Thứ Bảy, 1 tháng 6, 2024

Giá trị của hoà bình

Trong không khí những ngày tháng lịch sử của dân tộc, trong bối cảnh thế giới vẫn đang tiếp tục diễn ra các cuộc xung đột, chiến tranh gây đau khổ cho nhân loại, ta càng thấy giá trị của hòa bình, kỳ tích mà Đảng ta đã đem lại cho Tổ quốc, cho Nhân dân hôm nay.

Không khí trang nghiêm, hào hùng tại Lễ kỷ niệm 70 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. (Ảnh: Nguyễn Dương/CPV)

Năm 2024, Việt Nam chúng ta tưng bừng tổ chức kỷ niệm 70 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7/5/1954-7/5/2024) và 49 năm kỷ niệm ngày chiến dịch Hồ Chí Minh (30/4/1975-30/4/2024) toàn thắng, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, non sông liền một dải… Đó là hai trong số những cột mốc chói lọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Trong không khí những ngày tháng lịch sử của dân tộc, trong bối cảnh thế giới vẫn đang tiếp tục diễn ra các cuộc xung đột, chiến tranh gây đau khổ cho nhân loại, ta càng thấy giá trị của hòa bình, kỳ tích mà Đảng ta đã đem lại cho Tổ quốc, cho Nhân dân hôm nay.

Tháng 3 năm 2024, tôi có dịp cùng Đoàn đại biểu của Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh sang thăm và làm việc tại nước bạn Venezuela và Chile. Chuyến thăm ấy để lại cho tôi ấn tượng về nhiều mặt nhưng sâu sắc nhất là về tình hữu nghị, đoàn kết của các quốc gia đối với Tổ quốc Việt Nam. Ở hai quốc gia Nam Mỹ này, cách xa Việt Nam nửa vòng Trái đất nhưng hai tiếng “Vietnam” và “Ho Chi Minh” không xa lạ với những người bạn, người anh em quốc tế này. Cả hai quốc gia đều đặt tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh tại những nơi trang trọng nhất, dành những tình cảm quý báu nhất cho vị lãnh tụ kính yêu của Việt Nam và cũng là người đồng chí, người bạn của những nhà cách mạng và Nhân dân của bạn.

Dù là Đảng Cộng sản hay các đảng phái chính trị cánh hữu, cánh tả, các bạn đều dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và Việt Nam một sự ngưỡng mộ to lớn. Sự ngưỡng mộ ấy từ hình ảnh của một Việt Nam nhỏ bé vươn vai như Thánh Gióng đánh bại hai cường quốc thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Đó là hình ảnh, biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng với tinh thần giải phóng dân tộc, quốc tế vô sản, đánh đuổi đế quốc, thực dân, đem lợi ích về tay Nhân dân. Chiến thắng vang dội của Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu” hay giải phóng Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, để tiến lên chủ nghĩa xã hội là những kỳ tích mà bạn bè quốc tế chân chính, yêu chuộng hòa bình trên thế giới đều cảm thấy thán phục và tự hào. Hai chữ “Hồ Chí Minh”, “Việt Nam” luôn vang lên trên các diễn đàn, mít tinh lớn từ bạn bè quốc tế, trên đường phố chống chiến tranh hay tại các liên hoan, họp mặt lớn của các phong trào quốc tế… cũng không quá ngạc nhiên khi bước chân trên đường phố của bạn, có người hỏi “anh từ đâu đến?”, khi nhắc Việt Nam, họ ồ lên ngạc nhiên nhắc đến “Ho Chi Minh” và “Victory”… Và hôm nay, một Việt Nam được bạn bè quốc tế biết đến không chỉ bằng lịch sử hào hùng ấy mà còn là những thành công của “Đổi mới”, của công cuộc xây dựng đất nước, khắc phục hậu quả chiến tranh, có những bước tiến vững chắc trong xây dựng đất nước ngày càng phát triển, không ngừng hội nhập quốc tế sâu rộng, khẳng định vị trí quan trọng trong khu vực và thế giới. Điều này, văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: "Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp Quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế".

Đoàn đại biểu TP Hồ Chí Minh chụp ảnh lưu niệm bên tượng Bác Hồ tại quận Cerro Navia, Thủ đô Santiago, Chile.

Giá trị của hòa bình, độc lập, tự chủ của đất nước trong chặng đường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thống nhất gần 50 năm qua được minh chứng bằng những hình ảnh và thành công rất cụ thể. Khi đến thăm nước bạn Venezuela, khi bạn đang trong giai đoạn bị bao vây, cấm vận, mới thấy vô vàn những khó khăn và thách thức cho Đảng cầm quyền, chính quyền và Nhân dân hiện nay. Venezuela là một quốc gia có tiềm năng về dầu mỏ, trước đây đã từng là một trong những quốc gia phát triển nhất trong khu vực Châu Mỹ - Latinh. Đến nay, trong giai đoạn ngắn bị cấm vận, bạn đang vô cùng khó khăn từ kinh tế quốc gia, an ninh – quốc phòng đến đời sống của người dân. Khi tiếp đoàn đại biểu thành phố Hồ Chí Minh, các bạn dành cho Việt Nam một sự nể phục, tự hào khi ta vượt qua bao vây, phá cấm vận, xây dựng đất nước phát triển như hôm nay. Các bạn đã xem Việt Nam như một hình mẫu để học tập và hi vọng một ngày không xa, vượt qua rào cản cấm vận để phát triển đất nước. Tại Hội nghị đối ngoại toàn quốc, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Từ phá thế bị bao vây, cấm vận, chúng ta đã tạo dựng và củng cố ngày càng vững chắc cục diện đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, thuận lợi cho công cuộc đổi mới. Cho đến nay, chúng ta đã mở rộng và nâng tầm quan hệ ngoại giao với tất cả các nước láng giềng, các nước lớn, các đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống, từ đó tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của quốc tế đối với công cuộc đổi mới của nhân dân ta… Đối ngoại Đảng, Ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân và đối ngoại của các ngành, lĩnh vực, địa phương, doanh nghiệp ngày càng mở rộng, chủ động, tích cực và đi vào chiều sâu. Hoạt động đối ngoại của Chính phủ trên các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hoá - xã hội được đẩy mạnh, góp phần tăng cường sự tin cậy chính trị và đan xen lợi ích với các đối tác. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức hữu nghị của nhân dân cũng đã triển khai đối ngoại thiết thực, góp phần củng cố quan hệ hữu nghị với nhân dân các nước, quảng bá sâu rộng công cuộc đổi mới, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra thế giới”.

Đến Chile, dù đảng cầm quyền không theo đường lối xã hội chủ nghĩa nhưng bạn vẫn dành cho đoàn Việt Nam nhiều tình cảm tốt đẹp. Trong mắt bạn bè Chile, Việt Nam là ngọn cờ cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là tinh thần đấu tranh để giải phóng dân tộc, giữ độc lập, hòa bình và tự chủ. Bạn bè Chile tuy không khó khăn như Venezuela nhưng bạn vẫn cảm phục một Việt Nam không ngừng vươn lên về kinh tế, ổn định chính trị và có vai trò quan trọng trong khu vực; có nhiều đơn vị kinh tế mong muốn được hợp tác, đến đầu tư tại thành phố Hồ Chí Minh và Việt Nam… Chúng tôi chia tay bạn bè Chile sau khi được gặp gỡ, giao lưu hết sức gần gũi, tình đồng chí với các bạn ở quận Cerro Navia, thủ đô Santiago, nơi có công viên Hồ Chí Minh và đặt tượng đài của Người một cách trang trọng, trong sự yêu quý của người dân địa phương. Thật xúc động, tự hào và có phần bỡ ngỡ, nơi xứ sở cách Việt Nam hơn nửa vòng Trái đất, vẫn được nghe hai tiếng “Ho Chi Minh”, “Vietnam” một cách quý trọng, thân thương từ những người bạn, nhân dân quốc tế…

TP Hồ Chí Minh - hạt nhân phát triển của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

Trở về Việt Nam, trở về thành phố mang tên Bác kính yêu trên nhiều chặng bay dài đi qua nhiều quốc gia, tôi càng cảm nhận được giá trị của hòa bình, giá trị của công dân một quốc gia đang từng bước phát triển trong ổn định, bình an và hạnh phúc. Ở nhiều nơi trên thế giới, người dân đang phải chịu nhiều tổn thất, khổ đau do chiến tranh, xung đột, nghèo đói, bệnh tật… Là công dân Việt Nam hôm nay, chúng ta đang tự hào sống trong hòa bình, khẳng định vị thế, không ngừng nỗ lực xây dựng đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như Bác Hồ hằng mong muốn./.   

ST.                                              

Lười lao động” - căn bệnh cần “phương thuốc đặc trị”

Tình trạng “lười lao động” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên đang diễn ra ở không ít cơ quan, đơn vị. Đây là căn bệnh nguy hiểm, cần phải chữa ngay bằng “phương thuốc đặc trị”.

“Lười biếng là kẻ địch của dân tộc”

Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn đề cao tinh thần trách nhiệm, dám xả thân vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Nhất là trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cơ bản đội ngũ cán bộ luôn giữ vai trò tiên phong trong chiến đấu, khắc phục mọi khó khăn, không ngại khó, ngại khổ, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Bước vào giai đoạn đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội, với tinh thần “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung” của đội ngũ cán bộ của Đảng tích cực, hăng say làm việc, phát huy sự sáng tạo và đổi mới, tạo nên những bước phát triển mới trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, để đất nước ta phát triển nhanh và bền vững.

“Lười lao động”, căn bệnh cần phải chữa ngay.
(Ảnh minh họa. Nguồn ảnh: Báo Đại đoàn kết) 

Viết về vấn đề “lười biếng”, nói cách khác là “lười lao động”, “lười làm việc”, trong tác phẩm “Cần, kiệm, liêm, chính”, với bút danh Nguyễn Ái Quốc, Người đã viết: “Lười biếng là kẻ địch của chữ cần. Vì vậy, lười biếng cũng là kẻ địch của dân tộc”; một cá thể, cá nhân lười biếng, có thể ảnh hưởng tai hại đến công việc của toàn bộ tập thể cơ quan, đơn vị. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nói: “Bệnh lười biếng - Tự cho mình là cái gì cũng giỏi, việc gì cũng biết”; dẫn đến làm biếng học hỏi, lười suy nghĩ; việc gì dễ thì tranh và giành lấy cho bản thân mình; việc khó thì né tránh và đùn đẩy cho người khác; gặp việc nguy hiểm thì tìm mọi cách để thoái thác, trốn tránh. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn giải thích một cách cặn kẽ hơn: “Bệnh lười biếng - Khi tiếp được mệnh lệnh hoặc nghị quyết, không chịu nghiên cứu rõ ràng”; không tức thời chuyển ngay hoặc chỉ đạo cho cấp dưới, cho đảng viên, cho cán bộ, chiến sĩ... Kết cục là: nghị quyết là thực hiện không đến nơi đến chốn, ảnh hưởng tới năng lực lãnh đạo của tổ chức Đảng, nặng hơn là: phá hoại tổ chức của Đảng, giảm sút kỷ luật, kỷ cương của Đảng .

Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cảnh báo thái độ lười học tập, nhất là lười học tập lý luận chính trị, trình độ văn hóa và chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng công tác, Người nói: “Lười biếng: Không chịu khó học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ của mình về chính trị, văn hóa và nghiệp vụ”[4]. Người cũng cho rằng, lười biếng - “lười lao động”, “lười làm việc” cũng là đắc tội với nhân dân, với Tổ quốc.

Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến căn bệnh lười biếng

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng giống như bệnh “kiêu ngạo”, bệnh lười biếng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên không tự nhiên sinh ra, mà cũng không thuộc về bản chất vốn có của họ, lại càng không phải bản chất cơ bản của Đảng ta, nó do nguyên nhân khách quan và chủ quan mang lại.

Về nguyên khách quan, ngày 04 tháng 01 năm 1924 trong bài viết “Tình cảnh nông dân An Nam” đăng trên Báo La Vie Ouvrière, với bút danh Nguyễn Ái Quốc, Người đã viết: “Người An Nam nói chung, phải è cổ ra mà chịu những công ơn bảo hộ của nước Pháp”. Trong bài viết “Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Chế độ thực dân đã đầu độc dân ta với rượu và thuốc phiện”. Chúng đã sử dụng mọi thủ đoạn, biện pháp ác động để hủ hoá, lụi bại nhân dân chúng ta bằng nhiều thói hư, tật xấu, lười biếng, gian giảo, tham ô và những thói xấu khác. 

Về nguyên nhân chủ quan, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nó xuất phát từ chủ nghĩa cá nhân mà ra: “… vì tư tưởng cá nhân chủ nghĩa đẻ ra nhiều cái xấu như lười biếng, tham ô, đòi hưởng thụ, kèn cựa, địa vị”...; muốn tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội thì cần phải có những con người xã hội chủ nghĩa, muốn có con người xã hội chủ nghĩa cần thiết phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa, muốn có tư tưởng xã hội chủ nghĩa cần phải tẩy sạch và gột rửa tư tưởng cá nhân chủ nghĩa”. Cũng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra nhiều cái xấu, thiên hình vạn trạng”.

Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ ra một trong những nguyên nhân chủ quan dẫn đến bệnh lười biếng là: “… việc giáo dục chính trị còn sơ sài, thiếu sót”[9]. Chính vì thế mà một số cán bộ và công chức, người lao động còn mang nặng chủ nghĩa cá nhân, thái độ làm thuê, làm mướn, thiếu tinh thần làm chủ tập thể cơ quan, đơn vị. Do đó mà xuất hiện những hiện tượng xấu như: lười biếng, lười lao động, lười làm việc, kèn cựa, cục bộ, thiếu kỷ luật, kém đoàn kết, tham ô, xa hoa lãng phí.

"Thuốc đặc trị” chữa căn bệnh “lười lao động”

Trong nhiều tác phẩm nói và viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra, để khắc phục bệnh “lười biếng” - “lười lao động”, “lười làm việc” này là yêu cầu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội với mục tiêu quan trọng là khắc phục tình trạng nghèo nàn, lạc hậu để nâng cao đời sống nhân dân cả nước. Người đã nói: “Nước ta còn lạc hậu, dân ta còn nghèo, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội, muốn cải thiện đời sống, thì chúng ta càng phải “Cần”, phải “Kiệm”, phải chống lười biếng, chống lãng phí”. Quan trọng nữa, đó còn là mục tiêu của xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới; “Lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của chúng ta”.

Do đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã đặt ra yêu cầu cho xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa là phải gạt bỏ những thái độ, việc làm sai lầm như: thỏa mãn với thành tích ban đầu, bảo thủ, tự mãn với những kinh nghiệm đã có trước đó, đã có ít nhiều tri thức thì kiêu căng, coi khinh quần chúng nhân dân, hoài nghi những sáng kiến bình thường của quần chúng nhân dân; lười biếng, không tích cực học tập cái mới, cái tiến bộ v.v...

Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra những “phương thuốc” hữu hiệu để “chữa bệnh lười biếng” đó là:

Cách chữa:

- Các cơ quan chỉ đạo phải có cách lãnh đạo cho đúng. Mỗi việc, đều phải chỉ bảo cách làm cụ thể.

- Cấp trên phải hiểu rõ tình hình cấp dưới và tình hình quần chúng, để lãnh đạo, chỉ đạo cho đúng.

- Khi quyết nghị việc gì, phải cẩn thận, rõ ràng. Khi đã ban hành nghị quyết thì phải kiên quyết thi hành triệt để.

Phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ mọi mặt, Hồ Chí Minh coi đó là những biện pháp hết sức rất cần thiết. Người yêu cầu: “Phải chú ý học tập”: Phải kiên quyết đấu tranh chống bệnh lười biếng, lười lao động, lười học tập, muốn nghỉ ngơi an nhàn. Do đó, muốn tiến bộ nhanh, hoàn thành tốt nhiệm vụ, thì phải học tập các chính sách của Đảng, Nhà nước và Chính phủ. Đồng thời, phải tích cực học tập trong quần chúng nhân dân, bởi vì: Kinh nghiệm trong nước và các nước trên thế giới chứng minh cho chúng ta biết: khi có lực lượng dân chúng ủng hộ thì việc lớn “to tát” mấy, khó khăn, gian khổ bao nhiêu thì chúng ta làm cũng được. Không có sự ủng hộ của quần chúng nhân dân, thì việc gì làm cũng không xong. Quân chúng nhân dân biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, nhanh chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra, giải quyết không hiệu quả.

Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng yêu cầu trong Đảng, trong Nhà nước, trong Chính phủ, các cấp, các ngành và mọi tập thể cùng mỗi cá nhân cần phải “… cần có một cuộc vận động: Tiêu diệt lười biếng, nâng cao năng suất, củng cố kỷ luật lao động”.

Những lời chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phòng, chống căn bệnh lười biếng, lười lao động, lười làm việc… không những có giá trị lịch sử to lớn, mà nó còn luôn có tính thực tiến, tính thời sự trong công tác xây dựng Đảng ta hiện nay; nếu được quán triệt triệt để, vận dụng sáng tạo, triển khai thực hiện hiệu quả sẽ góp phần khắc phục “bệnh” lười biếng, lười lao động, lười làm việc của cán bộ, đảng viên, đồng thời góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng ta “vừa hồng, vừa chuyên”, công tâm, thạo việc theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn cách mạng mới.

Mới đây, phát biểu tại Phiên họp đầu tiên của Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIV của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh, trong nhiệm kỳ tới đây sẽ cương quyết không để lọt vào Ban chấp hành Trung ương khóa XIV những người: “Không chịu nghiên cứu học hỏi; bảo thủ, trì trệ, làm việc kém hiệu quả, nói nhiều làm ít, nói không đi đôi với làm; ý thức kỷ luật kém, không chấp hành sự điều động, phân công của tổ chức, uy tín giảm sút”. Đây là lời cảnh báo với những người lười biếng.

Tóm lại, trước thực trạng “lười làm việc”, “lười lao động” trong đội ngũ cán bộ ở mỗi tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương, cần tìm hiểu kỹ nguyên nhân do đâu mà có, mức độ ảnh hưởng như thế nào, hậu quả ra sao, để từ đó đề xuất những giải pháp khắc phục triệt để, hiệu quả lâu dài. Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp thiết thực, vừa có tính giáo dục, thuyết phục, vừa có tính kỷ luật, kỷ cương, đề cao tính nghiêm khắc để nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước trong thực thi công vụ. Đó là những chủ trương, giải pháp cơ bản nền tảng, đề nghị mỗi cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng, nhất là cấp cơ sở và đội ngũ cán bộ, đảng viên phải nghiên cứu, quán triệt sâu kỹ, vận dụng triển khai thực hiện ở cấp mình cho phù hợp, với tinh thần quyết tâm cao nhất, thái độ quyết liệt nhất, kiên quyết không để yếu kém, khuyết điểm kéo dài. Có như vậy, “căn bệnh lười biếng” - “lười làm việc”, “lười lao động” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay mới có cơ hội chữa khỏi triệt để./.

ST.

CHỦ QUYỀN QUỐC GIA VIỆT NAM TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG HIỆN NAY

Quan niệm của một số nước về chủ quyền trên không gian mạng 

 Trên thế giới, nhiều các quốc gia sử dụng một số thuật ngữ khác nhau như “Cyber security” hoặc “Network security” để chỉ an ninh, an toàn mạng; “Information security” hay “Security of information” để chỉ an ninh, an toàn thông tin. 

Mỹ giải thích khái niệm “Information security” là an ninh, an toàn thông tin. Trong Luật “Federal Information Security Management Act of 2002” (H.R. 2458 - 48) và Luật “Federal Information Security Modernization Act of 2014” (Public Law 113-283, 113th Congress) giải thích như sau: Thuật ngữ “an ninh, an toàn thông tin” có nghĩa là bảo vệ thông tin và hệ thống thông tin không bị truy cập trái phép, sử dụng, tiết lộ, gián đoạn, thay đổi hoặc phá hoại nhằm bảo đảm tính nguyên vẹn (nghĩa là bảo vệ chống lại việc sửa đổi hoặc phá hoại thông tin trái phép, bao gồm việc bảo đảm thông tin xác thực và không bị gián đoạn); tính bảo mật (nghĩa là hạn chế quyền tiếp cận và tiết lộ thông tin, bao gồm cả việc bảo vệ thông tin cá nhân và thông tin riêng); tính khả dụng (nghĩa là bảo đảm cho việc có thể truy cập được và sử dụng được thông tin một cách kịp thời và tin cậy).

Trung Quốc giải thích khái niệm “an ninh, an toàn mạng” tại dự thảo Luật An ninh, an toàn mạng như sau: “An ninh, an toàn mạng” là áp dụng các biện pháp cần thiết để ngăn chặn tấn công, xâm nhập, can nhiễu, phá hoại hoặc sử dụng phi pháp mạng cũng như những sự cố ngoài ý muốn giữ cho mạng ở trạng thái vận hành ổn định và tin cậy cũng như bảo đảm tính nguyên vẹn, tính bảo mật và tính khả dụng của thông tin được lưu trữ, truyền tải và xử lý trên mạng.

Quan niệm của Việt Nam về chủ quyền trên không gian mạng

Ở nước ta, ngày 12/6/2018 Quốc hội đã thông qua Luật số 24/2018/QH14 Luật an ninh mạng, trong đó có giải thích các thuật ngữ : (1) “ An ninh mạng”; (2) “ Không gian mạng”; (3) “ Không gian mạng quốc gia”; (4) “ Bảo vệ không gian mạng”. Theo đó, “an toàn thông tin mạng được hiểu là sự bảo vệ hệ thống thông tin và thông tin truyền đưa trên mạng tránh bị truy cập, sử dụng, tiết lộ, gián đoạn, sửa đổi hoặc phá hoại trái phép nhằm bảo đảm tính nguyên vẹn, tính bảo mật và tính khả dụng của thông tin”.

 “Không gian mạng” là mạng lưới kết nối toàn cầu của các cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, bao gồm Internet, các mạng viễn thông, hệ thống máy tính, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, là môi trường đặc biệt mà con người thực hiện các hành vi xã hội không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Qua nghiên cứu khái niệm “không gian mạng” của các quốc gia trên thế giới, nhất là các quốc gia có trình độ công nghệ thông tin mạng phát triển và căn cứ vào tình hình thực tế của Việt Nam cho thấy, “không gian mạng” có bản chất vật lý và tính chất xã hội.

 Về bản chất vật lý kỹ thuật, “không gian mạng” có cấu trúc ba lớp là: (1) Hạ tầng truyền dẫn vật lý bao gồm các thiết bị phần cứng công nghệ thông tin kết nối một cách hợp lý với nhau, tạo ra các loại mạng. (2) Hạ tầng dịch vụ lõi và (3) các dịch vụ tạo ra các giao thức để lưu trữ, xử lý, trao đổi thông tin, chủ yếu bao gồm các quy định chuẩn, hệ điều hành, các công nghệ nền tảng như công nghệ phần mềm, công nghệ mạng, giao diện, phương thức giao tiếp, giao thức, truyền dẫn xử lý thông tin, điều khiển… phần mềm ứng dụng với việc tạo các thư viện và dịch vụ dùng chung; hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin và cơ sở dữ liệu, các phần mềm ứng dụng để thông tin dưới dạng số được tạo ra, lưu trữ, xử lý trao đổi nhằm phục vụ nhu cầu cuộc sống và tác động đến nhận thức của con người.

 Về tính chất xã hội, “không gian mạng” là môi trường xã hội đặc biệt của con người hội tụ đủ 06 thành tố: (1) chính sách, pháp luật; (2) năng lực công nghệ; (3) nội dung thông tin; (4) nguồn nhân lực; (5) cơ cấu tổ chức bộ máy; (6) ý thức của con người trên không gian mạng, tạo ra môi trường xã hội đặc biệt của con người.

Trong đó, chính sách, pháp luật là những quy định, quy tắc ứng xử điều chỉnh hành vi và các mối quan hệ giữa cá nhân, tổ chức, cơ quan quản lý nhà nước, các quốc gia, các tổ chức quốc tế khi tham gia vào không gian mạng. Nó tạo hành lang pháp lý đảm bảo cho sự hoạt động an toàn và hiệu quả của không gian mạng, mở đường cho công nghệ phát triển.

Năng lực công nghệ là công nghệ đã được ứng dụng và khả năng nghiên cứu, phát triển công nghệ mới cho hạ tầng công nghệ thông tin, phần mềm, dịch vụ,… cấu thành nên không gian mạng, bao gồm các loại công nghệ nền tảng như công nghệ mạng, công nghệ điện tử, bán dẫn, vi xử lý, công nghệ phần mềm… Bên cạnh đó, còn có các quy định chuẩn công nghệ, các quy trình phương thức giao tiếp, giao diện giữa các tầng kiến trúc của một công nghệ nào đó…

Nội dung thông tin là những nội dung được lưu trữ, xử lý và trao đổi trên không gian mạng.

Nguồn nhân lực là con người tham gia vào hoạt động quản lý, điều hành, sử dụng hệ thống mạng. Tổ chức bộ máy là bộ máy quản lý nhà nước quản lý các bộ phận cấu thành nên không gian mạng, từ hạ tầng kỹ thuật đến dịch vụ ứng dụng, bảo vệ và điều tiết chính sách, pháp luật trên không gian mạng.

Ý thức của người trên không gian mạng là việc con người chấp hành chính sách, pháp luật, chuẩn công nghệ, quy tắc nghiệp vụ, đạo đức, chuẩn mực văn hóa khi tham gia vào không gian mạng.

“Chủ quyền quốc gia trên không gian mạng” là quyền tối cao, tuyệt đối, đầy đủ và riêng biệt của quốc gia đó đối với các vùng thông tin do Nhà nước quản lý, kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp bằng chính sách, pháp luật và năng lực công nghệ phù hợp với luật pháp quốc tế. Cũng giống như chủ quyền lãnh thổ, các quốc gia có quyền tối cao, tuyệt đối, hoàn toàn và riêng biệt đối với phạm vi không gian mạng thuộc quyền kiểm soát của mình, tức có chủ quyền quốc gia trên không gian mạng. Việc xác định “chủ quyền quốc gia trên không gian mạng” cần căn cứ vào phạm vi không gian mạng mà một quốc gia được quyền kiểm soát, chi phối trên cơ sở chủ quyền, lợi ích quốc gia và luật pháp quốc tế. Thực chất việc quốc gia xác lập chủ quyền không gian mạng là xác lập quyền quản lý, kiểm soát đối với cơ sở hạ tầng không gian mạng và thông tin được tạo ra, lưu trữ, xử lý và truyền đưa trên đó, được thực hiện thông qua xác lập chủ quyền, quyền tài phán theo luật pháp quốc tế đối với cơ sở hạ tầng mạng thuộc sở hữu của mình cả ở trong và ngoài lãnh thổ quốc gia; đồng thời mã hóa thông tin số truyền đưa trên không gian mạng toàn cầu.

 Cơ sở hạ tầng không gian mạng cấu thành từ hạ tầng truyền dẫn vật lý; hạ tầng các dịch vụ lõi; các dịch vụ, hệ thống ứng công nghệ thông tin và cơ sở dữ liệu. Các thành phần này là các thiết bị vật lý, tương đối ổn định và hữu hình. Mọi quốc gia có quyền kiểm soát cơ sở hạ tầng không gian mạng và các hoạt động trên toàn bộ vùng lãnh thổ có chủ quyền của mình. Cơ sở hạ tầng không gian mạng có thể nằm trong lãnh thổ đất liền, nội thủy, lãnh hải (bao gồm cả thềm lục địa và đáy biển), các quần đảo và không phận quốc gia đều thuộc chủ quyền của quốc gia có chủ quyền với vùng lãnh thổ đó./.

