Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân phải tích cực, chủ động và xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền quốc phòng toàn dân là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin, sự kế thừa kinh nghiệm trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng đó được hình thành và phát triển qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ của đất nước, góp phần hoàn thành công cuộc giải phóng đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
Ngay sau khi miền Bắc Việt Nam hoàn toàn được giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định hướng cho toàn dân tộc phải đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng; thực hiện nhiệm vụ và phương châm hành động: “Chúng ta phải ra sức bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình, cho nên chúng ta phải củng cố quốc phòng”(1); đồng thời, Người căn dặn: “Phải động viên, giáo dục toàn Đảng, toàn dân đoàn kết chặt chẽ. Các cấp, các ngành và các cán bộ, đảng viên ta cần phải thực hiện đúng các chính sách của Đảng và Nhà nước để đoàn kết và động viên được mọi người phấn khởi và hăng hái tham gia chống Mỹ, cứu nước”(2). Những lời căn dặn của Người đã trở thành kim chỉ nam trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, giúp cho nền quốc phòng của nước ta luôn vững mạnh, sức chiến đấu ngày càng nâng cao, luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Theo Người, xây dựng nền quốc phòng toàn dân là yêu cầu khách quan, nhằm nâng cao tiềm lực và sức mạnh quốc phòng để bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, tăng cường khả năng tự vệ giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, góp phần duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã định hướng cho đường lối chiến lược, sách lược và phương thức chỉ đạo phong trào cách mạng nước ta cũng như xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Người chỉ rõ: ““Nền có vững nhà mới chắc; gốc có mạnh, cây mới tốt”. Miền Bắc là nền tảng, là gốc rễ lực lượng đấu tranh của toàn dân ta, cho nên chúng ta phải làm cho nó thật vững, thật mạnh”(3); ngày 19-9-1954, nói chuyện với các cán bộ đại diện cho Đại đoàn quân Tiên phong tại Đền Hùng, Người cũng ân cần căn dặn: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”(4). Người không chỉ khái quát cao tính cấp thiết, tầm quan trọng của việc phát huy tính tích cực, chủ động của việc xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân, mà còn chỉ ra sự cần thiết xây dựng nền quốc phòng toàn dân từ sớm, từ xa vì mục tiêu tự vệ chính nghĩa, chính đáng, hòa bình, hội nhập và thúc đẩy sự phát triển đất nước.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân trên cơ sở phát huy cao độ tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường xây dựng thế trận quốc phòng vững chắc
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tự lực, tự cường là tiền đề của độc lập, tự do, là điều kiện tiên quyết để phát triển quan hệ, vị thế ngoại giao; phải được xây đắp bằng ý chí tự lực, tự cường, tự lực cánh sinh. Tự lực, tự cường, tự chủ là phẩm chất cao quý của dân tộc Việt Nam, với tinh thần đầy lòng tự trọng, ý chí, khát vọng vươn lên và chủ động chuẩn bị từ sớm, từ xa trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, Người đặc biệt chú trọng đề cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường. Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nền quốc phòng toàn dân là xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”, được tổ chức với ba thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích); là xây dựng căn cứ địa cách mạng, khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân. Mỗi người dân: “Phải nắm vững tay cày tay súng, đẩy mạnh quốc phòng, trật tự trị an, củng cố tốt dân quân, tự vệ, luôn luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu”(5). Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (ngày 19-12-1946) chỉ rõ: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”(6). Người đã chỉ rõ, việc tham gia kháng chiến, bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm của mọi người dân, tất cả thành phần và lực lượng trong xã hội. Công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, bất kỳ ai là công dân Việt Nam yêu nước đều phải tham gia kháng chiến. “Cậu bé chăm chỉ học hành trong nhà trường cũng là kháng chiến. Anh dân cày cày cuốc ngoài đồng ruộng, anh thợ cặm cụi trong nhà máy, chị bán hàng buôn bán ngược xuôi, ông già xách giỏ đi câu cũng là kháng chiến. Các công chức, các nhà văn, nhà báo mải miết trước bàn giấy, cạnh tủ sách cũng là kháng chiến. Các y sinh, khán hộ lăn lộn bên giường bệnh cũng là kháng chiến. Các nhà giàu có đem hết tài lực mở mang xưởng thợ, khai thác ruộng đất cũng là kháng chiến. Đó là toàn dân kháng chiến”(7). Mỗi công dân đều phải có trách nhiệm tham gia kháng chiến, kể cả “Các em lớn chưa hẳn đến tuổi phải gánh công việc nặng nhọc ấy, nhưng các em cũng nên, ngoài giờ học ở trường, tham gia vào các Hội cứu quốc để tập luyện thêm cho quen với đời sống chiến sĩ và để giúp đỡ một vài việc nhẹ nhàng trong cuộc phòng thủ đất nước”(8).
Trong quá trình hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”(9). Người khẳng định: Độc lập của Việt Nam luôn nhờ lực lượng của Việt Nam: “Trước đây, nhân dân ta đã nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, trường kỳ kháng chiến, thì ngày nay chúng ta càng phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng nước nhà”(10); Người căn dặn: “Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”(11). Người luôn coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Người xác định phương châm: Tự lực cánh sinh là chính, việc các nước bạn giúp ta là quý trọng, ta tuyệt đối không được dựa dẫm ỷ lại vào sự giúp đỡ của bạn bè. Người nhấn mạnh vấn đề có tính nguyên tắc: “Muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”(12).
Trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, cũng chính nhờ tinh thần độc lập, tự lực, tự cường mà Đảng ta đã đề ra đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, lãnh đạo quân và dân ta ra sức xây dựng quốc phòng toàn dân vững mạnh, đẩy nhanh tiến công địch trên khắp chiến trường miền Nam. Đồng thời, tranh thủ sự giúp đỡ của nhân dân tiến bộ và yêu chuộng hoà bình trên thế giới nhằm tạo sức mạnh tổng hợp, giành thắng lợi quyết định trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thống nhất Tổ quốc, cùng cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là do toàn dân, dựa vào dân để phát huy sức mạnh của nhân dân
Tiếp thu truyền thống lịch sử dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm nhuần kinh nghiệm dựng nước và giữ nước của ông cha ta. Đó là, mỗi khi kẻ thù xâm lược thì “tận dân vi binh” trăm họ là binh, toàn dân là lính; Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào; lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo. Khi giặc tan thì khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc làm thượng sách để giữ nước, giữ nước từ khi nước chưa nguy.
Trong Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”(13); Người răn dạy: “Nước ta mới tranh lại quyền độc lập tự do, nhưng còn phải qua nhiều bước khó khăn, để củng cố quyền tự do độc lập đó. Vậy nên quốc dân ta, bất kỳ già trẻ, đều phải ra sức gánh một vai”(14). Đồng thời, Người khẳng định sức mạnh của dân tộc Việt Nam: “Không quân đội nào, không khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân tộc”(15).
Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thường xuyên nhắc nhở: “Để ngăn chặn âm mưu của kẻ địch, thì cán bộ, bộ đội và nhân dân ta cần phải luôn luôn nâng cao cảnh giác”(16); “Phải củng cố lực lượng quốc phòng, giữ gìn trật tự trị an, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi hoạt động khiêu khích và phá hoại của đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng”(17). Theo Người, nền quốc phòng của nước nhà là phải do toàn dân xây dựng và dựa vào sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ lao động trí óc. Đặc biệt, trong xây dựng thế trận lòng dân vững chắc, chú trọng tại các địa bàn có vị trí chiến lược, như miền núi, hải đảo. Người nói: “Miền núi đối với quốc phòng rất quan trọng. Vì vậy phải chăm lo đến việc củng cố quốc phòng, duy trì trật tự trị an, để chủ động tiêu diệt nhanh chóng bọn biệt kích, đập tan âm mưu của bọn phản động. Cố nhiên đây là trách nhiệm chính của bộ đội, của công an biên phòng, của dân quân. Nhưng toàn Đảng, toàn dân đều có trách nhiệm giúp sức vào việc đó”(18). Đó là tư tưởng chủ đạo về xây dựng nền quốc phòng toàn dân - nền quốc phòng do toàn dân tham gia, toàn dân thực hiện quốc phòng.
Xây dựng nền quốc phòng toàn dân trên cơ sở luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chủ động ngăn ngừa, làm thất bại mọi âm mưu của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên giáo dục cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác đề phòng, quyết không chủ quan, khinh địch. Đặc biệt trong điều kiện đất nước hòa bình càng phải nêu cao tinh thần, ý thức cách mạng; xây dựng nền quốc phòng toàn dân để đất nước sẵn sàng đánh thắng kẻ thù xâm lược khi chúng liều lĩnh gây chiến tranh xâm lược.
Nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tự lực cánh sinh, nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Địch bắn phá ở đâu, chúng không nói cho ta biết trước, cho nên bất cứ ở đâu, bất kỳ lúc nào, chúng ta cũng phải tích cực chuẩn bị sẵn sàng để đánh bại mọi âm mưu tăng cường và mở rộng chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ”(19). Tăng cường đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng, Người dạy rằng: “Càng đánh thắng, quân và dân ta càng phải nâng cao chí căm thù và tinh thần cảnh giác cách mạng, thi đua chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi, quyết giành thêm nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa”(20). Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, Người thường xuyên nhắc nhở: “Nếu ta chuẩn bị tốt thì khi có việc xảy ra, sẽ tránh được thiệt hại, cán bộ và nhân dân không dao động, hoang mang. Việc chuẩn bị phải tích cực, nhưng phải có kế hoạch, có giải thích, đừng làm cho quần chúng hoảng hốt...”(21).
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nền quốc phòng toàn dân có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn đối với cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ xây dựng và phát triển của đất nước; có vị trí, vai trò, ý nghĩa vô cùng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; chiến lược quốc phòng, chiến lược quân sự Việt Nam. Do đó, cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về nền quốc phòng toàn dân; đồng thời, nắm chắc nội hàm tư tưởng cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có như vậy, mới vận dụng tư tưởng của Người vào xây dựng nền quốc phòng toàn dân; vào xây dựng chiến lược quốc phòng, chiến lược quân sự Việt Nam mới bảo đảm chất lượng, hiệu quả, đạt mục tiêu, yêu cầu đặt ra.
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 9, tr. 226
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 693
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 10, tr. 144
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 59
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 493
(6), (7) Giải thích: y sinh - thầy thuốc, bác sỹ; khán hộ - y tá. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 534, 96 - 97
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 35
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 445
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 27 - 28
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 445
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2, tr. 320
(13), (14), (15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 3, 23, 89
(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 389
(17), (18), (19), (20) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 285, 167, 693, 554
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét