rong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, việc lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước ta hòng gây mất ổn định chính trị, xã hội là thủ đoạn thường xuyên được sử dụng. Vì vậy, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn thâm độc này là vấn đề cấp thiết hiện nay.
Qua thực tiễn có thể thấy, âm mưu này của các thế lực thù địch không mới; nói cách khác, nó đã từng được chúng sử dụng để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Câu hỏi đặt ra là, tại sao chúng triệt để sử dụng âm mưu này đối với Việt Nam? Có lẽ không khó để tìm lời giải.
Việt Nam là quốc gia đa sắc tộc, tôn giáo; đồng bào tôn giáo chiếm tỷ lệ khá cao trong cộng đồng người Việt Nam. Nếu tranh thủ lợi dụng được đông đảo đồng bào tôn giáo thì sẽ tạo hiệu ứng lớn trong việc chống phá của chúng. Đó là chưa đề cập đến các hệ quả khác liên quan. Tính chất thâm độc, nguy hiểm của âm mưu này là ở đây. Ở một khía cạnh khác, Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quyền công dân, quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo được quy định và đảm bảo bằng Hiến pháp, pháp luật. Cùng với việc trắng trợn can thiệp - “đấu tranh pháp lý”, chúng triệt để lợi dụng cụm từ “tự do” mà cố tình lờ đi “... trong khuôn khổ pháp luật” để tổ chức các hoạt động chống phá, hòng gây mất ổn định chính trị - xã hội, tiến tới loại trừ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Để thực hiện mưu đồ, các thế lực thù địch dùng mọi thủ đoạn nhằm tách tôn giáo ra khỏi sự quản lý của Nhà nước; hậu thuẫn về vật chất, tinh thần cho các đối tượng chống đối, đưa tôn giáo ở Việt Nam trở thành lực lượng chính trị “đối trọng” với Đảng. Chúng xác định lấy “tự do tôn giáo” làm “ngòi nổ” để chống phá Việt Nam; tuyệt đối hóa tính toàn cầu, tính phổ cập của các quyền trên lĩnh vực tôn giáo với luận điểm: “nhân quyền cao hơn chủ quyền”. Đồng thời cho rằng: “Việt Nam coi tôn giáo như là một công cụ tuyên truyền cho Đảng, Nhà nước, phục vụ các chính sách của Nhà nước trong phát triển kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc phòng”, v.v. Họ lợi dụng những vụ việc nảy sinh trong đời sống, sinh hoạt của đồng bào tôn giáo, hoạt động tôn giáo và những bất cập, sơ hở của các cấp chính quyền trong quản lý, tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo, nhất là những vấn đề liên quan đến giải tỏa, đền bù đất đai, cơ sở thờ tự,… để kích động quần chúng, tín đồ đập phá tài sản, chống người thi hành công vụ, phá rối an ninh, trật tự, cản trở giao thông tại các địa phương1. Qua đó, tổ chức ghi hình, chụp ảnh, thổi phồng, bóp méo tình hình thực tế, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, vu cáo Nhà nước ta vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp tôn giáo, v.v.