.ankhe.

Tìm hiểu giúp bạn!


Từ 1/6/2024 khi Thông tư 05/2024/TT-BGTVT có hiệu lực thi hành, nếu các thông tin giấy phép lái xe bằng vật liệu PET đã được xác thực trên VNeID thì sẽ được xem là giấy phép hợp lệ.

Ngày 31/3/2024 Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải đã ban hành Thông tư số 05/2024/TT-BGTVT sửa đổi, bổ sung một số điều của các Thông tư liên quan đến lĩnh vực vận tải đường bộ, dịch vụ hỗ trợ vận tải đường bộ, phương tiện và người lái, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/6/2024.

Đáng chú ý, tại khoản 24 Điều 4 (sửa đổi, bổ sung khoản 13 Điều 33 Thông tư số 12/2017/TT-BGTVT) quy định: giấy phép lái xe bằng vật liệu PET hợp lệ là giấy phép lái xe do cơ quan có thẩm quyền cấp, có số phôi, ngày cấp, ngày hết hạn in trên giấy phép lái xe trùng với số phôi, ngày cấp, ngày hết hạn trong hệ thống thông tin quản lý giấy phép lái xe hoặc có thông tin giấy phép lái xe đã được xác thực trên VNeID .

Như vậy, kể từ ngày 1/6/2024 khi Thông tư 05/2024/TT-BGTVT có hiệu lực thi hành, nếu các thông tin giấy phép lái xe bằng vật liệu PET đã được xác thực trên VNeID thì sẽ được xem là giấy phép hợp lệ.

Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 5 Điều 4 (sửa đổi, bổ sung khoản 1, khoản 2 Điều 9 Thông tư số 212/2017/TT-BGTVT), hồ sơ học lái xe đã được đơn giản hóa, người học lái xe lần đầu, nâng hạng là người Việt Nam khi nộp hồ sơ không phải nộp bản sao giấy chứng minh nhân dân hoặc thẻ căn cước công dân hoặc hộ chiếu còn thời hạn có ghi số giấy chứng minh nhân dân hoặc thẻ căn cước công dân.

VTT

ĐẤU TRANH, PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU “CHÍNH TRỊ VIỆT NAM XÁO ĐỘNG”?

Vừa qua trên trang mạng “Bbctiengviet” đăng bài viết: “chính trị Việt Nam xáo động”, với luận điệu hết sức phản động, nhận xét mang tính hồ đồ, chủ quan, áp đặt, khi cho rằng: “chiến dịch “đốt lò” của Việt Nam không giải quyết được cốt lõi vấn đề”, “nỗ lực chống tham nhũng đang gây ra tình trạng tê liệt chính trị” và “chỉ có thay đổi hệ thống chính trị mới giải quyết hiệu quả được nạn tham nhũng”… Đây là những luận điệu sai trái, lạc lõng, mục đích nhằm phủ nhận thành tựu trong công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam, đòi đa nguyên, đa đảng, thay đổi hệ thống chính trị của Việt Nam.

1. Khẳng định rằng, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam hiện nay được xem là vấn đề “nóng”, đã “trở thành xu thế không thể đảo ngược, được đông đảo cán bộ, đảng viên, nhân dân đánh giá cao, bạn bè quốc tế ghi nhận”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra tham nhũng như “giặc nội xâm”, nhiệm vụ chống tham nhũng “cũng cần kíp như đánh giặc trên mặt trận”. Trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước qua gần 40 năm đổi mới, Đảng ta cũng chỉ rõ tham nhũng gây ra rất nhiều hậu quả to lớn, “trở thành vật cản lớn cho thành công của công cuộc đổi mới, sức chiến đấu của Đảng, đe dọa sự tồn vong của Đảng, của chế độ, làm tổn hại thanh danh, uy tín của Đảng, xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Do đó,  Đảng ta xác định, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài; phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục với những bước đi vững chắc, tích cực, chủ động và có trọng tâm, trọng điểm. 

2. Với những nhận thức đúng đắn, sâu sắc về bản chất, hậu quả của tham nhũng, tiêu cực, Đảng ta kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, đề ra các nhiệm vụ, giải pháp phòng, chống tham nhũng, tiêu cực “ngày càng đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, với bước đi, lộ trình phù hợp cho từng giai đoạn phát triển của đất nước”. Những con số về xử lý kỷ luật của Đảng và xử lý hình sự trong các vụ án tham nhũng, kinh tế thời gian qua đã cho thấy quyết tâm rất cao, nỗ lực rất lớn, nói đi đôi với làm của Đảng và Nhà nước ta trong việc phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực. Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực không chỉ là tuyên ngôn, “hô khẩu hiệu” mà đã trở thành quyết tâm chính trị và hành động thực tế của cả hệ thống chính trị. Chưa bao giờ chúng ta xử lý nghiêm khắc nhiều cán bộ sai phạm, nhất là các cán bộ cấp cao như thời gian qua. Điều đó cho thấy, việc này không phải nhằm “che mắt thế gian”, “đấu đá, thanh trừng nội bộ”, “tranh giành quyền lực”, mà thực chất là răn đe, ngăn ngừa để không xảy ra sai phạm, “xử một vài người để cứu muôn người”. 

3. Đảng ta chỉ có một mục tiêu duy nhất trong đấu  tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là vì lợi ích của Đảng, của dân tộc, của đất nước và nhân dân, không phải vì lợi ích của bất cứ cá nhân hay phe cánh nào. Chúng ta “kiên quyết không để lọt vào cấp ủy những cán bộ không đủ tiêu chuẩn, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tiêu cực, tham nhũng”, tăng cường công tác quản lý cán bộ, ban hành các quy định về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, bảo đảm “có vào, có ra, có lên, có xuống” trong công tác cán bộ, kịp thời thay thế những cán bộ bị kỷ luật, năng lực hạn chế, uy tín giảm sút; khẳng định rõ sự đoàn kết, quyết tâm trong việc lựa chọn cán bộ đủ đức, đủ tài, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Thực tế đã chứng minh, mục tiêu của chúng ta đủ lớn, sự đoàn kết và quyết tâm cao thì chúng ta mới có thể đạt được kết quả rất quan trọng, làm cho tham nhũng từng bước được đẩy lùi và có chiều hướng thuyên giảm, kinh tế - xã hội phát triển, an ninh chính trị được giữ vững, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ngày càng nâng lên, niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa được tăng cường… Những hành động, bước đi và kết quả nêu trên của Đảng chính là minh chứng hùng hồn nhất đập tan các luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch./.

.ankhe02.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: THƯỢNG TƯỚNG NGUYỄN TẤN CƯƠNG CHỦ TRÌ BẾ MẠC TẬP HUẤN THAM MƯU TÁC CHIẾN TOÀN QUÂN NĂM 2024!

     Chiều 30-5, tại Trung tâm Huấn luyện Quân sự quốc gia 4, Thượng tướng Nguyễn Tân Cương, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng chủ trì bế mạc lớp tập huấn Tham mưu tác chiến toàn quân năm 2024!

Dự bế mạc tập huấn có các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng: Thượng tướng Huỳnh Chiến Thắng, Phó tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam; Trung tướng Nguyễn Văn Gấu, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam. Cùng dự có Thượng tướng Nguyễn Văn Nghĩa, Phó tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam...

Theo báo cáo của Ban tổ chức lớp học, qua 4 ngày tập huấn các học viên đã được hệ thống lại những vấn đề nguyên tắc, lý luận trong tác chiến phòng thủ quân khu, công tác tham mưu tác chiến phòng thủ quân khu, phương pháp tổ chức chỉ đạo, điều hành diễn tập cấp sư đoàn, diễn tập khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố; các nội dung về công tác Đảng, công tác chính trị; công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật; một số nội dung về phương thức, thủ đoạn tác chiến mới của một số nước trên thế giới... Đây là những nội dung đặc biệt quan trọng và rất cần thiết đối với các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan, đơn vị tiếp thu, nghiên cứu và vận dụng trong tổ chức huấn luyện, diễn tập năm 2024 và những năm tiếp theo...



Yêu nước ST.

HỌC TẬP VÀ LÀM THEO BÁC: HỒ CHÍ MINH VỚI TIÊU CHÍ CÁN BỘ!

     Học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào sự nghiệp đổi mới có nhiều nội dung, nhưng vấn đề quan trọng và cốt lõi nhất là cán bộ. “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc” tiêu chí cán bộ của Hồ Chí Minh rõ ràng, đầy đủ, sâu sắc, mang tính triết lý, vẫn còn có giá trị lớn trong sự nghiệp đổi mới hiện nay!

Cán bộ phải có đức và tài, nhưng đức là gốc, đức là trước hết: Đức tài là điều kiện cần và đủ cơ bản của người cán bộ. Tài ở ngay trong đức; đức chỉ trở thành hiện thực, thành. sức mạnh đạo đức, được chứng tỏ bởi tài. Không “chuyên sâu” làm sao “hồng thắm” được. Đức không chỉ là chính trị, mà còn là khoa học và văn hóa. Tài không đồng nghĩa đồng nhất với bằng cấp, danh vị, danh hiệu mà phải bằng kết quả xác thực của việc làm. Điều mà Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở “nói đi đôi với làm”, “nói ít làm nhiều”, “đã nói thì phải làm”, “không nên nói suông”… cho thấy đó là sự hội tụ đức - tài trong nhân cách, trong hành động của người cách mạng. Không nên “chính trị hóa” đi đến hẹp hòi, đố kỵ với tài năng. Cách mạng là sáng tạo, người cán bộ cách mạng phải có tài năng để sáng tạo. Hồ Chí Minh đặt quan hệ đức - tài và tài - đức trong một thể thống nhất không tách rời. Càng coi đức là gốc thì cũng phải coi trọng tài. Bởi chỉ những người không bó hẹp, không luẩn quẩn trong suy tính cá nhân thì mới say mê với công việc, mới sáng tạo, mới thành tài được. Đạo đức chính là ở hành động trong cuộc sống. Người cách mạng phải là người hiểu biết, có năng lực hành động và có bản lĩnh. Rõ ràng tài ngay ở trong đức; người có tài, với ý nghĩa tích cực phải là người có đức. Tài năng thể hiện ở cái trí, cái tầm, gắn với cái tâm, thống nhất trong mối quan hệ tài - đức. Đức là gốc, nhưng tài là chất dinh dưỡng làm cho gốc đạo đức có sức sống, có mục đích. Đức để hành động, để vươn tới đòi hỏi tài phải sáng tạo. Đức - tài được thể hiện ở hiệu quả xã hội, ở thúc đẩy sự phát triển, phụng sự Nhân dân và Tổ quốc. Mục đích của tài để làm gì, để phục vụ ai, đó chính là đức. “Cây phải có gốc… Người cách mạng không có đạo đức dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Nên đức là gốc là trước hết.

Cán bộ là đầy tớ trung thành của nhân dân: Người cán bộ cách mạng từ dân mà ra, được Đảng tín nhiệm, được dân tin cậy giao phó thì phải lo phục vụ dân, phải tận tâm với dân; không vụ lợi, không tham ô, không quan liêu hách dịch, không “đứng trên dân”. Người cán bộ do dân giao việc, nên lo phụng sự cho dân, hết mình vì dân, làm đầy tớ cho dân là đương nhiên. Nhưng trong thực tế diễn ra khi có chức quyền rồi một bộ phận không ít quay mặt lại với dân, “ăn trên ngồi trốc”, coi dân không ra gì. Bác phát hiện điều này rất sớm và thấy diễn ra khá phổ biến trong thực tế, vì thế nên hầu như ở đâu và lúc nào Bác cũng căn dặn cán bộ là “công bộc của dân”, dân là chủ, cán bộ phải là “đầy tớ thật trung thành của dân”.

Đã là cán bộ thì phải gương mẫu. Gương mẫu trong hành động, trong việc làm, trong cuộc sống chứ không phải “lý thuyết suông”. Bác căn dặn: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Tất nhiên, cán bộ thì phải biết tuyên truyền, thuyết phục để dân hiểu chủ trương chính sách, nhưng thế chưa đủ, dân nhìn xem cán bộ nói có như làm không. Khi mới ra đời điều cao quý nhất mà Đảng có được đó chính là tấm gương hy sinh, chính là hành động của những người cộng sản của cán bộ, đảng viên, mà Bác Hồ là tiêu biểu. Trong quá trình cách mạng trước bao gian truân, thử thách, người cán bộ cách mạng đều vượt qua, nêu tấm gương sáng để tập hợp quần chúng. Ngày nay với công cuộc đổi mới càng rất cần sự nêu gương. Trong cơ chế thị trường trước bao cám dỗ, tiêu cực thì tấm gương tốt của người cán bộ nhất là người đứng đầu có sức thuyết phục và cảm hóa được dân, để dân tin vào Đảng vào chế độ. Cuộc đời của Bác Hồ là tấm gương đời thường và gần gũi cho toàn Đảng toàn dân ta soi, đi theo con đường cách mạng mà Người vạch ra. Các thế hệ cán bộ ngày nay làm theo Bác, học Bác thiết thực nhất là vượt lên chính mình ra sức tu dưỡng rèn luyện, hết lòng vì dân, vì nước nêu tấm gương sáng theo yêu cầu Đảng đã nêu ra.

Cán bộ phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Đây là nội dung cơ bản, cốt lõi, cô đọng, đầy đủ đối với mọi cán bộ ở mọi cấp, mọi ngành, mọi nơi, mọi lúc để cán bộ tự soi, tự sửa mình xem đã tu dưỡng, rèn luyện, thực hiện được đến đâu, đã công tâm đã vô tư chưa. Hãy xem cán bộ ta đã đem hết tâm trí vì công việc, đã hết lòng hết sức vì dân chưa hay còn tắc trách. Hãy xem đã tiết kiệm thực sự chưa hay còn lãng phí tiền của, lãng phí thời gian, công sức, lãng phí chất xám… Hãy xem cán bộ ta đã thực sự liêm chính chưa hay còn phô trương thành tích, còn thiếu trung thực, thiếu minh bạch, còn dối trá trong thực thi công việc, trong ứng xử, còn “tham tiền của, tham địa vị, tham danh tiếng… làm điều bất liêm”. Bác dặn: “Phải liêm chính để làm kiểu mẫu cho dân”.

Những nội dung mà Hồ Chí Minh đặt ra với người cán bộ luôn bắt gặp trong đời thường. Mỗi cán bộ dễ nhớ, dễ làm, dễ phấn đấu. Điều tuyệt vời là Người nói về cán bộ không lý luận gì cao xa, ở đâu lúc nào vận dụng sáng tạo nghiêm túc thì ở đó lúc đó sẽ thành công. Trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam bài học lớn nhất mà Hồ Chí Minh để lại đó là bài học dùng người. Khi Đảng chưa giành được chính quyền Người đã chọn cử những thanh niên trí thức yêu nước, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng để đào tạo bồi dưỡng thành những cán bộ nòng cốt của Đảng. Khi đã giành được chính quyền, dưới ngọn cờ độc lập, Hồ Chí Minh đã chủ trương và đã chọn những cán bộ có đức có tài trong mọi tầng lớp Nhân dân tham gia vào chính quyền; Người đã tập hợp được những nhân tài không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài từ bỏ mọi danh vọng về nước chung sức gánh vác công việc kháng chiến, kiến quốc. Khi tiến hành xây dựng CNXH Người nói: “Muốn có CNXH phải có con người XHCN”, “Phải nâng cao đạo đức cách mạng, quyét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Người rất quan tâm đến giáo dục đào tạo, mở rộng nền giáo dục và phát triển khoa học kỹ thuật để đào tạo bồi dưỡng nhân tài; ngay trong chiến tranh vẫn chủ trương cử những thanh niên ưu tú ra nước ngoài học tập để về xây dựng đất nước. Có thể nói lớp lớp cán bộ, qua các thời kỳ cách mạng phấn đấu rèn luyện theo tiêu chí Hồ Chí Minh nêu ra đảm đương và làm tròn sứ mệnh của mình, đóng góp quyết định vào thành công của cách mạng Việt Nam.

Trong quá trình phát triển của cách mạng, Đảng ta luôn nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh đốn Đảng, đặc biệt vận dụng sáng tạo triết lý cán bộ của Người vào việc đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục đội ngũ cán bộ đủ tâm, đức, đủ tầm, đủ niềm tin “thực sự có năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ” đảm đương tốt trọng trách mà Đảng và Nhân dân giao phó./.
Yêu nước ST.

 KIÊN QUYẾT KHÔNG ĐỂ CHO NHỮNG K.Ẻ "LẠC LOÀI" XÚC PHẠM ĐẾN QUÊ HƯƠNG QUẢNG TRỊ ANH HÙNG VÀ ANH LINH CÁC ANH HÙNG LIỆT SĨ ĐÃ NẰM LẠI NƠI ĐÂY.


Mình không phải là người Quảng Trị và từ khi có cái gọi là "bậc chân tú" gì đó xuất hiện trên cõi mạng, kéo theo không ít những hệ lụy cho xã hội nói chung và Phật giáo nước nhà nói riêng.., mình cũng không tham gia bình phẩm hay đăng tải gì. Nhưng mới đây, vào tối ngày 28/05, khi cái gọi là "bậc chân tú" và đám đông đi theo ông ta không được dừng nghỉ tại các nghĩa trang liệt sĩ ở Quảng Trị và Di tích lịch sử quốc gia Đôi bờ Hiền Lương - Bến Hải thì đã có rất nhiều k.ẻ đã tỏ ra bức xúc, lên án và thốt ra những lời lẽ cay đ.ộc xúc phạm đến quê hương Quảng Trị anh hùng và anh linh của các anh hùng liệt sĩ đã nằm lại nơi đây để đất nước có hòa bình, độc lập, tự do và phát triển như ngày hôm nay thì mình không thể im lặng được nữa mà phải lên tiếng và đấu tranh phê phán cái thói "a dua", "theo đóm ăn tàn", " vô tình, vô nghĩa" và "b.ố láo"...của những k.ẻ "vô ơn".


Họ, những k.ẻ tự nhận và được cho là tâm "hướng Phật" vậy mà khi đi tới một nơi linh thiêng của Tổ Quốc lại không có một ai cảm thấy tự hào, không một ai cúi đầu hay thắp một nén tâm nhang để tri ân, tưởng nhớ, thể hiện lòng biết ơn đối với các thế hệ cha anh của "Thời hoa lửa" đã bằng xương m.áu của mình làm nên đất nước. Ngược lại, khi không được đáp ứng cái "nguyện vọng cá nhân, ích kỷ, hẹp hòi" thì ngay lập tức buông ra những lời cay đ.ộc, ng.uyền r.ủa tỉnh Quảng Trị là “mất phước”, là lòng dạ hẹp hòi, bảo sao chiến tranh ch.ế.t nhiều và hàng năm có lũ lụt…rồi còn nói nơi này có nhiều liệt sĩ là vì vô phước...😡😡😡


Nghĩa trang liệt sĩ và di tích lịch sử cấp quốc gia đâu phải là nơi để  cho những k.ẻ "vô công dồi nghề" nghỉ ngơi, ăn uống, tu tập "diễn trò". Khi được cán bộ địa phương và Ban quản lý đi tích nhắc nhở và khuyên "đoàn tu tập" là nên đi chỗ khác nghỉ ngơi vì đây là nơi thờ cúng các anh hùng liệt sĩ và di tích lịch sử cấp quốc gia, lực lượng an ninh mỏng nên không thể bảo đảm được an toàn và giữ gìn được an ninh trật tự...ngay sau đó đã có nhiều TikToker, Youtuber "theo đóm ăn tàn" cắt ghép, nhét chữ thành “m.ày b.i.ến đi”, “mày l.ư.ợn đi” để tạo dư luận xấu, khiến nhiều người hiểu sai về bản chất của vấn đề. Một số k.ẻ đã tràn vào Facebook cá nhân của một số cán bộ và lớn tiếng đe dọa rằng sẽ đ.á.nh khi gặp các cán bộ ở ngoài…😡😡


Những k.ẻ muốn vào đó, nghỉ ở đó và những k.ẻ "ăn theo" lên mạng buông lời cay đ.ộc, xúc phạm miệt thị nơi đây đã biết những gì về quê hương Quảng Trị anh hùng, về cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng trị trong 81 ngày đêm từ (28/6/1972 - 16/9/1972).??? 


Và trong 81 ngày đêm đó, quân và dân nơi đây chiến đấu chống lại k.ẻ thù xâm lược như thế nào, có bao nhiêu người đã hy sinh tại Thành cổ, bao nhiêu người còn nằm lại dưới dòng sông Thạch Hãn hay không..???


Nhà thơ Lê Bá Dương, khi đến thăm lại nơi đây đã từng viết: "Đò lên Thạch Hãn ơi.. chèo nhẹ. Đáy sông còn đó bạn tôi nằm. Có tuổi hai mươi Thành sóng nước. Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm".


81 ngày đêm “hoa lửa” bảo vệ Thành cổ Quảng Trị đã trở thành huyền thoại. Sự hy sinh, mất mát của quân dân cả nước nói chung, quân dân Quảng Trị nói riêng làm sáng ngời chân lý “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” và “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Từ trong bom đạn ấy, hàng nghìn tấm gương anh hùng liệt sĩ đã trở thành những bài học thực tiễn sinh động về lòng quả cảm, về chủ nghĩa yêu nước, về truyền thống anh hùng cách mạng...Vậy mà lại phải chịu đựng sự xúc phạm đến cay đ.ộc của những k.ẻ "vô tri" như thế.


Thiết nghĩ, cơ quan chức năng các cấp cần phải vào cuộc một cách đồng bộ, quyết liệt để chấn chỉnh, cần thiết thì "dẹp bỏ" ngay những hiện tượng như trên, để thiết lập lại trật tự kỷ cương và trả lại sự bình yên cho cuộc sống nói chung và trả lại sự tôn trọng cần có đối với quê hương Quảng trị anh hùng và anh linh các anh hùng liệt sĩ nơi đây./. 


Nguyễn Đoàn

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: HỎI - ĐÁP PHÁP LUẬT!

         Trong trường hợp nào công dân được tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ tham gia dân quân tự vệ trong thời bình?
* Bạn đọc Nguyễn Văn Hùng ở xã Yên Quang, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, hỏi: Đề nghị tòa soạn cho biết trong trường hợp nào công dân được tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ tham gia dân quân tự vệ trong thời bình?
Trả lời: Nội dung bạn hỏi được quy định tại Khoản 1 Điều 11 Luật Dân quân tự vệ. Cụ thể trong trường hợp sau đây:

- Phụ nữ mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi; nam giới một mình nuôi con dưới 36 tháng tuổi;

- Không đủ sức khỏe thực hiện nhiệm vụ của dân quân tự vệ;

- Có chồng hoặc vợ là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công chức, viên chức, công nhân quốc phòng, hạ sĩ quan, binh sĩ đang phục vụ trong Quân đội nhân dân;

- Có chồng hoặc vợ là sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân công an đang phục vụ trong Công an nhân dân;

- Có chồng hoặc vợ là cán bộ, công chức, viên chức, thanh niên xung phong được điều động đến công tác, làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật;

- Lao động duy nhất trong hộ nghèo, hộ cận nghèo; người phải trực tiếp nuôi dưỡng thân nhân không còn khả năng lao động hoặc chưa đến tuổi lao động; người trong hộ gia đình bị thiệt hại nặng về người và tài sản do tai nạn, thiên tai, dịch bệnh nguy hiểm gây ra được chủ tịch UBND cấp xã, chủ tịch UBND cấp huyện nơi không có đơn vị hành chính cấp xã, người đứng đầu cơ quan, tổ chức nơi công dân cư trú hoặc làm việc xác nhận;

- Vợ hoặc chồng, một con của thương binh, bệnh binh, người bị nhiễm chất độc da cam suy giảm khả năng lao động từ 61% đến 80%;

- Người đang học tại trường của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân; người đang lao động, học tập, làm việc ở nước ngoài./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: HỎI - ĐÁP PHÁP LUẬT!

     Tội vô ý làm lộ bí mật nhà nước; tội làm mất vật, tài liệu bí mật nhà nước bị xử phạt như thế nào?
Bạn đọc Trần Thanh Thủy ở xã Châu Khánh, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng hỏi: Đề nghị tòa soạn cho biết, tội vô ý làm lộ bí mật nhà nước; tội làm mất vật, tài liệu bí mật nhà nước bị xử phạt như thế nào?
Trả lời: Vấn đề bạn hỏi được quy định tại Điều 338 Văn bản hợp nhất Bộ luật Hình sự. Cụ thể như sau:

1. Người nào vô ý làm lộ bí mật nhà nước hoặc làm mất vật, tài liệu bí mật nhà nước thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm:

a) Bí mật nhà nước thuộc độ tối mật, tuyệt mật;

b) Gây tổn hại về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, văn hóa, chế độ chính trị, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm.

* Bạn đọc Nguyễn Văn Tâm ở xã Tân Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình hỏi: Đề nghị tòa soạn cho biết, chính sách tạo việc làm đối với người khuyết tật được quy định như thế nào?
Trả lời: Nội dung bạn hỏi được quy định tại Điều 33 Văn bản hợp nhất Luật Người khuyết tật số 35/VBHN-VPQH ngày 16-12-2019. Cụ thể như sau:

1. Nhà nước tạo điều kiện để người khuyết tật phục hồi chức năng lao động, được tư vấn việc làm miễn phí, có việc làm và làm việc phù hợp với sức khỏe và đặc điểm của người khuyết tật.

2. Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân không được từ chối tuyển dụng người khuyết tật có đủ tiêu chuẩn tuyển dụng vào làm việc hoặc đặt ra tiêu chuẩn tuyển dụng trái quy định của pháp luật nhằm hạn chế cơ hội làm việc của người khuyết tật.

3. Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là người khuyết tật tùy theo điều kiện cụ thể bố trí sắp xếp công việc, bảo đảm điều kiện và môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật.

4. Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là người khuyết tật phải thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật về lao động đối với lao động là người khuyết tật.

5. Tổ chức giới thiệu việc làm có trách nhiệm tư vấn học nghề, tư vấn và giới thiệu việc làm cho người khuyết tật.

6. Người khuyết tật tự tạo việc làm hoặc hộ gia đình tạo việc làm cho người khuyết tật được vay vốn với lãi suất ưu đãi để sản xuất, kinh doanh, được hướng dẫn về sản xuất, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm theo quy định của Chính phủ./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: THỰC HIỆN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ “TRUNG VỚI NƯỚC, HIẾU VỚI DÂN” TRONG RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC NGƯỜI CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN!

     “Trung với nước, hiếu với dân” được Hồ Chí Minh coi “là mục đích, là khẩu hiệu” của cán bộ, đảng viên. Tư tưởng đó có giá trị rất lớn, là chỉ dẫn đối với việc rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay!

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về “trung với nước, hiếu với dân”
“Trung” và “Hiếu” là chuẩn mực cơ bản của đạo đức truyền thống. Trên cơ sở phát huy giá trị truyền thống kết hợp tư tưởng đạo đức cách mạng người cộng sản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển thành chuẩn mực đạo đức cách mạng, Người chỉ dẫn: “Đạo đức, ngày trước thì chỉ trung với vua, hiếu với cha mẹ. Ngày nay, thời đại mới, đạo đức cũng phải mới. Phải trung với nước. Phải hiếu với toàn dân, với đồng bào”.

Trung với nước là trung thành với lợi ích của đất nước, lợi ích của nhân dân. Lợi ích của đất nước là độc lập, tự do cho Tổ quốc và hạnh phúc cho nhân dân; là lợi ích chung của các giai cấp, tôn giáo, dân tộc và các thành phần trong xã hội. Hồ Chí Minh khẳng định, ai đã là người Việt Nam thì ít nhiều cũng yêu nước, nên “trung với nước” là đạo đức của tất cả các thành phần, các cá nhân trong xã hội.

Trung với Đảng nghĩa là người cán bộ, đảng viên suốt đời đi theo mục tiêu, lý tưởng của Đảng, phấn đấu vì sự nghiệp cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác”. Trung với Đảng chính là “chấp hành triệt để đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, hăng hái thi đua yêu nước, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong mọi tình huống”.

Hiếu với dân là sự kính trọng nhân dân, lễ phép với dân, tin vào dân, lắng nghe ý kiến của dân, gần gũi với dân, hòa với dân thành một khối, thương dân, yêu dân, chăm lo lợi ích của nhân dân, phục vụ nhân dân hết lòng.

Theo Người, “dân” là tất cả những ai là con Lạc cháu Hồng, con Rồng cháu Tiên. “Dân” là không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, nam nữ, tôn giáo, sắc tộc, không phân biệt giữa người Việt Nam ở trong nước với người Việt Nam ở nước ngoài. Người thường dùng hai từ “đồng bào” để nói về mối quan hệ cùng dòng máu của người Việt Nam và khẳng định: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một” và Người chỉ dẫn “hiếu với dân” chính là phải yêu thương, kính trọng, chăm lo, vun vén, bảo vệ lợi ích, mang lại lợi ích cho tất cả mọi người.

Vậy nên, Người dùng từ “Hiếu” trong mối quan hệ với dân để thấy được chiều sâu của nguồn cội dân tộc, thấy được sự kết nối từ quá khứ đến hiện tại, thấy được tình thân của giống nòi, của gia đình lớn, thấy được sự bình đẳng, không phân biệt. Chữ “Hiếu” trong tư tưởng Hồ Chí Minh được mở rộng biên độ, đối tượng nhưng cũng rất thực tế. Chữ “Hiếu” trong gia đình nhỏ được đặt cao nhất thì vị trí của chữ “hiếu” trong cộng đồng của gia đình lớn cũng tương tự như vậy.

Lịch sử Việt Nam mấy nghìn năm là lịch sử dựng nước và giữ nước. Nhiều thế hệ cha ông đã hy sinh xương máu để bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Sự sống ngày hôm nay là sự tiếp nối của ngày hôm qua nên Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Bởi vậy “hiếu với dân” là thể hiện lòng biết ơn đối với đất nước, đối với các thế hệ cha ông.

Thầy của cụ Phan Bội Châu là cụ Nguyễn Đức Đạt đã nói về mối quan hệ gần gũi của bản thân với dân: “Yêu như yêu thân mình, kính như kính thân mình. Ôi! Dân là người bảo vệ cho thân mình, chẳng yêu sao được? Lại là người chủ tế của thân mình, chẳng kính sao được”. Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân”. Vì vậy mà phải kính dân, yêu dân, chăm lo lợi ích cho dân.

Trong mối quan hệ giữa nước và dân thì sức mạnh của nước nằm ở nơi dân, nước và dân tuy hai mà một. “Trung với nước” là thực hiện mục tiêu bao trùm lên lợi ích của toàn thể dân tộc; “hiếu với dân” là thực hành trong mối quan hệ với đối tượng cụ thể là nhân dân (giai cấp, tầng lớp, cộng đồng, tập thể, cá nhân) mà đích cuối cùng đều là thực hiện mục tiêu chung cho quốc gia, dân tộc. “Trung với nước” được thể hiện thông qua “hiếu với dân”, hiếu với dân là góp phần thực hiện “trung với nước”.

“Trung với nước, hiếu với dân” là đạo đức, là văn minh.
Khi nói “trung với nước” là hướng đến sự gắn bó với dân, với lợi ích của số đông và khắc phục được tính chủ quan, phụ thuộc vào một cá nhân như chuẩn mực đạo đức cũ là “trung với vua”. Thực hiện “trung với nước” là con người thể hiện nghĩa vụ, trách nhiệm và sự cống hiến của mình với đất nước; khẳng định vai trò, trách nhiệm trước cộng đồng. Lợi ích giữa dân tộc và giai cấp, tập thể và cá nhân là thống nhất, có mối liên hệ mật thiết. Lợi ích của các cá nhân nằm trong lợi ích của giai cấp, dân tộc. Nước mà độc lập thì dân mới có tự do, nước mà nô lệ thì dân cũng là nô lệ. Nước nghèo thì dân khổ, nước giàu thì dân được hưởng ấm no, hạnh phúc. Bởi vậy, khi thực hiện lợi ích cá nhân thì không thể tách rời với việc bảo vệ, chăm lo, phấn đấu vì lợi ích cộng đồng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bày tỏ: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Dân tộc được độc lập, quốc gia được thịnh vượng, mục đích cũng là để nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Với Người, “trung với nước, hiếu với dân” cũng chính là “yêu nước, thương dân”. Yêu nước, thương dân phải thể hiện tinh thần thái độ hăng hái, phải thông qua hành động cụ thể, phải thực hiện mục tiêu vì nước vì dân. Hồ Chí Minh cho rằng: “Đã phụng sự nhân dân, thì phải phụng sự cho ra trò. Nghĩa là việc gì lợi cho dân, thì phải làm cho kỳ được. Việc gì hại cho dân, thì phải hết sức tránh”.

Đối với cán bộ, đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã diễn đạt ngắn gọn mục tiêu này là: cán bộ, đảng viên phải có Đức và Tài, trong đó Người khẳng định “Đức là gốc”. Theo Người: “Mọi việc thành hay là bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng, hay là không”. Thực tế cách mạng cho thấy, đạo đức của người cán bộ, đảng viên là nhân tố quyết định nhất đến niềm tin của nhân dân với Đảng: “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”, coi đây là chuẩn mực trung tâm, là phẩm chất cốt lõi trong những phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên. Năm 1946, trong Lễ khai trường tại trường Võ bị Trần Quốc Tuấn, Người phát biểu rất ngắn gọn: “Mong rằng anh em ở đây, bao giờ cũng phải làm theo hai khẩu hiệu mà nó là cái mục đích của anh em: trung với nước, hiếu với dân”. Một lần khác, trong thư gửi cho trường Trần Quốc Tuấn nhân dịp khai giảng khóa IV, Người tiếp tục nhấn mạnh: “Tôi vui lòng tặng trường 6 chữ: Trung với nước, hiếu với dân”. Người khẳng định: “Đạo đức cách mạng có thể nói tóm tắt là: Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân”.

2. Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về “trung với nước, hiếu với dân” trong rèn luyện đạo đức người cán bộ, đảng viên
Trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có nhiều biến động, tác động nhiều chiều đến tâm tư, tình cảm, niềm tin của người cán bộ, đảng viên, việc cán bộ, đảng viên học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Trước hết, cán bộ, đảng viên thực hiện “trung với nước, hiếu với dân” với các nội dung sau:

Trung với nước phải thể hiện ở sự trung thành tuyệt đối với lợi ích của đất nước, của nhân dân, của Đảng, của tổ chức mà mình tham gia.
Trung với nước trước tiên là phải có niềm tin tuyệt đối vào lý tưởng của Đảng và phấn đấu cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Niềm tin phải từ ý chí vươn lên thoát khỏi đói nghèo, khát vọng vươn lên hạnh phúc, giàu có và thịnh vượng, khát vọng được cống hiến cho xã hội, như Đại hội XIII của Đảng đã xác định: Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Người cán bộ, đảng viên cần xây dựng niềm tin vào sức mạnh của dân tộc, vào sự lãnh đạo của Đảng, vào khả năng của mỗi con người để từ đó phát huy tinh thần tự lực, tự cường, tự chủ của cả dân tộc. Niềm tin đó phải được bồi dưỡng thường xuyên trên cơ sở khoa học và thực tiễn để trở thành niềm tin khoa học mang tính bền vững. Niềm tin đó là cơ sở cho sự trung thành đối với đất nước, dân tộc, đối với Đảng của cán bộ, đảng viên.

Cán bộ, đảng viên phải gương mẫu, nghiêm túc thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nội quy, quy định của cơ quan, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Mỗi cán bộ, đảng viên là một mắt xích trong hệ thống chính trị, thực hiện nhiệm vụ mà tổ chức giao. Vì vậy, cán bộ, đảng viên cần ý thức về vị trí, vai trò của mình trong hệ thống để thực hiện nhiệm vụ một cách nghiêm túc, trách nhiệm, chuẩn mực, đúng luật, đúng với quy định của tổ chức.

Cán bộ, đảng viên phải luôn quan tâm, bảo vệ lợi ích của đất nước, của tổ chức mình tham gia. Bởi lợi ích chung được bảo đảm thì lợi ích của bộ phận, cá nhân mới được bảo đảm. Phải luôn đặt việc công lên trên việc tư, luôn quy chiếu lời dạy của Hồ Chí Minh: “Việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm. Việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh”. Giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể luôn phải cân bằng, bảo đảm lợi ích chung và xem xét những lợi ích cá nhân có chính đáng hay không; tránh tư thù, tư lợi, bè phái, trù dập; vì cảm tình riêng, lợi ích riêng mà gây ra bất bình đẳng, bất công trong cơ quan, đơn vị.

Hiếu với dân trong điều kiện hiện nay là tôn trọng nhân dân, chăm lo lợi ích cho nhân dân, đặc biệt là không ngừng mở rộng dân chủ nhằm phát huy sức mạnh của nhân dân.
Cán bộ, đảng viên muốn hoàn thành nhiệm vụ được giao thì phải dựa vào dân, phát huy sức mạnh của nhân dân. Muốn vậy, phải biết gần dân, hiểu dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, liên hệ mật thiết với nhân dân, làm lợi cho dân. Ngoài phục vụ nhân dân, cán bộ, đảng viên còn cần thể hiện thái độ khiêm tốn, thật thà đối với nhân dân.

Mở rộng dân chủ là nội dung cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, là mục tiêu, động lực của công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước, được Đảng, Nhà nước luôn rất quan tâm. Mở rộng dân chủ là phương pháp để người dân ý thức tự nâng cao trình độ, nâng cao sự hiểu biết và tích cực, chủ động tham gia phản biện, giám sát Nhà nước. Vì vậy, càng đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên phải phục vụ người dân đúng chức trách, phải tuân thủ những chuẩn mực của đạo đức công vụ, phải tận tâm, tận lực. Mở rộng dân chủ cũng tạo điều kiện tăng cường đoàn kết toàn dân, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.

Cán bộ, đảng viên cần coi mục tiêu chăm lo lợi ích cho nhân dân, làm lợi cho nhân dân là mục tiêu lớn nhất trong công việc của mình. Bởi nhân dân là nguồn lực xã hội mang lại lợi ích chung cho toàn xã hội. Là những người có kiến thức khoa học, hiểu biết pháp luật, cán bộ, đảng viên cần chủ động hướng dẫn nhân dân học tập, lao động, sản xuất, xây dựng đời sống hạnh phúc, giàu mạnh và phát triển.

Cán bộ, đảng viên cần đi đầu trong hoạt động đền ơn, đáp nghĩa đối với những người có công với cách mạng, với đất nước, quê hương, thể hiện sự tiếp nối truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

“Trung với nước, hiếu với dân” không chỉ là trách nhiệm mà còn là đạo lý của cán bộ, đảng viên. Cán bộ, đảng viên phải chủ động, sáng tạo, hết lòng, hết sức làm tròn những việc được giao, nếu không làm tốt thì phải chịu trách nhiệm về những hậu quả của việc đó. Cán bộ, đảng viên thực hành đạo đức “trung với nước, hiếu với dân” là làm đúng đường lối của Đảng, quy định của pháp luật; làm đúng với đạo lý uống nước nhớ nguồn, mang lại lợi ích cho bản thân và cộng đồng. Thực hiện “trung với nước, hiếu với dân”, cán bộ, đảng viên, cán bộ chiến sĩ lực lượng vũ trang “sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”./.
Yêu nước ST.

CÙNG ĐỘC VÀ SUY NGẪM: ĐỀ NGHỊ CÁC CƠ QUAN CÓ THẨM QUYỀN GIẢI THÍCH RÕ?

     Chúng tôi, công dân nước CHXHCNVN yêu cầu Ban Tuyên giáo Trung Ương, Bộ Thông tin và Truyền thông trả lời: “chế độ cũ là chế độ nào? Được quy định ở đâu trong Hiến Pháp?
     Ngày 28/5/2024, hàng loạt báo chí truyền thông Cách mạng Việt Nam đồng loạt đưa tin về sự cố mà báo chí gọi là “gây tranh cãi” về sự xuất hiện của cờ 3 sọc ngụy Sài Gòn trên đầu giường của gia đình Giang Quốc Nghiệp và Lê Như Ngọc Mai (O sen Ngọc Mai), đang có chuyến du lịch và biểu diễn tại Mỹ.

     Việc sử dụng lá cờ ba sọc của tổ chức khủng bố, Việt gian bán nước, tay sai của đế quốc Mỹ và chư hầu, tội phạm chiến tranh này hiển nhiên là hành vi công khai phản bội Tổ Quốc, đây hoàn toàn không phải là hành vi “gây tranh cãi” như báo chí Truyền thông Cách Mạng Việt Nam đã nói. Phải chăng báo chí Việt Nam đang cố gắng giảm tội cho những kẻ thực tế đã phản bội Tổ Quốc và công khai chống lại Nhân dân Việt Nam? Nhưng vấn đề nghiêm trọng hơn không nằm ở sự cố bẩn thỉu, khi các nghệ sĩ có truyền thống cứ sang Mỹ và phương Tây là quay lại chống lại dân tộc, chống lại đất nước, nơi chôn nhao cắt rốn của họ, nuôi họ nên người, cho họ có được khả năng rạng danh trên thế giới và được hưởng thụ những lợi ích mà hàng chục triệu những Cựu chiến binh, nạn nhân chất độc màu da cam, nạn nhân chiến tranh, những nạn nhân đã bị Mỹ - ngụy tàn sát dã man trong cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo và bẩn thỉu nhất của lịch sử loài người.

     Vấn đề là hầu như tất cả các trang báo Truyền thông Cách mạng Việt Nam, nằm dưới quyền quản lý của Ban Tuyên giáo Trung Ương, thuộc quyền quản lý của Bộ Thông tin và Truyền thông đều sử dụng cụm từ “chế độ cũ”, “chế độ Sài Gòn cũ”, “việt nam cộng hòa”. Đây là hành vi công khai chống lại Hiến Pháp Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Theo Hiến Pháp năm 1946 của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Việt Nam là quốc gia có độc lập chủ quyền, liền một dải từ Mục Nam Quan đến mũi Cà Mau, vậy cái gọi là “chế độ cũ” là chế độ nào? Theo các văn bản của Nước Việt Nam DC-CH và theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, ngụy quyền Sài Gòn là một tổ chức chính trị bất hợp pháp, Việt gian bán nước và tay sai của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ dựng lên nhằm xâm lược, nô dịch và tàn sát Nhân dân Việt Nam.
Do đó, hành vi sử dụng cụm từ “chế độ cũ”, “chế độ Sài Gòn cũ” là hành vi công khai chống lại Điều 1 và Điều 4 Hiến Pháp nước CHXHCNVN? 

     Vì sao truyền thông Việt Nam có quyền công khai vi phạm Hiến Pháp mà không phải chịu trách nhiệm Hình sự? Vì sao các cơ quan chức năng như Ban TGTW, Bộ TT&TT có được đặc quyền cho phép các cơ quan báo chí Việt Nam công khai vi phạm Hiến Pháp, xâm hại nguyên tắc Độc lập, Chủ quyền và Toàn vẹn Lãnh thổ của đất nước Việt Nam?

     Cần nhớ, cựu chủ tịch nước, cựu Trưởng ban TGTW Võ Văn Thưởng, khi chỉ đạo xây dựng bộ phim tài liệu VNTĐHCM-BNSTH cũng đã cho phép công khai sử dụng cụm từ “vnch”. Ông ta buộc phải từ chức do vi phạm “những điều đảng viên không được làm! Dường như việc chỉ đạo sử dụng cụm từ “vnch là một phần trong những điều “đảng viên không được làm” mà ông ta vi phạm.

     Cho đến nay, truyền thông Việt Nam đã rất nhiều lần công khai vi phạm Hiến Pháp, sử dụng cụm từ “vnch” “chính quyền Sài Gòn” “chế độ cũ”…Bộ GD&ĐT, trong chương trình GDPT năm 2018, sử dụng Sách giáo khoa do ông giáo sư – tiến sĩ Nguyễn Minh Thuyết làm tổng chủ biên, sử dụng nguồn vay 80 triệu USD từ WB và IMF cũng công khai sử dụng cụm từ “chính quyền Sài Gòn” vi phạm Hiến Pháp, nhưng đến nay sách vẫn lưu hành và đầu độc nhân dân Việt Nam.

     Trong mọi tình huống, xét từ các mẫu như Đinh La Thăng, Trương Minh Tuấn và ví dụ gần đây nhất của các quan chức Việt Nam, dễ dàng nhận thấy, các hành vi tôn vinh, sùng kính những kẻ, những tổ chức Việt gian bán nước đều liên quan đến các vụ trọng án về tham nhũng, khi các quan chức đã có quá nhiều tiền và họ sử dụng quyền lực trong tay để tạo dựng maidan, bạo loạn, lật đổ nhằm rửa tiền và xin thẻ xanh, quốc tịch hai như Phạm Phú Quốc.

     Vậy có hay không hành vi dung túng chống phá Hiến Pháp Việt Nam nhằm mục đích gây dựng nguy cơ DBHB, bạo loạn lật đổ và khủng bố từ trên cao? Khi các cơ quan chức năng như Ban TGTW, Bộ TTTT đang thả lỏng cho báo chí Việt Nam sử dụng cụm từ “chế độ cũ, chế độ Sài Gòn cũ, việt nam cộng hòa”.

     Chúng tôi, công dân Nước CHXHCNVN yêu cầu Ban Tuyên giáo Trung Ương, Bộ Thông tin và Truyền thông trả lời?




Yêu nước ST.