11/1953, Pháp cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, manh nha ý định xây dựng căn cứ quân sự ở đây và ngăn chặn quân chủ lực Việt Nam chiếm đóng Tây Bắc.
03/12/1953, Navarre chính thức quyết định xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ sau khi nghiên cứu, xem xét và cân nhắc những điều kiện thuận lợi tại thung lũng lòng chảo phía Tây Bắc Việt Nam. Quyết định này đưa tới sự ra đời của tập đoàn cứ điểm “chưa từng thấy” ở Đông Dương với 49 cứ điểm mạnh mẽ, được đầu tư viện trợ tối đa và binh lực và hỏa lực và sự dẫn dắt, chỉ huy của Đại tá De Castries.
06/12/1953, Bộ Chính trị quyết định chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược trong Đông - Xuân 1953 - 1954 của ta với Thực dân Pháp, đồng thời cử Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Bí thư kiêm Tổng tư lệnh mặt trận.
26/01/1954, Tổng tư lệnh mặt trận, Đại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định chuyển phương châm tác chiến từ “Đánh nhanh, thắng nhanh” sang “Đánh chắc, tiến chắc”.
31/01/1954, Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ chuyển vị trí đóng quân đến khu rừng Mường Phăng trên đại điểm xã Mường Phăng, huyện Điện Biên cách Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ khoảng 40km đường bộ và khoảng hơn 15km đường chim bay.
13/3/1954, Sau khi chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt, ta chính thức mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ tại Trung tâm đề kháng Him Lam, một trong những cụm cứ điểm mạnh nhất của Pháp nằm phía Đông Bắc Tập đoàn cứ điểm.
31/3/1954, Đợt tấn công thứ hai vào Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, nhiệm vụ tập trung vào dãy cao điểm phía Đông, khu sân bay Mường Thanh, thừa cơ tiến vào khu trung tâm, nơi có Sở chỉ huy của De Castries.
01/5/1954, Đợt tấn công cuối cùng nhằm kết thúc số phận của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được tiến hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất là tiêu diệt nốt A1 và C2, thừa cơ tiến hành tổng công kích.
06/5/1954, vào lúc 20 giờ 30 phút, khối bộc phá 960kg nổ trên Đồi A1 báo hiệu ngày tàn của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
07/5/1954, sau khi mở được chiếc chìa khóa cuối cùng A1, quân ta từ các hướng tiến thẳng vào hầm chỉ huy của De Castries. Không có sự kháng cự, De Castries cùng Bộ chỉ huy quân Pháp và sau đó là toàn bộ quân đồn trú từ các hầm trú ẩn và các cứ điểm ra hàng.
21/7/1954, Hiệp định Gionever được ký kết, Pháp và các nước tham gia công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, rút quân khỏi Đông Dương.
St

NHẬN DIỆN, CẢNH GIÁC VỚI THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG TRÍ TUỆ NHÂN TẠO (AI) ĐỂ CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG VIỆT NAM!

 


Sự ra đời và tự hoàn thiện.

Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence - AI) được hiểu là sản phẩm khoa học, mô phỏng các quá trình trí tuệ của con người bằng máy móc, đặc biệt là các hệ thống máy tính. Các quy trình này bao gồm học tập, hệ thống lý luận và tự điều chỉnh. Hiện nay, có thể phân chia thành 4 cấp độ “người” của AI đó là: Công nghệ AI phản ứng, tiêu biểu như chương trình tự động chơi cờ vua của IBM, nó đã đánh bại kì thủ cờ vua thế giới Garry Kasparov vào năm 1997. Tiếp theo là công nghệ AI với bộ nhớ hạn chế, có thể đưa ra các quyết định, tiêu biểu là các thiết bị không người lái như: xe, máy bay không người lái hoặc tàu ngầm. Phát triển hơn nữa là công nghệ lý thuyết trí tuệ nhân tạo, có thể học hỏi cũng như tự suy nghĩ, hình thành một sản phẩm mới. Hiện nay là công nghệ tự nhận thức, có ý thức về bản thân và hành xử như con người. Tiêu biểu như robot Sophia - robot trí tuệ nhân tạo đầu tiên được cấp quyền công dân trên thế giới năm 2015.

THI ĐUA THỰC CHẤT, CỔ VŨ KỊP THỜI

 Trong những năm qua, Phong trào Thi đua Quyết thắng của lực lượng vũ trang (LLVT) tỉnh Thanh Hóa, thực sự là động lực tinh thần to lớn để từng cơ quan, đơn vị phấn đấu vươn lên hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Trong quá trình thực hiện, cấp ủy Đảng, Hội đồng thi đua khen thưởng các cấp LLVT Thanh Hóa hết sức coi trọng yếu tố thi đua thực chất, cổ vũ kịp thời, hướng vào giải quyết, khắc phục các khâu yếu, việc khó góp phần xây dựng thế trận quân sự, quốc phòng địa phương ngày càng vững mạnh và tạo ra sự đồng đều giữa các cơ quan, đơn vị trong toàn tỉnh.
Đại tá Lê Văn Trung, Chính ủy, Chủ tịch Hội đồng thi đua khen thưởng (TĐKT) Bộ CHQS Thanh Hóa cho biết: “Đảng ủy, Bộ CHQS tỉnh luôn xác định, duy trì và thực hiện tốt Phong trào Thi đua Quyết thắng (PTTĐQT) chính là yếu tố quyết định đến việc hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Do vậy, để PTTĐQT đạt hiệu quả cao nhất, Đảng ủy, Bộ CHQS tỉnh thường xuyên làm tốt công tác giáo dục ý thức trách nhiệm, xây dựng động cơ, quyết tâm phấn đấu đến mọi cán bộ, chiến sĩ. Chỉ đạo các cơ quan, đơn vị gắn PTTĐQT với tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện và các cuộc vận động lớn, trọng tâm là đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, Hội đồng TĐKT và trên cơ sở, mục tiêu phong trào thi đua Bộ CHQS tỉnh phát động các cơ quan, đơn vị luôn bám sát tình hình nhiệm vụ để duy trì PTTĐQT sao cho đạt hiệu quả cao nhất, trong đó chú trọng yếu tố thi đua thực chất, cổ vũ kịp thời. Từ đó, đã tạo động lực thi đua vượt khó vươn lên hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Chính nhờ nhận thức rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của PTTĐQT đối với việc thực hiện các nhiệm vụ nên những năm qua Đảng ủy, Bộ CHQS Thanh Hóa luôn coi trọng và duy trì có hiệu quả công tác TĐKT. Cùng với việc chú trọng xây dựng các điển hình tiên tiến, mô hình điểm để nhân rộng điển hình, Hội đồng TĐKT các cấp luôn hướng PTTĐQT vào việc khắc phục khâu yếu, điểm yếu và giải quyết việc khó.
Vì thế, trong các nhiệm vụ quan trọng như công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền về thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng địa phương; tuyển quân; diễn tập khu vực phòng thủ... đều hoàn thành tốt có nhiệm vụ hoàn thành xuất sắc. Ngoài các đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ thì một số cơ quan, đơn vị có mặt còn hạn chế nhờ thực hiện PTTĐQT đã kịp thời khắc phục khâu yếu, điểm yếu để vươn lên.
Một số cơ quan, đơn vị những năm trước đây chất lượng công tác chuyên môn, ý thức chấp hành kỷ luật, chế độ xây dựng nền nếp chính quy ở một số cán bộ, chiến sĩ còn hạn chế, nhưng nhờ, phát huy hiệu quả PTTĐQT vào khắc phục khâu yếu, điểm yếu nay đã vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ. Ngoài việc cho từng cá nhân đăng ký quyết tâm thi đua thì Hội đồng TĐKT, Đảng ủy, chỉ huy các đơn vị thường xuyên kiểm tra, chấn chỉnh việc duy trì thực hiện nền nếp chế độ của từng bộ phận và gắn với công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao tinh thần, ý thức trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ.
Nhờ vậy, các yếu điểm trên dần được khắc phục tạo ra sự đồng đều giữa các cơ quan, đơn vị. Bằng những cách làm hiệu quả như chọn một số xã làm điểm trên các mặt công tác để nhân rộng mô hình và khắc phục khâu yếu, lựa chọn cán bộ có trình độ, năng lực, kinh nghiệm để phân công giúp những xã yếu... Đối với các địa phương như LLVT huyện Quảng Xương, thị xã Nghi Sơn... qua thực hiện PTTĐQT không chỉ giữ vững thành tích đơn vị dẫn đầu mà chất lượng thực hiện các nhiệm vụ ngày càng đi vào chiều sâu vững chắc và được nâng lên rõ rệt.
Theo Đại tá Nguyễn Xuân Toàn, Chủ nhiệm Chính trị Bộ CHQS Thanh Hóa, nhờ xác định đúng trọng tâm, trọng điểm trong thực hiện PTTĐQT đối với từng cơ quan, đơn vị và quá trình thực hiện luôn coi trọng yếu tố thi đua thực chất, cổ vũ kịp thời nên đã góp phần vào thành tích chung của LLVT tỉnh. Điều đó được minh chứng bằng kết quả thực hiện các nhiệm vụ của LLVT Thanh Hóa trong những năm qua và nhiều năm liền được các cấp khen thưởng. Trong đó, năm 2021, Bộ CHQS tỉnh được Chính phủ tặng Cờ xuất sắc trong PTTĐQT, năm 2022 được Bộ Quốc phòng tặng Cờ đơn vị dẫn đầu PTTĐQT./.
Báo QĐND

LỜI BÁC DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA: NGÀY 04 THÁNG 5 NĂM 1957!

         “Công trạng của cá nhân chủ yếu là nhờ tập thể mà có. Vì vậy người có công trạng không nên tự kiêu mà cần khiêm tốn”!
     Là lời căn dặn của Chủ tịch trong bài nói chuyện tại lớp chỉnh huấn cán bộ trung, cao cấp Bộ Quốc phòng và các lớp trung cấp của các tổng cục vào tháng 5 năm 1957.
     Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc, rèn luyện đội ngũ cán bộ của Đảng nói chung, cán bộ quân đội nói riêng về “đức” và “tài”; trong đó, Bác luôn lấy “đức” làm gốc và đề cao đức tính khiêm tốn. Bởi khiêm tốn là một trong những đức tính quan trọng nhất của con người. Người khiêm tốn luôn là người biết mình, hiểu người, không tự mình đề cao vai trò, ca tụng chiến công, thành tích của cá nhân, cũng không bao giờ chấp nhận một tinh thần chủ bại mang nhiều mặc cảm của cuộc đời đối với mọi người. Khiêm tốn sẽ giúp mỗi người có được sự tỉnh táo, để nhận thức chân lý một cách đúng đắn, khách quan; đồng thời nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của mọi người. Khiêm tốn luôn là một đức tính tốt mà mỗi người cần trau dồi, rèn luyện, đặc biệt đối với người cán bộ, đảng viên, những người lập được thành tích, công trạng lớn.
     Học tập và làm theo lời Bác dạy, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta luôn đề cao và thực hành đức tính khiêm tốn trong sinh hoạt, học tập, công tác và chiến đấu, trở thành một nét đẹp văn hóa ẩn sâu trong nhân cách người quân nhân cách mạng, trở thành lời thề danh dự “...thắng không kiêu, bại không nản” được nhân dân luôn tin tưởng, yêu mến, dành tặng cho danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”.
     Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” cán bộ, chiến sĩ toàn quân nêu cao tinh thần, trách nhiệm, thi đua “rèn đức, luyện tài”, tích cực “tự soi, tự sửa”, “Làm việc theo chức trách, nêu gương trong hành động”, đoàn kết tốt, khiêm tốn, học hỏi, phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đối với đội ngũ cán bộ chủ trì, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị học và làm theo Bác luôn gương mẫu, đi đầu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, đề cao tính khiêm tốn, học hỏi, rèn luyện tác phong lãnh đạo, chỉ huy dân chủ, quần chúng, luôn tôn trọng và chân thành lắng nghe, tiếp thu sự phê bình từ cấp dưới và quần chúng. Kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện tự kiêu, tự đại, độc tôn chân-lý, cửa quyền, hách dịch, thờ ơ, vô cảm...
Môi trường ST.

CÓ THỂ BẠN CHƯA BIẾT: Ý NGHĨA LÁ CỜ GIẢI PHÓNG"!

     Từ thắng lợi to lớn của cuộc Đồng khởi, yêu cầu phải tập hợp, đoàn kết rộng rãi hơn nữa các tầng lớp nhân dân miền Nam trong cuộc đấu tranh nhằm chấm dứt ách thống trị của đế quốc Mỹ, lật đổ bộ máy chính quyền Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đồng thời thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 20/12/1960, tại vùng giải phóng Tây Ninh, đại biểu các giai cấp, dân tộc, tôn giáo và các đảng phái đã họp Đại hội và quyết định thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, một trí thức yêu nước nổi tiếng ở Sài Gòn, được bầu làm Chủ tịch Mặt trận.

Mặt trận chọn hiệu kỳ: Hình chữ nhật, nửa đỏ, nửa xanh dương và có ngôi sao vàng ở giữa. 

Cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (Cờ giải phóng) được sử dụng từ năm 1960 đến năm 1975. Đây là lá cờ lấy khuôn mẫu của quốc kỳ Việt Nam dân chủ cộng hòa, và chia một nửa màu đỏ để thay bằng màu xanh. Lá cờ có hình ngôi sao vàng trên nền cờ đỏ và xanh dương. Nửa phần trên đại diện cho miền Bắc đã độc lập. Nửa màu xanh dương tượng trưng cho miền Nam còn trong vòng kềm kẹp của Mỹ và chế độ Sài Gòn, song miền Nam đấu tranh cho khát vọng hòa bình, thống nhất (màu xanh hòa bình)./.
Yêu nước ST.

Giọng điệu lạc lõng của Zận “dân chủ” Phạm Chí Thành

       Những ngày gần đây Zận “dân chủ” Phạm Chí Thành đã cho tán phát bài viết: “Hồ Chí Minh có thực là người tài, đức” trên trang “Thongluan-rdp”. Với lối suy diễn thô bỉ, trơ trẽn y đã xuyên tạc, phủ nhận cuộc đời, sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhằm phục vụ cho những mưu đồ nhơ bẩn của đám “dân chủ” chuyên nghề “quỳ gối, liếm gót” ngoại bang để mưu sinh. Để đạt mục đích nhơ bẩn, Phạm Chí Thành đã dùng lời lẽ, lập luận, bóp méo thông tin, xuyên tạc trắng trợn rằng “Hồ Chí Minh không phải là người có tài và càng không phải là người có đức”. Tuy nhiên, đó chỉ là suy nghĩ và hành động của những kẻ vô ơn, bạc nghĩa. Bởi, những luận cứ khoa học và thực tiễn sinh động của lịch sử dân tộc đã chứng minh và khẳng định rằng: Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sang ngời về trí tuệ uyên bác, đạo đức cách mạng trong sáng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thông qua kế hoạch 
tác chiến Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954
(Ảnh: nhanvanviet.com)

Nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế đều ca ngợi cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bản anh hùng ca, một tấm gương sáng ngời về trí tuệ uyên bác, đạo đức cách mạng trong sáng. Đối với dân tộc ta, với cách mạng Việt Nam trong thế kỷ 20, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ tìm ra con đường giải phóng dân tộc, người cầm lái vĩ đại, chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua bao thác ghềnh, mà còn là kiến trúc sư thiên tài, kiến tạo chế độ xã hội, Nhà nước và Quân đội ta theo những tiêu chí của một xã hội văn minh. Điều này được minh chứng bằng lịch sử cách mạng Việt Nam. Mỗi thắng lợi và mỗi bước đi lên của cách mạng Việt Nam đều gắn liền với công lao to lớn của Người. Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ðảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng nước ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Ðó là thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945), lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước do dân làm chủ đầu tiên trong lịch sử dân tộc; thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước, đưa cả nước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Không chỉ là một thiên tài trí tuệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là một tấm gương sáng ngời, mẫu mực về đạo đức cách mạng: tranh đấu quên mình, hy sinh cả cuộc sống riêng tư vì sự nghiệp; cả cuộc đời và sự nghiệp của Người tất cả vì dân, vì nước, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc. Chính vì lẽ đó tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh có sức lay động, cảm hóa muôn triệu đồng bào trong nước và thu hút sự ngưỡng mộ, kính trọng của bạn bè quốc tế. Tại Kỳ họp lần thứ 24 của UNESCO diễn ra từ ngày 20/10 đến ngày 20/11/1987 có một sự kiện làm nức lòng nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới, đó là UNESCO đã nhất trí vinh danh Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất”; đồng thời, ghi nhận: “Năm 1990 sẽ đánh dấu 100 năm kỷ niệm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”.

Sự thật trên đã nói lên tất cả: trí tuệ uyên bác, nhân cách đạo đức cao đẹp và sáng ngời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng thời, khẳng định: sự bịa đặt, xuyên tạc nhằm hạ thấp uy tín Chủ tịch Hồ Chí Minh của Phạm Chí Thành là hành động của kẻ vô ơn, bạc nghĩa - là giọng điệu lạc lõng của kẻ lạc loài./.

 

 NTTst

Không thể bẻ cong lịch sử, phủ mờ chân lý


Cứ vào dịp tháng Tư, các thế lực thù địch, lực lượng phản động sống lưu vong ở hải ngoại lại tung ra những luận điệu 

Đánh tráo bản chất

Trên một số diễn đàn, mạng xã hội, họ ngụy biện cuộc chiến tranh chống xâm lược, bảo vệ độc lập dân tộc của toàn dân ta là “cuộc nội chiến”, “huynh đệ tương tàn”, “nồi da nấu thịt”…; gọi ngày 30/4/1975 là “Ngày quốc hận” và tháng 4/1975 là “Tháng tư đen”, “Tháng tư buồn”… Một số đối tượng phản động lưu vong cố tình dựng lên màn kịch theo kiểu khóc thê lương như: “Sau ngày 30/4/1975, miền Nam Việt Nam đi vào khúc quanh lịch sử đau thương”; “một miền Nam bị bức tử, những giọt lệ chia ly từ đây”; vu cáo Đảng, Nhà nước phân biệt đối xử với người theo chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Một số hãng truyền thông hải ngoại thiếu thiện chí với Việt Nam như BBC, Đài Á châu tự do (RFA), VOA tiếng Việt… tổ chức các bài phỏng vấn, đối thoại với những thành phần chống đối, cung cấp thông tin sai trái, xuyên tạc để hướng lái dư luận, đánh tráo bản chất chiến thắng vĩ đại của dân tộc.

lich su.jpg -0
Kiều bào được tạo điều kiện ra thăm quần đảo Trường Sa, tháng 4/2023. Ảnh: Báo Tiền phong.

Họ ca ngợi chế độ dân chủ, tự do và kinh tế phát triển dưới thời chính quyền Sài Gòn; đòi vinh danh chế độ Việt Nam Cộng hòa, thậm chí đòi chia đôi lại đất nước giống như trước 1975! Một số mạng xã hội của những phần tử chống đối ở nước ngoài còn đưa ra yêu sách: “Nhà nước Việt Nam nên bỏ các tổ chức hoạt động kỷ niệm ngày chiến thắng 30/4”, ngụy biện rằng “bỏ ngày kỷ niệm chiến thắng 30/4 mới thúc đẩy hòa hợp dân tộc”!

Âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch không mới, các nội dung bài viết được cắt ghép, chỉnh sửa từ những năm trước, nay thay tiêu đề giật gân để tung lên các diễn đàn mạng xã hội. Mục đích nhằm xuyên tạc tính chất, tầm vóc, ý nghĩa và giá trị cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta; chối bỏ sự thật để hạ bệ uy tín của Đảng; đánh tráo bản chất cuộc chiến tranh chính nghĩa để phủ mờ những cống hiến, hi sinh của lực lượng vũ trang và nhân dân… Từ đó, xuyên tạc tính chính danh, chính nghĩa của cuộc chiến tranh vệ quốc; đòi từ bỏ lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH mà nhân dân Việt Nam đã lựa chọn và kiên trì xây dựng; bác bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chia rẽ Đảng với nhân dân, kích động hận thù, ly khai; phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân; giảm ý chí quyết tâm, đóng góp xây dựng đất nước của nhân dân, trong đó có đồng bào ta sống xa Tổ quốc; cố tình phủ nhận chính sách và nỗ lực hòa hợp dân tộc của Đảng, Nhà nước ta…

Đối tượng mà các thế lực thù địch hướng đến là những người sinh ra sau ngày 30/4/1975, đặc biệt là thế hệ thanh niên, người Việt Nam trẻ tuổi trong nước và học sinh, sinh viên, người lao động ở nước ngoài, kiều bào, người ít thông tin, có trình độ dân trí thấp vốn không phải trải qua những năm tháng chiến tranh đau thương, mất mát để có thể thấu hiểu ý nghĩa của độc lập, thống nhất và hòa bình.

Phải nhìn nhận đúng sự thật lịch sử

Ngược dòng lịch sử, Hiệp định Paris quy định quân đội Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ phải rút khỏi miền Nam Việt Nam nhưng Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã không chịu thi hành Hiệp định. Vì vậy, cách mạng miền Nam muốn tiến lên thì phải dùng chiến tranh cách mạng để xóa bỏ công cụ của chủ nghĩa thực dân mới. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 diễn ra, Quân Giải phóng miền Nam cũng đã cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất mọi thương vong, tổn thất cho cả hai phía. Mặc dù lúc đó, phía bên kia họ tuyên truyền rằng “một cuộc tắm máu, chết chóc sẽ diễn ra ở Sài Gòn” nhưng điều đó đã không xảy ra. Trong thời gian này, một số công chức làm việc cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa và người dân do bị bọn tay sai tuyên truyền cũng như một số lý do cá nhân đã rời bỏ đất nước, di tản, sinh sống ở nước ngoài.

Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, một số sĩ quan, binh sĩ làm trong quân đội và chính quyền Sài Gòn đã được trả về với gia đình sau khi được giáo dục, tuyên truyền với mong muốn họ thay đổi suy nghĩ, xóa bỏ những bất đồng, mặc cảm, có thể đóng góp cho công cuộc tái thiết đất nước. Một số người sau khi ra nước ngoài vẫn mang tâm trạng người thất trận, hiểu sai, hiểu chưa hết chính sách hòa hợp dân tộc nên có những hoạt động không phù hợp với tình hình thực tiễn. Trong số họ, có người hiểu nhầm về đất nước, không có thông tin chính thống về đất nước mà chỉ nghe người này, người kia loan tin thất thiệt để kích động chia rẽ.

Mặt khác, vẫn có một số người thể hiện rõ sự định kiến với chế độ, vẫn nuôi dưỡng tư tưởng hận thù dân tộc, chống phá đất nước. Mặc dù họ biết đất nước mình đã thay đổi, biết rõ tính nhân văn, nhân đạo trong chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam nhưng vẫn cố tình phớt lờ sự thật để xuyên tạc. Chính những người này đã và đang phá hoại chính sách hòa hợp dân tộc, truyền thống đại đoàn kết dân tộc Việt Nam.

Với tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, chiến thắng 30/4/1975 là trang sử hào hùng được làm nên bởi biết bao hi sinh xương máu của nhân dân ta. Đã có hơn 3 triệu đồng bào, chiến sĩ ngã xuống; nhiều ngôi mộ liệt sĩ không xác định được tên, hàng vạn hài cốt liệt sĩ vẫn đang nằm đâu đó trên mảnh đất quê hương và trên đất bạn mà chưa được tìm thấy. Nhiều làng mạc, thành phố bị phá hủy. Gần nửa thế kỷ trôi qua nhưng hậu quả của cuộc chiến còn nặng nề mà điển hình nhất là chất độc da cam/dioxin vẫn còn gieo rắc cho các thế hệ thứ 3, thứ 4 người Việt Nam; nhiều bom, mìn vẫn còn nằm sâu trong lòng đất. Chiến tranh đã lùi xa nhưng những mất mát của dân tộc Việt Nam phải gánh chịu là hết sức nặng nề.

Chính ông Nguyễn Cao Kỳ, người từng là Phó Tổng thống chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã từng chia sẻ: “Thống nhất xứ sở là nhiệm vụ lịch sử của mỗi người con Việt Nam nhưng chúng tôi đã không làm được. Những người anh em phía bên kia đã làm được, phải chấp nhận đó là lịch sử và đất nước đã được thống nhất rồi. Vậy mà còn quay ra nói phục quốc”. Sự thật này đã phơi bày bản chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh xâm lược, chiến tranh đã kết thúc vậy nhưng vẫn còn những định kiến làm cản trở sự phát triển của đất nước.

Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc

Kế thừa truyền thống nhân văn, nhân đạo, hòa hiếu của dân tộc, trên tinh thần “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”, Đảng và Nhà nước đã đề ra các chủ trương, chính sách hòa hợp, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. Theo đó, năm 2003, Hội nghị Trung ương 7 (khóa IX) của Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng như: Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/3/2003 (khóa IX) của Bộ Chính trị “Về công tác dân tộc”; Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị (khóa IX) “Về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài”; Chỉ thị 45-CT/TW ngày 19/05/2015 của Bộ Chính trị “Về tăng cường công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài”.

Chỉ thị 45 đã khẳng định “Đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung...; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai; xoá bỏ mặc cảm, định kiến; chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; mọi người Việt Nam, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc xuất thân, địa vị xã hội, lý do ra nước ngoài, mong muốn góp phần thực hiện mục tiêu trên đều được tập hợp trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Chỉ thị cũng nêu rõ: “Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam… Mọi người Việt Nam ở nước ngoài đều được khuyến khích, tạo điều kiện trở về thăm quê hương, đầu tư sản xuất kinh doanh, góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam”.

Ở trong nước hiện nay, đồng bào thuộc mọi thành phần xã hội, bao gồm cả những người từng làm việc trong chế độ Việt Nam Cộng hòa đều được đối xử bình đẳng, không hề bị phân biệt về quyền lợi và nghĩa vụ như bất kỳ công dân nào khác. Các lĩnh vực như xuất nhập cảnh, cư trú, hồi hương, quốc tịch, hộ tịch, về đầu tư kinh doanh; về quyền được mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam…,  kiều bào ngày càng được tạo điều kiện tham gia sâu hơn, rộng hơn.

Sau ngày thống nhất đất nước, nghĩa trang Biên Hòa với 16.000 ngôi mộ binh sĩ quân đội Việt Nam Cộng hòa được giao cho Quân khu 7 thuộc Bộ Quốc phòng quản lý. Tháng 11/2006, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 1568/QĐ - TTg về việc bàn giao đất khu vực nghĩa địa Bình An, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương thành Nghĩa trang nhân dân Bình An vào mục đích dân sự. Quyết định dân sự hóa nghĩa trang được dư luận đánh giá như một bước đi đầy ý nghĩa của công cuộc hòa giải, hòa hợp dân tộc.

Đối với một số nghệ sĩ tên tuổi cả ở miền Nam và miền Bắc từng một thời sang Mỹ sinh sống và nói xấu chế độ, sau một thời gian hồi tâm chuyển ý, muốn về quê hương sinh sống lâu dài đã được Nhà nước ta tạo điều kiện để phát huy tài năng nghệ thuật. Trong các hoạt động đối ngoại, thúc đẩy hợp tác với các quốc gia, vùng lãnh thổ, lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước ta thường xuyên gặp gỡ, lắng nghe những tâm tư, nguyện vọng, giải đáp những vướng mắc của kiều bào; đề nghị chính phủ các nước quan tâm, tạo điều kiện hỗ trợ cộng đồng người Việt ở sở tại. Trong chuyến thăm Hoa Kỳ tháng 5/2022, Thủ tướng Phạm Minh Chính giao Đại sứ quán Việt Nam tại Hoa Kỳ tiếp tục làm tốt công tác người Việt Nam ở nước ngoài, trong đó có công tác bảo hộ công dân, đề nghị công nhận cộng đồng người Việt Nam tại Hoa Kỳ là một dân tộc thiểu số của Hoa Kỳ.

Đối với những nơi mà kiều bào gặp hoạn nạn do thiên tai, dịch bệnh..., Đảng, Nhà nước luôn kề vai, sát cánh cùng kiều bào. Bộ Ngoại giao cho biết, năm 2021 dịch COVID - 19 leo thang nhưng với tinh thần “không để ai bị bỏ lại phía sau”, Nhà nước ta đã huy động cộng đồng doanh nghiệp và địa phương hỗ trợ vật tư y tế, tích cực trợ giúp đồng bào có hoàn cảnh khó khăn ở nước ngoài tại hơn 20 quốc gia và vùng lãnh thổ về nước.

Các hoạt động trên lĩnh vực văn hoá, giáo dục được chú trọng, nhất là bảo tồn tiếng mẹ đẻ. Thông qua đối ngoại Nhà nước, giao lưu nhân dân, tiếng Việt đã được công nhận và giảng dạy như ngoại ngữ thứ hai ở các trường phổ thông tại một số quốc gia và vùng lãnh thổ có đông người Việt.

Nguồn kiều hối hằng năm đều tăng trưởng tích cực bởi Việt Nam có môi trường đầu tư ngày càng tốt, nhiều chính sách hấp dẫn dành cho Việt kiều. Kiều bào ngày càng cảm nhận rõ sự thay đổi tích cực của môi trường kinh doanh trong nước cộng với sự ổn định của kinh tế vĩ mô là những yếu tố khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài chuyển tiền về cho người thân đầu tư trong nước. Lượng kiều hối tăng qua các năm, chứng minh tính đúng đắn, giá trị của các đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với kiều bào; đồng thời, cho thấy kiều bào ta luôn hướng về Tổ quốc trái hẳn với những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch./.