Các tổ chức phản động lưu vong còn móc nối với số đối tượng chống đối, bất mãn trong nước để thu thập tình hình dân tộc, tôn giáo ở Việt Nam rồi xuyên tạc, bóp méo sự thật và tán phát trên in-tơ-nét, nhằm hạ thấp uy tín Việt Nam trên trường quốc tế. Chúng lợi dụng các chính khách cực đoan trong quốc hội một số nước, như: Mỹ, Anh, Đức, Ca-na-đa,… và các tổ chức quốc tế, như: Human Right Watch (HRW), Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ (USCIRF) để tác động tổ chức này thông qua các báo cáo, nghị quyết, thông cáo, phúc trình có nội dung xuyên tạc, làm cho cộng đồng quốc tế hiểu sai về tình hình tôn giáo ở Việt Nam. Điển hình như: Báo cáo Tự do tôn giáo quốc tế hằng năm của Bộ Ngoại giao Mỹ; Báo cáo tình hình nhân quyền thế giới hằng năm của Anh, Úc; nghị quyết của nghị viện châu Âu, v.v. Hạ viện Mỹ hằng năm thông qua nhiều dự luật, nghị quyết về tình hình nhân quyền tại Việt Nam; trong đó, có vấn đề tôn giáo, như: Dự luật HR 1587 (năm 2004), HR 3096 (năm 2007), HR 1410 (năm 2012), HR 1897 (năm 2013), Nghị quyết H.Res.484, v.v. Đặc biệt, chúng tìm cách thông qua các chính khách cực đoan (L.SanChez, Z.Lofgren, C.Smith,…) để đề nghị Quốc hội Mỹ đưa Việt Nam trở lại danh sách “các nước cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo” (CPC), bất chấp việc thực tế tình hình tôn giáo ở Việt Nam không phải vậy.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị và văn bản pháp luật nhằm đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền con người trên các lĩnh vực; trong đó, có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Thực hiện những nghị quyết, chỉ thị đó, Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc về đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Chưa bao giờ các tôn giáo có điều kiện phát triển như hiện nay. Theo thống kê sơ bộ, tính đến đầu năm 2017, có 40 tổ chức tôn giáo thuộc 14 tôn giáo khác nhau được Nhà nước công nhận và cấp phép hoạt động với hơn 25 triệu tín đồ, 53 nghìn chức sắc, hơn 133 nghìn chức việc, 28 nghìn cơ sở thờ tự. Các tôn giáo đã có hệ thống đào tạo quy mô trong cả nước, trong đó, Phật giáo có 04 học viện, 01 trường cao đẳng và hàng chục trường trung cấp Phật học, gần 17.000 cơ sở thờ tự; Công giáo có 01 học viện, hàng chục trường đào tạo và hơn 7.000 cơ sở thờ tự; Cao Đài có 01 học viện, hơn 1.200 thánh thất, thánh tịnh; Tin lành có 01 Trường Thánh kinh thần học, hơn 500 cơ sở thờ tự và trường đào tạo tín đồ, v.v. Hầu hết các tổ chức tôn giáo đã có báo, tạp chí, bản tin riêng; Nhà nước đã cho phép xuất bản kinh sách bằng các tiếng dân tộc, như: Kinh thánh bằng tiếng Ba-na, Ê-đê, Gia-rai; in Kinh Phật bằng tiếng Khơ-me, v.v. Cùng với đó, Chính phủ hết sức quan tâm, xem xét, phê duyệt việc đăng ký các điểm nhóm Tin lành. Hiện nay, khu vực Tây Nguyên và Bình Phước có gần 500 nghìn tín đồ, thuộc 31 tổ chức, hệ phái, nhóm Tin lành; trong đó, có hơn 400 nghìn người đang sinh hoạt tại 240 chi hội và 1.300 điểm nhóm đã đăng ký với chính quyền địa phương. Khu vực Tây Bắc có gần 200 nghìn tín đồ, chủ yếu là người Mông, sinh hoạt ở hơn 1.300 điểm nhóm. Đồng bào theo đạo Tin lành có thể sinh hoạt tôn giáo tại gia đình hoặc sinh hoạt tập trung theo điểm nhóm.
Hoạt động hợp tác quốc tế trên lĩnh vực tôn giáo được chú trọng, đẩy mạnh. Chính phủ đã tạo điều kiện để các tôn giáo mở rộng quan hệ quốc tế rộng rãi. Đã có nhiều đoàn tôn giáo quốc tế đến thăm, làm việc tại Việt Nam và nhiều đoàn chức sắc tôn giáo trong nước đi thăm, làm việc và học tập ở nước ngoài. Việt Nam đã tổ chức thành công nhiều sự kiện tôn giáo lớn, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, như: Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc (Vesak) năm 2008 và 2014; Hội nghị Nữ giới Phật giáo thế giới lần thứ XI (năm 2009), Đại lễ 100 năm Tin lành đến Việt Nam (năm 2011), Diễn đàn Thượng đỉnh Phật giáo ASEAN năm 2016, v.v.
Với chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước Việt Nam, những năm qua, hầu hết tín đồ, chức sắc, chức việc các tôn giáo luôn yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, sống “tốt đời, đẹp đạo”, “ích nước, lợi dân”, tích cực tham gia phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an ninh, trật tự,… góp phần làm nên những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới đất nước.
Thực tế đó cho thấy, tại Việt Nam, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân được tôn trọng và bảo đảm. Đó là sự thật khách quan, không thể phủ nhận. Điều này đã được cộng đồng quốc tế, trong đó có nhiều chính khách nước ngoài chứng kiến và ghi nhận. Phó Chủ tịch Ủy ban tự do tôn giáo quốc tế Mỹ (USCIRF) M.Cromartie, sau khi tận mắt chứng kiến các buổi sinh hoạt tôn giáo ở một số địa phương, đã phải khẳng định: “Tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam đã được mở rộng và có nhiều tiến bộ, nhiều điểm đáng khích lệ”. Giám đốc Học viện Can dự toàn cầu (IGE), cơ quan tham mưu cho Chính phủ Mỹ về chính sách tự do tôn giáo quốc tế, sau khi đi thăm nhiều nơi ở Việt Nam cũng nhấn mạnh: “Chính phủ Việt Nam đã cho phép tự do tôn giáo tồn tại. Đây là một sự phát triển chứ không phải là một cuộc cách mạng…”. Trong chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam gần đây, Thứ trưởng Ngoại giao Tòa thánh Vatican E. Balestrero đánh giá: Nhà nước Việt Nam tiếp tục nỗ lực thực hiện nhất quán và không ngừng hoàn thiện chính sách tôn trọng và bảo đảm tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Đặc biệt, việc Việt Nam được bầu vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014-2016) với số phiếu cao nhất và đã phát huy tốt vai trò thành viên của mình, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Những nỗ lực và thành tựu đã đạt được trong việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta trong những năm qua là minh chứng khách quan nhất, cơ sở thuyết phục nhất để bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, thù địch về tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Cần nhấn mạnh rằng, như mọi hoạt động khác của xã hội, các sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam hay bất kỳ quốc gia nào cũng đều phải trong khuôn khổ pháp luật nhà nước. Những hành vi vi phạm pháp luật của công dân (dù theo đạo hay không theo đạo) cũng đều phải bị xử lý theo luật định. Những năm qua, các cơ quan chức năng đã triển khai nhiều biện pháp đấu tranh, ngăn chặn hoạt động lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Trong đó đã bắt giữ, truy tố, xử lý đúng pháp luật nhiều đối tượng lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để tổ chức các hoạt động chống phá Nhà nước. Các cơ quan của Chính phủ và Quốc hội cũng đã và đang tiến hành rà soát hệ thống văn bản luật về tôn giáo, xác định nội dung cần sửa đổi, bổ sung phù hợp với thực tế. Nổi bật là việc ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 20162 quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; trách nhiệm của tổ chức và cá nhân trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo,… tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng như quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của người dân và đấu tranh, ngăn chặn các hoạt động lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước. Các phương tiện thông tin đại chúng thường xuyên tuyên truyền nâng cao nhận thức cho quần chúng, tín đồ về chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo và ý thức cảnh giác của nhân dân trước âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch.
Trong những năm tới, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, trong xu thế thúc đẩy hòa bình, hợp tác giải quyết những vấn đề mang tính toàn cầu; hoạt động lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo vẫn là chiêu bài được các thế lực thù địch, đối tượng chống đối chế độ triệt để lợi dụng nhằm gây mất ổn định chính trị, xã hội, can thiệp vào nội bộ nước ta. Để nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, ngăn chặn hoạt động lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhằm chống phá Đảng, Nhà nước, đòi hỏi công tác này luôn phải đặt dưới sự lãnh đạo Đảng; sự quản lý, điều hành của Nhà nước; tiếp tục hoàn thiện các chính sách, văn bản pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Thường xuyên nâng cao nhận thức cho nhân dân, tín đồ, chức sắc về chính sách của Đảng, Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo; vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo, từ đó nâng cao ý thức, trách nhiệm cho nhân dân, tín đồ, chức sắc trong việc tham gia vào công tác phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động này. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và đấu tranh đối ngoại; tận dụng các kênh, nhất là truyền thông, nhằm làm cho cộng đồng hiểu đúng chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và thành tựu đã đạt được trong đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta, góp phần đấu tranh có hiệu quả với các luận điệu xuyên tạc, vu cáo về nhân quyền, tôn giáo ở Việt Nam.
Đấu tranh với các thế lực thù địch lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước và công cuộc đổi mới đất nước là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài. Điều đó đòi hỏi sự kiên quyết, kiên trì, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, của toàn dân, trong đó có đồng bào tôn giáo.
tất cả những kẻ chống phá đất nước phải bị xử lý nghiêm khắc
Trả lờiXóa