Thứ Bảy, 1 tháng 6, 2024

CHỦ QUYỀN QUỐC GIA VIỆT NAM TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG HIỆN NAY

Quan niệm của một số nước về chủ quyền trên không gian mạng 

 Trên thế giới, nhiều các quốc gia sử dụng một số thuật ngữ khác nhau như “Cyber security” hoặc “Network security” để chỉ an ninh, an toàn mạng; “Information security” hay “Security of information” để chỉ an ninh, an toàn thông tin. 

Mỹ giải thích khái niệm “Information security” là an ninh, an toàn thông tin. Trong Luật “Federal Information Security Management Act of 2002” (H.R. 2458 - 48) và Luật “Federal Information Security Modernization Act of 2014” (Public Law 113-283, 113th Congress) giải thích như sau: Thuật ngữ “an ninh, an toàn thông tin” có nghĩa là bảo vệ thông tin và hệ thống thông tin không bị truy cập trái phép, sử dụng, tiết lộ, gián đoạn, thay đổi hoặc phá hoại nhằm bảo đảm tính nguyên vẹn (nghĩa là bảo vệ chống lại việc sửa đổi hoặc phá hoại thông tin trái phép, bao gồm việc bảo đảm thông tin xác thực và không bị gián đoạn); tính bảo mật (nghĩa là hạn chế quyền tiếp cận và tiết lộ thông tin, bao gồm cả việc bảo vệ thông tin cá nhân và thông tin riêng); tính khả dụng (nghĩa là bảo đảm cho việc có thể truy cập được và sử dụng được thông tin một cách kịp thời và tin cậy).

Trung Quốc giải thích khái niệm “an ninh, an toàn mạng” tại dự thảo Luật An ninh, an toàn mạng như sau: “An ninh, an toàn mạng” là áp dụng các biện pháp cần thiết để ngăn chặn tấn công, xâm nhập, can nhiễu, phá hoại hoặc sử dụng phi pháp mạng cũng như những sự cố ngoài ý muốn giữ cho mạng ở trạng thái vận hành ổn định và tin cậy cũng như bảo đảm tính nguyên vẹn, tính bảo mật và tính khả dụng của thông tin được lưu trữ, truyền tải và xử lý trên mạng.

Quan niệm của Việt Nam về chủ quyền trên không gian mạng

Ở nước ta, ngày 12/6/2018 Quốc hội đã thông qua Luật số 24/2018/QH14 Luật an ninh mạng, trong đó có giải thích các thuật ngữ : (1) “ An ninh mạng”; (2) “ Không gian mạng”; (3) “ Không gian mạng quốc gia”; (4) “ Bảo vệ không gian mạng”. Theo đó, “an toàn thông tin mạng được hiểu là sự bảo vệ hệ thống thông tin và thông tin truyền đưa trên mạng tránh bị truy cập, sử dụng, tiết lộ, gián đoạn, sửa đổi hoặc phá hoại trái phép nhằm bảo đảm tính nguyên vẹn, tính bảo mật và tính khả dụng của thông tin”.

 “Không gian mạng” là mạng lưới kết nối toàn cầu của các cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, bao gồm Internet, các mạng viễn thông, hệ thống máy tính, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, là môi trường đặc biệt mà con người thực hiện các hành vi xã hội không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Qua nghiên cứu khái niệm “không gian mạng” của các quốc gia trên thế giới, nhất là các quốc gia có trình độ công nghệ thông tin mạng phát triển và căn cứ vào tình hình thực tế của Việt Nam cho thấy, “không gian mạng” có bản chất vật lý và tính chất xã hội.

 Về bản chất vật lý kỹ thuật, “không gian mạng” có cấu trúc ba lớp là: (1) Hạ tầng truyền dẫn vật lý bao gồm các thiết bị phần cứng công nghệ thông tin kết nối một cách hợp lý với nhau, tạo ra các loại mạng. (2) Hạ tầng dịch vụ lõi và (3) các dịch vụ tạo ra các giao thức để lưu trữ, xử lý, trao đổi thông tin, chủ yếu bao gồm các quy định chuẩn, hệ điều hành, các công nghệ nền tảng như công nghệ phần mềm, công nghệ mạng, giao diện, phương thức giao tiếp, giao thức, truyền dẫn xử lý thông tin, điều khiển… phần mềm ứng dụng với việc tạo các thư viện và dịch vụ dùng chung; hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin và cơ sở dữ liệu, các phần mềm ứng dụng để thông tin dưới dạng số được tạo ra, lưu trữ, xử lý trao đổi nhằm phục vụ nhu cầu cuộc sống và tác động đến nhận thức của con người.