  • Không thể bẻ cong lịch sử

 Thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch chưa bao giờ từ bỏ việc lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo để can thiệp vào công việc nội bộ nước ta hòng phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị, cản trở quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Do đó, nhận diện và chủ động đấu tranh với hoạt động này có ý nghĩa rất quan trọng trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, tôn giáo là lĩnh vực nhạy cảm, dễ thu hút sự chú ý của dư luận trong nước và quốc tế. Đây cũng là lĩnh vực dễ bị lợi dụng vào các hoạt động gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội. Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo. Với chủ trương “tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo” của Đảng và Nhà nước Việt Nam, thời gian qua, tình hình tôn giáo ổn định, đời sống tôn giáo có những biến đổi sâu sắc cả về số lượng lẫn phạm vi hoạt động, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được tôn trọng, bảo đảm. Các tổ chức tôn giáo được công nhận xây dựng và thực hiện đường hướng hành đạo phù hợp với văn hóa truyền thống, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc. Cơ quan chức năng làm tốt công tác hướng dẫn, quản lý, từng bước đưa hoạt động tôn giáo đi vào nền nếp, đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Đến năm 2018, Việt Nam đã công nhận và cấp đăng ký hoạt động cho 43 tổ chức, thuộc 16 tôn giáo với trên 26 triệu tín đồ, 55.870 chức sắc, 145.561 chức việc, 29.396 cơ sở thờ tự. Các tổ chức tôn giáo và đại bộ phận chức sắc, chức việc, nhà tu hành hoạt động tôn giáo đúng quy định của pháp luật, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc(1).

Tuy nhiên, với tác động của tình hình quốc tế, mặt trái của toàn cầu hóa và cơ chế thị trường, âm mưu “chính trị hóa tôn giáo” của các thế lực thù địch đã làm cho đời sống tôn giáo bị tác động và không ngừng biến đổi, tiềm ẩn nhiều “nguy cơ”, nổi lên các vấn đề như: Lợi dụng hoạt động tôn giáo vi phạm pháp luật, thậm chí mang “màu sắc chính trị”; lợi dụng một số bất cập trong quản lý tôn giáo để xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; mâu thuẫn nội bộ, tranh giành chức quyền, hoạt động tôn giáo xa rời chuẩn mực đạo đức và văn hóa truyền thống dân tộc, trục lợi, sa sút đạo hạnh... trong một số tổ chức tôn giáo; xuất hiện một số loại hội, nhóm mang danh tôn giáo, đạo lạ.

Những vấn đề nêu trên không chỉ gây khó khăn cho công tác tôn giáo mà còn là nguyên nhân và điều kiện để các thế lực thù địch lợi dụng tiến hành các hoạt động gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội. Cụ thể là:

1- Lợi dụng tôn giáo để hoạt động chống Đảng và Nhà nước Việt Nam, gây mất ổn định chính trị - xã hội. Thời gian qua, lợi dụng tính nhạy cảm của vấn đề tôn giáo, một số phần tử cực đoan trong tôn giáo cấu kết với các tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí với Đảng và Nhà nước Việt Nam tổ chức các cuộc “hội luận”, “họp báo”, soạn thảo và tán phát các tài liệu có nội dung xuyên tạc, bịa đặt để tuyên truyền chống Đảng và Nhà nước Việt Nam, nhất là trên các lĩnh vực dân chủ và nhân quyền. Họ đẩy mạnh xuyên tạc Đảng và Nhà nước Việt Nam “đàn áp tôn giáo”, Việt Nam “không có tự do tôn giáo”. Họ cho rằng Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo (trước đây) và Luật Tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay là sự “đàn áp tôn giáo” bằng pháp luật của Nhà nước Việt Nam, không tạo điều kiện cho các tôn giáo phát triển; từ đó, khoét sâu mâu thuẫn giữa các tôn giáo với chính quyền các cấp. Đồng thời, móc nối, câu kết với một số tổ chức, cá nhân ở trong nước và nước ngoài thành lập hoặc tích cực tham gia các hội, nhóm trái pháp luật, mang danh nghĩa tôn giáo để tập hợp, phát triển lực lượng chống đốiMột số chức sắc cực đoan lợi dụng các vấn đề chính trị - xã hội phức tạp để kích động tín đồ xuống đường biểu tình, gây mất ổn định chính trị - xã hội. Điển hình như, lợi dụng sự cố môi trường ở các tỉnh miền Trung do Formosa gây ra, một số chức sắc cực đoan trong Công giáo thuộc Giáo phận Vinh đã tổ chức, kích động giáo dân tổ chức nhiều cuộc biểu tình, tuần hành dưới danh nghĩa “bảo vệ môi trường”, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự tại các địa phương, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân những người không theo tôn giáo, khiến cho mối quan hệ đoàn kết lương - giáo có nơi, có lúc bị rạn nứt nghiêm trọng.

Đáng chú ý, với lý do “bảo vệ tự do tôn giáo”, một số thế lực nước ngoài đã ban hành báo cáo, phúc trình, thậm chí là đạo luật, nghị quyết “lên án” tình hình bảo đảm quyền con người của Việt Nam, nhất là trên lĩnh vực tôn giáo, từ đó gây sức ép về ngoại giao, đồng thời gắn các vấn đề dân chủ và nhân quyền trên lĩnh vực tôn giáo với các vấn đề về viện trợ kinh tế, đầu tư phát triển, nhằm can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.

2- Lợi dụng các hoạt động tôn giáo vi phạm pháp luật để gây chia rẽ đoàn kết dân tộc, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Thời gian qua, tranh chấp, khiếu kiện, đòi/xin lại, mua bán, lấn chiếm, chuyển nhượng, hiến tặng đất đai trái pháp luật, xây dựng cơ sở sinh hoạt, thờ tự trái quy định liên quan đến tôn giáo có chiều hướng gia tăng về số vụ, việc. Lợi dụng đường lối, chính sách đổi mới, mở cửa và tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta, các tôn giáo đều gia tăng các hoạt động mở rộng cơ sở vật chất, dẫn đến phát sinh nhiều vụ tranh chấp, khiếu kiện đất đai liên quan đến tôn giáo. Đáng chú ý, số đối tượng cực đoan trong các tôn giáo cũng như các tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí với Nhà nước Việt Nam ở trong nước và nước ngoài đã triệt để lợi dụng các vụ tranh chấp, khiếu kiện về đất đai liên quan đến tôn giáo để kích động các hoạt động chống đối, gây tâm lý bức xúc và phản ứng của tín đồ đối với chính quyền; gây chia rẽ giữa chính quyền với tôn giáo. Nghiêm trọng hơn, họ còn cố tình chính trị hóa sự việc, xuyên tạc, vu cáo chính quyền “lấy đất đai của tôn giáo, bỏ quên quyền lợi nhân dân, bao che cho doanh nghiệp, tàn phá môi trường”, kích động tâm lý so bì, cho rằng Nhà nước đối xử không bình đẳng giữa các tôn giáo. Một số tổ chức, cá nhân tôn giáo không hợp tác với chính quyền trong việc kê khai, làm các thủ tục để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhằm lấn chiếm đất để mở rộng cơ sở thờ tự.

Bên cạnh hoạt động vi phạm pháp luật về đất đai, trong hoạt động tôn giáo cũng xảy ra các vụ, việc chưa tuân thủ các quy định của pháp luật, như thuyên chuyển, bổ nhiệm chức sắc, chức việc, nhà tu hành trong các tôn giáo; việc thành lập các cơ sở tôn giáo trực thuộc chưa được sự chấp thuận của chính quyền. Một số cơ sở đào tạo của tôn giáo chưa nghiêm túc triển khai môn học về lịch sử Việt Nam và pháp luật Việt Nam, là môn chính thức trong chương trình giảng dạy. Bên cạnh đó, vẫn tồn tại việc “đào tạo kép”, cụ thể là đào tạo chức sắc ở trong nước kết hợp với cử chức sắc ra nước ngoài đào tạo trái phép vẫn diễn ra ở một số tôn giáo.

Các hoạt động vi phạm nói trên luôn tiềm ẩn nguy cơ bị các thế lực xấu khai thác, lợi dụng để gây chia rẽ giữa tôn giáo với chính quyền, giữa người theo đạo và người không theo đạo, cũng như tiến hành các hoạt động chống phá, gây bất ổn chính trị - xã hội.

3- Thành lập các hội, nhóm mang danh tôn giáo, đạo lạ, gây mất đoàn kết dân tộc và đe dọa ổn định chính trị - xã hội. Lợi dụng vấn đề tôn giáo trong vùng đồng bào một số dân tộc thiểu số; sự sa sút tính chân truyền trong các tôn giáo đã được Nhà nước công nhận; điều kiện khó khăn về kinh tế, xã hội..., một số đối tượng đã thành lập các hội, nhóm mang danh nghĩa tôn giáo, hoạt động vi phạm pháp luật, gây mất đoàn kết dân tộc. Chẳng hạn, một số thế lực nước ngoài câu kết với số đối tượng xấu trong nước lập ra các tổ chức dưới danh nghĩa tôn giáo nhưng mang màu sắc chính trị, như cái gọi là “Tin Lành Đêga”, Hà Mòn ở khu vực Tây Nguyên, các tổ chức Tin Lành riêng của người Mông ở khu vực Tây Bắc và tổ chức “Liên đoàn Khmers Kampuchea Krom” (KKF) ở khu vực Tây Nam Bộ, để kích động các hoạt động ly khai, tự trị ở các vùng trọng điểm, chiến lược, ảnh hưởng nghiêm trọng tới khối đoàn kết toàn dân tộc và sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Trên thực tế, các hoạt động này là một trong những nguyên nhân dẫn đến những bất ổn về chính trị - xã hội ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, như sự kiện “Vương quốc Mông” diễn ra ở tỉnh Điện Biên vào tháng 5-2011; bạo loạn ở Tây Nguyên vào các năm 2001, 2004, 2008...

Bên cạnh đó, còn có nhiều loại hình mang danh tín ngưỡng, tôn giáo, hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện ở nhiều địa phương, xa rời văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, như không thờ cúng tổ tiên, gọi bố mẹ là anh, chị, em; khám, chữa bệnh bằng cầu cúng; tuyên truyền, hứa hẹn về tương lai tốt đẹp để mê muội quần chúng. Điển hình là các tổ chức “Hội thánh của Đức Chúa Trời Mẹ”, Pháp Luân Công, Dương Văn Mình, “Nhất quán đạo”, “Thanh Hải Vô Thượng Sư”... Hoạt động của các tổ chức này không chỉ gây mâu thuẫn trong quần chúng, ảnh hưởng tới khối đoàn kết toàn dân tộc, mà còn tạo ra những tác động tiêu cực tới sự ổn định chính trị - xã hội của đất nước, tạo cớ cho các thế lực thù địch xuyên tạc tình hình tôn giáo ở Việt Nam, vu cáo Việt Nam “không có tự do tôn giáo”.

4- Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo mê tín, trục lợi, làm lệch chuẩn văn hóa, đạo đức xã hội. Thời gian gần đây, tại một số cơ sở tôn giáo xuất hiện hiện tượng thương mại hóa hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, cụ thể là lợi dụng lòng tin của người dân để trục lợi, phát triển các hoạt động tâm linh mang màu sắc mê tín, như hoạt động dâng sao giải hạn, bói toán, xem quẻ, cúng oan gia trái chủ, chữa bệnh bằng tâm linh... Các tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí đã triệt để lợi dụng các vấn đề đó để công kích, bịa đặt, xuyên tạc, gây mất đoàn kết trong nội bộ một số tôn giáo, kích động tín đồ tạo phe phái để chống đối lẫn nhau, ly khai, thành lập tổ chức khác. Đây đều là các yếu tố tiềm ẩn nguy cơ đe dọa sự đoàn kết nội bộ các tôn giáo cũng như khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Hoạt động lợi dụng tôn giáo và vấn đề tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội là hoạt động hết sức nguy hiểm, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây chia rẽ giữa các tôn giáo, giữa tôn giáo với chính quyền, giữa quần chúng giáo dân và những người không theo tôn giáo, tạo ra những yếu tố phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ bùng nổ thành xung đột xã hội. Trên thực tế, đã xảy ra một số vụ mâu thuẫn, xung đột trong nội bộ nhân dân có liên quan tới tôn giáo do tác động bởi hoạt động nói trên. Sự ổn định chính trị - xã hội ở một số nơi, một số lúc đã bị ảnh hưởng. Do đó, chủ động phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả với hoạt động này có vai trò quan trọng trong toàn bộ công tác tôn giáo cũng như bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội ở Việt Nam.

Đấu tranh với những hoạt động lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước

 rong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, việc lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước ta hòng gây mất ổn định chính trị, xã hội là thủ đoạn thường xuyên được sử dụng. Vì vậy, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn thâm độc này là vấn đề cấp thiết hiện nay.

Qua thực tiễn có thể thấy, âm mưu này của các thế lực thù địch không mới; nói cách khác, nó đã từng được chúng sử dụng để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Câu hỏi đặt ra là, tại sao chúng triệt để sử dụng âm mưu này đối với Việt Nam? Có lẽ không khó để tìm lời giải.

Việt Nam là quốc gia đa sắc tộc, tôn giáo; đồng bào tôn giáo chiếm tỷ lệ khá cao trong cộng đồng người Việt Nam. Nếu tranh thủ lợi dụng được đông đảo đồng bào tôn giáo thì sẽ tạo hiệu ứng lớn trong việc chống phá của chúng. Đó là chưa đề cập đến các hệ quả khác liên quan. Tính chất thâm độc, nguy hiểm của âm mưu này là ở đây. Ở một khía cạnh khác, Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quyền công dân, quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo được quy định và đảm bảo bằng Hiến pháp, pháp luật. Cùng với việc trắng trợn can thiệp - “đấu tranh pháp lý”, chúng triệt để lợi dụng cụm từ “tự do” mà cố tình lờ đi “... trong khuôn khổ pháp luật” để tổ chức các hoạt động chống phá, hòng gây mất ổn định chính trị - xã hội, tiến tới loại trừ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Để thực hiện mưu đồ, các thế lực thù địch dùng mọi thủ đoạn nhằm tách tôn giáo ra khỏi sự quản lý của Nhà nước; hậu thuẫn về vật chất, tinh thần cho các đối tượng chống đối, đưa tôn giáo ở Việt Nam trở thành lực lượng chính trị “đối trọng” với Đảng. Chúng xác định lấy “tự do tôn giáo” làm “ngòi nổ” để chống phá Việt Nam; tuyệt đối hóa tính toàn cầu, tính phổ cập của các quyền trên lĩnh vực tôn giáo với luận điểm: “nhân quyền cao hơn chủ quyền”. Đồng thời cho rằng: “Việt Nam coi tôn giáo như là một công cụ tuyên truyền cho Đảng, Nhà nước, phục vụ các chính sách của Nhà nước trong phát triển kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc phòng”, v.v. Họ lợi dụng những vụ việc nảy sinh trong đời sống, sinh hoạt của đồng bào tôn giáo, hoạt động tôn giáo và những bất cập, sơ hở của các cấp chính quyền trong quản lý, tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo, nhất là những vấn đề liên quan đến giải tỏa, đền bù đất đai, cơ sở thờ tự,… để kích động quần chúng, tín đồ đập phá tài sản, chống người thi hành công vụ, phá rối an ninh, trật tự, cản trở giao thông tại các địa phương1. Qua đó, tổ chức ghi hình, chụp ảnh, thổi phồng, bóp méo tình hình thực tế, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, vu cáo Nhà nước ta vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp tôn giáo, v.v.

Các tổ chức phản động lưu vong còn móc nối với số đối tượng chống đối, bất mãn trong nước để thu thập tình hình dân tộc, tôn giáo ở Việt Nam rồi xuyên tạc, bóp méo sự thật và tán phát trên in-tơ-nét, nhằm hạ thấp uy tín Việt Nam trên trường quốc tế. Chúng lợi dụng các chính khách cực đoan trong quốc hội một số nước, như: Mỹ, Anh, Đức, Ca-na-đa,… và các tổ chức quốc tế, như: Human Right Watch (HRW), Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ (USCIRF) để tác động tổ chức này thông qua các báo cáo, nghị quyết, thông cáo, phúc trình có nội dung xuyên tạc, làm cho cộng đồng quốc tế hiểu sai về tình hình tôn giáo ở Việt Nam. Điển hình như: Báo cáo Tự do tôn giáo quốc tế hằng năm của Bộ Ngoại giao Mỹ; Báo cáo tình hình nhân quyền thế giới hằng năm của Anh, Úc; nghị quyết của nghị viện châu Âu, v.v. Hạ viện Mỹ hằng năm thông qua nhiều dự luật, nghị quyết về tình hình nhân quyền tại Việt Nam; trong đó, có vấn đề tôn giáo, như: Dự luật HR 1587 (năm 2004), HR 3096 (năm 2007), HR 1410 (năm 2012), HR 1897 (năm 2013), Nghị quyết H.Res.484, v.v. Đặc biệt, chúng tìm cách thông qua các chính khách cực đoan (L.SanChez, Z.Lofgren, C.Smith,…) để đề nghị Quốc hội Mỹ đưa Việt Nam trở lại danh sách “các nước cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo” (CPC), bất chấp việc thực tế tình hình tôn giáo ở Việt Nam không phải vậy.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị và văn bản pháp luật nhằm đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền con người trên các lĩnh vực; trong đó, có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Thực hiện những nghị quyết, chỉ thị đó, Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc về đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Chưa bao giờ các tôn giáo có điều kiện phát triển như hiện nay. Theo thống kê sơ bộ, tính đến đầu năm 2017, có 40 tổ chức tôn giáo thuộc 14 tôn giáo khác nhau được Nhà nước công nhận và cấp phép hoạt động với hơn 25 triệu tín đồ, 53 nghìn chức sắc, hơn 133 nghìn chức việc, 28 nghìn cơ sở thờ tự. Các tôn giáo đã có hệ thống đào tạo quy mô trong cả nước, trong đó, Phật giáo có 04 học viện, 01 trường cao đẳng và hàng chục trường trung cấp Phật học, gần 17.000 cơ sở thờ tự; Công giáo có 01 học viện, hàng chục trường đào tạo và hơn 7.000 cơ sở thờ tự; Cao Đài có 01 học viện, hơn 1.200 thánh thất, thánh tịnh; Tin lành có 01 Trường Thánh kinh thần học, hơn 500 cơ sở thờ tự và trường đào tạo tín đồ, v.v. Hầu hết các tổ chức tôn giáo đã có báo, tạp chí, bản tin riêng; Nhà nước đã cho phép xuất bản kinh sách bằng các tiếng dân tộc, như: Kinh thánh bằng tiếng Ba-na, Ê-đê, Gia-rai; in Kinh Phật bằng tiếng Khơ-me, v.v. Cùng với đó, Chính phủ hết sức quan tâm, xem xét, phê duyệt việc đăng ký các điểm nhóm Tin lành. Hiện nay, khu vực Tây Nguyên và Bình Phước có gần 500 nghìn tín đồ, thuộc 31 tổ chức, hệ phái, nhóm Tin lành; trong đó, có hơn 400 nghìn người đang sinh hoạt tại 240 chi hội và 1.300 điểm nhóm đã đăng ký với chính quyền địa phương. Khu vực Tây Bắc có gần 200 nghìn tín đồ, chủ yếu là người Mông, sinh hoạt ở hơn 1.300 điểm nhóm. Đồng bào theo đạo Tin lành có thể sinh hoạt tôn giáo tại gia đình hoặc sinh hoạt tập trung theo điểm nhóm.

Hoạt động hợp tác quốc tế trên lĩnh vực tôn giáo được chú trọng, đẩy mạnh. Chính phủ đã tạo điều kiện để các tôn giáo mở rộng quan hệ quốc tế rộng rãi. Đã có nhiều đoàn tôn giáo quốc tế đến thăm, làm việc tại Việt Nam và nhiều đoàn chức sắc tôn giáo trong nước đi thăm, làm việc và học tập ở nước ngoài. Việt Nam đã tổ chức thành công nhiều sự kiện tôn giáo lớn, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, như: Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc (Vesak) năm 2008 và 2014; Hội nghị Nữ giới Phật giáo thế giới lần thứ XI (năm 2009), Đại lễ 100 năm Tin lành đến Việt Nam (năm 2011), Diễn đàn Thượng đỉnh Phật giáo ASEAN năm 2016, v.v.

Với chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước Việt Nam, những năm qua, hầu hết tín đồ, chức sắc, chức việc các tôn giáo luôn yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, sống “tốt đời, đẹp đạo”, “ích nước, lợi dân”, tích cực tham gia phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an ninh, trật tự,… góp phần làm nên những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới đất nước.

Thực tế đó cho thấy, tại Việt Nam, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân được tôn trọng và bảo đảm. Đó là sự thật khách quan, không thể phủ nhận. Điều này đã được cộng đồng quốc tế, trong đó có nhiều chính khách nước ngoài chứng kiến và ghi nhận. Phó Chủ tịch Ủy ban tự do tôn giáo quốc tế Mỹ (USCIRF) M.Cromartie, sau khi tận mắt chứng kiến các buổi sinh hoạt tôn giáo ở một số địa phương, đã phải khẳng định: “Tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam đã được mở rộng và có nhiều tiến bộ, nhiều điểm đáng khích lệ”. Giám đốc Học viện Can dự toàn cầu (IGE), cơ quan tham mưu cho Chính phủ Mỹ về chính sách tự do tôn giáo quốc tế, sau khi đi thăm nhiều nơi ở Việt Nam cũng nhấn mạnh: “Chính phủ Việt Nam đã cho phép tự do tôn giáo tồn tại. Đây là một sự phát triển chứ không phải là một cuộc cách mạng…”. Trong chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam gần đây, Thứ trưởng Ngoại giao Tòa thánh Vatican E. Balestrero đánh giá: Nhà nước Việt Nam tiếp tục nỗ lực thực hiện nhất quán và không ngừng hoàn thiện chính sách tôn trọng và bảo đảm tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Đặc biệt, việc Việt Nam được bầu vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014-2016) với số phiếu cao nhất và đã phát huy tốt vai trò thành viên của mình, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Những nỗ lực và thành tựu đã đạt được trong việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta trong những năm qua là minh chứng khách quan nhất, cơ sở thuyết phục nhất để bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, thù địch về tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.

Cần nhấn mạnh rằng, như mọi hoạt động khác của xã hội, các sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam hay bất kỳ quốc gia nào cũng đều phải trong khuôn khổ pháp luật nhà nước. Những hành vi vi phạm pháp luật của công dân (dù theo đạo hay không theo đạo) cũng đều phải bị xử lý theo luật định. Những năm qua, các cơ quan chức năng đã triển khai nhiều biện pháp đấu tranh, ngăn chặn hoạt động lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Trong đó đã bắt giữ, truy tố, xử lý đúng pháp luật nhiều đối tượng lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để tổ chức các hoạt động chống phá Nhà nước. Các cơ quan của Chính phủ và Quốc hội cũng đã và đang tiến hành rà soát hệ thống văn bản luật về tôn giáo, xác định nội dung cần sửa đổi, bổ sung phù hợp với thực tế. Nổi bật là việc ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 20162 quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; trách nhiệm của tổ chức và cá nhân trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo,… tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng như quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của người dân và đấu tranh, ngăn chặn các hoạt động lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước. Các phương tiện thông tin đại chúng thường xuyên tuyên truyền nâng cao nhận thức cho quần chúng, tín đồ về chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo và ý thức cảnh giác của nhân dân trước âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch.

Trong những năm tới, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, trong xu thế thúc đẩy hòa bình, hợp tác giải quyết những vấn đề mang tính toàn cầu; hoạt động lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo vẫn là chiêu bài được các thế lực thù địch, đối tượng chống đối chế độ triệt để lợi dụng nhằm gây mất ổn định chính trị, xã hội, can thiệp vào nội bộ nước ta. Để nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, ngăn chặn hoạt động lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhằm chống phá Đảng, Nhà nước, đòi hỏi công tác này luôn phải đặt dưới sự lãnh đạo Đảng; sự quản lý, điều hành của Nhà nước; tiếp tục hoàn thiện các chính sách, văn bản pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Thường xuyên nâng cao nhận thức cho nhân dân, tín đồ, chức sắc về chính sách của Đảng, Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo; vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo, từ đó nâng cao ý thức, trách nhiệm cho nhân dân, tín đồ, chức sắc trong việc tham gia vào công tác phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động này. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và đấu tranh đối ngoại; tận dụng các kênh, nhất là truyền thông, nhằm làm cho cộng đồng hiểu đúng chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và thành tựu đã đạt được trong đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta, góp phần đấu tranh có hiệu quả với các luận điệu xuyên tạc, vu cáo về nhân quyền, tôn giáo ở Việt Nam.

Đấu tranh với các thế lực thù địch lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước và công cuộc đổi mới đất nước là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài. Điều đó đòi hỏi sự kiên quyết, kiên trì, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, của toàn dân, trong đó có đồng bào tôn giáo.


Vai trò của nền tảng tư tưởng trong thực hiện chức năng cầm quyền của Đảng

 Để giữ vững vị thế cầm quyền, nhiệm vụ tiên quyết của Đảng là giữ vững nền tảng tư tưởng, từ đó đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của Nhân dân để thực hiện mục đích xây dựng đất nước độc lập, giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Về mặt từ ngữ, “nền tảng tư tưởng” được hợp thành bởi hai thành tố “nền tảng” và “tư tưởng”. Theo từ điển Tiếng Việt, “nền tảng” - là bộ phận vững chắc dựa trên đó các bộ phận khác tồn tại và phát triển; “tư tưởng” - là sự phản ánh hiện thực trong ý thức, là biểu hiện về quan hệ của con người với thế giới xung quanh. Nghiên cứu khái niệm “nền tảng tư tưởng” theo góc độ chính trị học, không thể ghép cơ học hai thành tố “nền tảng” và “tư tưởng” mà “tư tưởng” phải được hiểu theo nghĩa “hệ tư tưởng” - đó là những tư tưởng, quan điểm đã được hệ thống hóa thành lý luận, thành học thuyết về xã hội, phản ánh và bảo vệ lợi ích của một giai cấp nhất định được giai cấp đó thừa nhận và truyền bá.

Hiểu một cách khái quát: Nền tảng tư tưởng của chính đảng là hệ thống lý luận, học thuyết về xã hội của một giai cấp mà từ đó hình thành, phát triển nên các quan điểm, tư tưởng về các lĩnh vực của đời sống xã hội trên quan điểm của giai cấp đó. Nền tảng tư tưởng là điều kiện tiên quyết cho sự ra đời và hoạt động của mỗi chính đảng; mỗi chính đảng phải có một hệ tư tưởng nhất định, làm cơ sở để tập hợp lực lượng, định hướng hoạt động. Đây là yếu tố cơ bản cấu thành đảng chính trị, nó quy định bản chất giai cấp của chính đảng.

Ở các nước chế độ đa đảng, nhiều chính đảng cạnh tranh việc cầm quyền; các chính đảng xác định hệ tư tưởng và đề ra các chính sách tranh cử nhằm mong đạt được sự ủng hộ từ xã hội. Ví dụ như Mỹ, có hàng trăm chính đảng, nhưng chỉ có Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa thay nhau cầm quyền thông qua các cuộc bầu cử cạnh tranh quyết liệt; mặc dù các chính đảng luôn cạnh tranh giành quyền kiểm soát bộ máy nhà nước, nhưng họ vẫn cùng nhau chia sẻ những cam kết chung và những giá trị cơ bản của xã hội tư bản, đó là tôn trọng Hiến pháp.

Trong hoạt động chính trị, các chính đảng không ngừng hoàn thiện, phát triển đi đôi với đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của mình, đó là hoạt động định hướng chính trị, truyền bá hệ tư tưởng. Mỗi chính đảng đều có hệ tư tưởng của mình để từ đó hoạch định, xây dựng ra các chủ trương, đường lối, chính sách và truyền bá đến quần chúng, gây dựng niềm tin, sự ủng hộ đối với mình. Khi chính đảng trở thành đảng cầm quyền, nền tảng tư tưởng sẽ được thể chế hóa, cụ thể hóa thành đường lối, chính sách về phát triển đất nước và pháp luật để lãnh đạo, quản lý, điều hành đất nước. Nền tảng tư tưởng của đảng nào đó được quần chúng thừa nhận và ủng hộ nó hoàn toàn phụ thuộc vào việc tư tưởng đó có đáp ứng được nguyện vọng của đa số quần chúng hay không.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của các đảng chính trị là vấn đề tất yếu khách quan, là cuộc đấu tranh ý thức hệ, đấu tranh chính trị để giành, giữ vị trí cầm quyền. Chủ nghĩa Mác - Lênin ngay từ khi ra đời, khi mới chỉ được gọi là “một bóng ma đang ám ảnh châu Âu” đã gặp phải vô vàn sự chống phá khốc liệt của các thế lực thù địch như trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản được Mác và Ăngghen nêu ra năm 1848 cũng như toàn bộ quá trình phát triển đến ngày nay. Đấu tranh chống lại mọi kẻ thù tư tưởng - đó là quy luật phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đảng Cộng sản Việt Nam sau khi ra đời, bên cạnh việc bị thực dân Pháp đàn áp, khủng bố, tìm cách tiêu diệt cùng với đó là quá trình đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, quan điểm của Đảng. Ngày nay, khi đã trở thành đảng cầm quyền, lãnh đạo đất nước đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, Đảng vẫn luôn gặp phải sự chống phá của các thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng.

Đảng Cộng sản Việt Nam ngay khi ra đời đã xác định, chủ nghĩa Mác - Lênin “là cốt”, “là gốc”. Trong tác phẩm “Đường kách mệnh”, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”, Người khẳng định “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Thực tế cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo và giành được thắng lợi đã chứng minh nền tảng tư tưởng mà Đảng đã lựa chọn là hoàn toàn tiến bộ và phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam; trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn quán triệt vấn đề mang tính nguyên tắc là lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của mình”.

Nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam gồm hai thành tố là Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Chủ nghĩa Mác - Lênin là hệ thống tư tưởng, quan điểm và học thuyết khoa học về sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người và chỉ ra lực lượng, con đường, phương thức đạt mục tiêu đó gồm ba bộ phận thống nhất hữu cơ không thể tách rời nhau gồm Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị học Mác - Lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa học.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.

Từ nền tảng tư tưởng “Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”, trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng cụ thể hóa thành Cương lĩnh, đường lối, chính sách, pháp luật… theo đó, hiểu theo nghĩa rộng, nền tảng tư tưởng của Đảng còn là Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, chủ trương, đường lối của Đảng.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ hệ trọng, sống còn trong công tác xây dựng Đảng, là lĩnh vực trọng yếu để xây dựng, bồi đắp nền tảng chính trị của chế độ. Do đó, làm tốt công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chính là yếu tố quan trọng hàng đầu để bảo đảm vai trò cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội nhằm thực hiện thành công các nhiệm vụ trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.