 Về tính chất xã hội, “không gian mạng” là môi trường xã hội đặc biệt của con người hội tụ đủ 06 thành tố: (1) chính sách, pháp luật; (2) năng lực công nghệ; (3) nội dung thông tin; (4) nguồn nhân lực; (5) cơ cấu tổ chức bộ máy; (6) ý thức của con người trên không gian mạng, tạo ra môi trường xã hội đặc biệt của con người.

Trong đó, chính sách, pháp luật là những quy định, quy tắc ứng xử điều chỉnh hành vi và các mối quan hệ giữa cá nhân, tổ chức, cơ quan quản lý nhà nước, các quốc gia, các tổ chức quốc tế khi tham gia vào không gian mạng. Nó tạo hành lang pháp lý đảm bảo cho sự hoạt động an toàn và hiệu quả của không gian mạng, mở đường cho công nghệ phát triển.

Năng lực công nghệ là công nghệ đã được ứng dụng và khả năng nghiên cứu, phát triển công nghệ mới cho hạ tầng công nghệ thông tin, phần mềm, dịch vụ,… cấu thành nên không gian mạng, bao gồm các loại công nghệ nền tảng như công nghệ mạng, công nghệ điện tử, bán dẫn, vi xử lý, công nghệ phần mềm… Bên cạnh đó, còn có các quy định chuẩn công nghệ, các quy trình phương thức giao tiếp, giao diện giữa các tầng kiến trúc của một công nghệ nào đó…

Nội dung thông tin là những nội dung được lưu trữ, xử lý và trao đổi trên không gian mạng.

Nguồn nhân lực là con người tham gia vào hoạt động quản lý, điều hành, sử dụng hệ thống mạng. Tổ chức bộ máy là bộ máy quản lý nhà nước quản lý các bộ phận cấu thành nên không gian mạng, từ hạ tầng kỹ thuật đến dịch vụ ứng dụng, bảo vệ và điều tiết chính sách, pháp luật trên không gian mạng.

Ý thức của người trên không gian mạng là việc con người chấp hành chính sách, pháp luật, chuẩn công nghệ, quy tắc nghiệp vụ, đạo đức, chuẩn mực văn hóa khi tham gia vào không gian mạng.

“Chủ quyền quốc gia trên không gian mạng” là quyền tối cao, tuyệt đối, đầy đủ và riêng biệt của quốc gia đó đối với các vùng thông tin do Nhà nước quản lý, kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp bằng chính sách, pháp luật và năng lực công nghệ phù hợp với luật pháp quốc tế. Cũng giống như chủ quyền lãnh thổ, các quốc gia có quyền tối cao, tuyệt đối, hoàn toàn và riêng biệt đối với phạm vi không gian mạng thuộc quyền kiểm soát của mình, tức có chủ quyền quốc gia trên không gian mạng. Việc xác định “chủ quyền quốc gia trên không gian mạng” cần căn cứ vào phạm vi không gian mạng mà một quốc gia được quyền kiểm soát, chi phối trên cơ sở chủ quyền, lợi ích quốc gia và luật pháp quốc tế. Thực chất việc quốc gia xác lập chủ quyền không gian mạng là xác lập quyền quản lý, kiểm soát đối với cơ sở hạ tầng không gian mạng và thông tin được tạo ra, lưu trữ, xử lý và truyền đưa trên đó, được thực hiện thông qua xác lập chủ quyền, quyền tài phán theo luật pháp quốc tế đối với cơ sở hạ tầng mạng thuộc sở hữu của mình cả ở trong và ngoài lãnh thổ quốc gia; đồng thời mã hóa thông tin số truyền đưa trên không gian mạng toàn cầu.

 Cơ sở hạ tầng không gian mạng cấu thành từ hạ tầng truyền dẫn vật lý; hạ tầng các dịch vụ lõi; các dịch vụ, hệ thống ứng công nghệ thông tin và cơ sở dữ liệu. Các thành phần này là các thiết bị vật lý, tương đối ổn định và hữu hình. Mọi quốc gia có quyền kiểm soát cơ sở hạ tầng không gian mạng và các hoạt động trên toàn bộ vùng lãnh thổ có chủ quyền của mình. Cơ sở hạ tầng không gian mạng có thể nằm trong lãnh thổ đất liền, nội thủy, lãnh hải (bao gồm cả thềm lục địa và đáy biển), các quần đảo và không phận quốc gia đều thuộc chủ quyền của quốc gia có chủ quyền với vùng lãnh thổ đó./.

.ankhe.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét