Thứ Ba, 2 tháng 7, 2024

 

Kiên trì, kiên định bảo vệ đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam - Bài 3: Ba điều cốt yếu để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ nhân dân (Tiếp theo và hết)

Để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đấu tranh vạch trần những luận điệu xuyên tạc, giả dối, gạt bỏ những luồng thông tin xấu độc làm ô nhiễm môi trường tinh thần của xã hội, chúng ta cần giữ vững niềm tin khoa học, bồi dưỡng tình cảm cách mạng và trau dồi bản lĩnh chính trị. Đó là ba điều cốt yếu để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ và bảo vệ nhân dân.

Giữ vững niềm tin khoa học

Niềm tin khoa học là niềm tin dựa trên cơ sở khoa học, nắm vững lý luận khoa học và cách mạng, hiểu biết quy luật để nhận thức đúng xu thế vận động, biến đổi và phát triển của lịch sử một cách tất yếu, khách quan.

Niềm tin khoa học không tự có sẵn, không hình thành dễ dàng chỉ một lần là xong và có mãi. Nhận thức là một quá trình, từ hiện tượng tới bản chất, từ đơn giản đến phức tạp, không ngừng khám phá, sáng tạo để nắm vững chân lý và hành động tự giác theo chân lý, theo quy luật.

Niềm tin khoa học do đó gắn liền với trình độ học vấn, học thức, với sự trưởng thành của tư duy lý luận, của phương pháp tư duy khoa học. Con người ta không chỉ lĩnh hội tri thức trong sách vở, qua học tập, lại phải có nhu cầu tự học suốt đời, có thói quen tự tu dưỡng, tự rèn luyện như một nhu cầu văn hóa, để tự làm mới nhận thức của mình mà còn phải chú trọng thực hành trong thực tiễn. Hồ Chí Minh là một kiểu mẫu về tự học-học trong nhà trường, học qua sách vở và nhất là học trong trường đời thực tiễn, học dân, hỏi dân để hiểu dân, tin dân.

Để có niềm tin khoa học, niềm tin của trí tuệ, niềm tin được dẫn dắt và thúc đẩy bởi lý luận khoa học và cách mạng, vượt lên kinh nghiệm và chủ nghĩa kinh nghiệm thực dụng, thiển cận, tầm thường, tự thanh toán khỏi mình bệnh giáo điều, sách vở, chủ quan duy ý chí, bệnh hình thức, lý luận suông và cả thói coi khinh lý luận, tự trói buộc mình bởi chủ nghĩa kinh nghiệm... cần phải thực hành lý luận trong thực tiễn và từ thực tiễn mà kiểm chứng lý luận, phát hiện lý luận mới. Người có niềm tin khoa học là người có năng lực sáng tạo, có tinh thần đổi mới và tự đổi mới, nhạy cảm với cái mới, có đầu óc phê phán cái cũ lạc hậu, lỗi thời, cái sai trái, cái giả để khẳng định và tin theo cái đúng, cái tốt, cái thật. Như thế, niềm tin khoa học hội tụ cả năng lực khoa học, cả phẩm chất đạo đức và về mặt giá trị, đó là một giá trị văn hóa, hướng tới chân-thiện-mỹ.

Kiên trì, kiên định bảo vệ đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam - Bài 3: Ba điều cốt yếu để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ nhân dân (Tiếp theo và hết)
Ảnh minh họa. Nguồn: qdnd.vn 

 

Niềm tin khoa học mang sức mạnh của lý tính, lý trí, tỉnh táo, sáng suốt, được chứng thực, thử thách trong thực tiễn. Vào năm 1959, trong chuyến thăm Indonesia, nói chuyện trước giới trí thức khoa học tại trường đại học ở thủ đô Jakarta, Hồ Chí Minh khiêm tốn nói trước các học giả nước bạn về việc tự học của mình. Người khẳng định rằng, chính thực tiễn cuộc sống và trong đấu tranh cách mạng mà Người lĩnh hội được những tri thức đích thực. Đó là những tri thức đáng tin cậy nhất. Từ trong kháng chiến, khi viết các tác phẩm “Đời sống mới” và “Sửa đổi lối làm việc”, Người căn dặn chúng ta, về mặt giáo dục và nhà trường, “phải đặc biệt chú trọng dạy và học các môn khoa học về tinh thần và đạo đức”.

Thống nhất lý luận với thực tiễn, theo Hồ Chí Minh là bản chất tối cao của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Đó là bảo đảm chắc chắn để xây dựng niềm tin khoa học duy vật và biện chứng. Nhờ đó, không trì trệ, bảo thủ, chủ quan, tư biện mà cũng không cực đoan, siêu hình, không phiêu lưu mù quáng. Niềm tin khoa học là cơ sở của lòng trung thành xét về mặt lý luận, của tinh thần lạc quan cách mạng vì giác ngộ chân lý và quy luật, vững tin ở triển vọng tương lai ngay cả khi gặp khó khăn, thử thách. “Thắng không kiêu, bại không nản” là vì vậy. Khi khẳng định: “Ta nhất định thắng, địch nhất định thua”, “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”, Hồ Chí Minh thể hiện rõ rệt một niềm tin khoa học mãnh liệt và Người đã gieo niềm tin, truyền cảm hứng cho mỗi chúng ta. 

Chính nhờ vững vàng, kiên định niềm tin khoa học ấy mà chúng ta tin tưởng ở Đảng khi Đảng quyết định đổi mới và hội nhập. Vào lúc thử thách hiểm nghèo khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) Đông Âu đổ vỡ chế độ XHCN, Đảng ta nhanh chóng đưa ra Cương lĩnh 1991 thay Cương lĩnh 1951, lại được bổ sung phát triển ở Cương lĩnh 2011. Đảng ta khẳng định rằng dù có trải qua những bước quanh co phức tạp nhưng chủ nghĩa xã hội (CNXH) vẫn là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử loài người. Triển vọng tốt đẹp thuộc về CNXH chứ không phải chủ nghĩa tư bản, dù chủ nghĩa tư bản đã trở thành chủ nghĩa tư bản hiện đại. Tuyên bố chính trị đó của Đảng nhanh chóng trở thành ngọn cờ tập hợp các lực lượng cách mạng trong nước và có tầm ảnh hưởng quốc tế, củng cố niềm tin khoa học và niềm tự hào chính đáng của chúng ta về truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng. Với Đảng, nhờ có niềm tin khoa học mà Đảng ta giữ vững được phương hướng chính trị, có đường lối đúng, đưa nước ta vượt qua khủng hoảng, tồn tại và phát triển như ngày nay. Dân tin Đảng, niềm tin đó của dân được Đảng ta coi là tài sản vô giá phải giữ gìn và phát huy, không được suy giảm, càng không thể mất. Đó cũng là niềm tin khoa học và sự thủy chung của Đảng đối với nhân dân và dân tộc ta.

Văn kiện Đại hội XIII nêu cao khát vọng phát triển đất nước, khơi gợi và phát huy tinh thần cống hiến của mỗi người dân, tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, coi trọng công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Đó là những quyết sách chiến lược vô cùng quan trọng và cần thiết. Đảng ta cũng nhấn mạnh phải đổi mới mạnh mẽ thể chế phát triển, để thực hiện thành công các đột phá chiến lược đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao. Niềm tin khoa học cho chúng ta sức mạnh để khát vọng đó trở thành hiện thực.

Bồi đắp tình cảm cách mạng

Có niềm tin khoa học là có cơ sở để nuôi dưỡng và rèn luyện tình cảm cách mạng. Đó là một trong những động lực tinh thần mạnh mẽ nhất thúc đẩy hành động cách mạng. Tình cảm cách mạng được xây dựng trên các chuẩn mực đạo đức cần, kiệm, liêm, chính để chí công vô tư, đặt việc nước, việc dân lên trên hết, trước hết.

Khi cách mạng và Đảng cần, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải nêu cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, sẵn sàng hy sinh cả lợi ích và cuộc sống cá nhân riêng tư, vì sự nghiệp chung với tinh thần “dĩ công vi thượng” như Hồ Chí Minh nhấn mạnh. Còn nhớ, gần hai tháng trước khi mất, ngày 14-7-1969, trả lời phỏng vấn của nữ nhà báo Cuba-đồng chí Mácta Rôhát: “Đâu là điều thiêng liêng nhất?”, Người đã nói: “Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi”. Đó là lẽ sống cao thượng được thúc đẩy suốt đời bởi tình cảm cách mạng của Hồ Chí Minh. Đó là đạo đức, là bản lĩnh văn hóa đạo đức của Hồ Chí Minh.

Những ai có tình cảm cách mạng trong sáng sẽ có sự bảo đảm bền bỉ để chống lại và đánh bại chủ nghĩa cá nhân-với lòng tham, tính tham, vụ lợi, vị kỷ-để thực hành lòng yêu nước, thương dân, nêu cao tinh thần trách nhiệm, để hy sinh và tự nguyện cống hiến, vì nước, vì dân. Tình cảm cách mạng xa lạ đối lập với thói vô trách nhiệm, sự hờ hững, hoài nghi, lãnh đạm, vô cảm mà không ít người mắc phải, trở nên suy thoái, hư hỏng, thành tù binh của chủ nghĩa cá nhân. Đến khi rơi vào những việc làm sai trái, những hành vi bất minh, bất chính, bất liêm, vô sỉ thì thành ra kẻ thù của nhân dân vì đã làm hại dân, hại nước.

Có tình cảm cách mạng mới có thể tâm huyết vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, mới có sức mạnh chống lại mọi sai trái, lỗi lầm, mới đủ dũng khí để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, mà thực chất là bảo vệ nhân dân. Một khi tình cảm cách mạng bị nguội lạnh thì niềm tin sẽ bị lung lay, suy yếu, thậm chí từ bỏ niềm tin, lý tưởng, lẽ sống chỉ vì sự cám dỗ của tiền bạc, danh vọng, địa vị, quyền lực. Rơi vào vô cảm, đó là sự suy đồi về đạo đức, nhân cách, không còn sức đề kháng để tự bảo vệ lương tâm, danh dự, liêm sỉ của mình, càng không thể bảo vệ Đảng, chế độ và nhân dân. Đủ hiểu vì sao, vào lúc này, Đảng ta đặc biệt coi trọng xây dựng Đảng về đạo đức, đề cao sự gương mẫu, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp.

Trau dồi bản lĩnh chính trị

Kết quả tổng hợp từ giữ vững niềm tin khoa học và bồi đắp tình cảm cách mạng, thực hành đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, thực hành nhân-trí-dũng-liêm-trung từ vị tướng chỉ huy đến chiến sĩ, từ cán bộ lãnh đạo đến đảng viên và quần chúng sẽ dẫn đến bản lĩnh chính trị.

Bản lĩnh chính trị được hình thành, tôi luyện, thử thách trong thực tiễn, trong đối mặt trực tiếp, cọ xát trực tiếp với thực tiễn, tranh đấu với những tình huống phức tạp. Bản lĩnh chính trị có sức mạnh của trí tuệ khoa học, của đạo đức cách mạng, của cốt cách vững vàng về chính trị, không lung lay, dao động, không do dự, không tự đánh mất niềm tin, không xa dân-cội nguồn sức mạnh của Đảng.

Bản lĩnh chính trị là hành động chứ không phải lời nói suông, trung thực, nhất quán giữa nói và làm, không cơ hội, tùy thời, chỉ chăm lo cho cá nhân mình. Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên trong đổi mới hiện nay là dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động quyết liệt vì lợi ích chung như Đảng đã nhấn mạnh.

Đảng ta khuyến khích những con người như thế và tìm tòi cơ chế để bảo vệ họ, đồng thời cũng áp dụng các chế tài cần thiết để xử lý những cán bộ, đảng viên từ bỏ trách nhiệm, không hành động vì sợ sai lầm, vì tìm sự an toàn cho riêng mình. Rơi vào trường hợp này thì không còn dũng khí, lòng trung thực và trách nhiệm vì sự nghiệp chung, không còn là bản lĩnh chính trị nữa mà trở thành vật cản đối với đổi mới và phát triển. Đó là những người “thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh”, tự coi mình ở ngoài cuộc, vô can, không chịu trách nhiệm, chỉ chăm lo vun vén, tìm kiếm lợi ích cho riêng mình.

Do đó, muốn có bản lĩnh chính trị để chủ động tham gia vào cuộc chiến đấu bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ nhân dân thì phải đồng thời xây dựng niềm tin khoa học, bồi dưỡng tình cảm, đạo đức cách mạng, nêu cao tự phê bình và phê bình, củng cố sức mạnh của đoàn kết, dân chủ, đồng thuận từ trong Đảng đến trong dân và xã hội, thực hành “quyết tâm-tín tâm-đồng tâm” như chỉ dẫn của Bác Hồ.

Bản lĩnh chính trị là hạt nhân của văn hóa chính trị mà chúng ta phải dày công xây dựng. Chúng ta càng thấy dự cảm sâu sắc của Hồ Chí Minh khi Người nhấn mạnh: “Chính trị là đoàn kết và thanh khiết”, “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”.

Cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận càng diễn biến phức tạp bao nhiêu thì những điều cốt yếu nói trên càng cần thiết và quan trọng bấy nhiêu. Nó không chỉ bảo đảm cho nhận thức đúng mà còn là điểm tựa vững chắc cho hành động tự giác, sáng tạo, chủ động và tích cực của mỗi chúng ta trong cuộc đấu tranh chống lại các thế lực thù địch, để kiên định lý tưởng, mục tiêu và con đường đã lựa chọn: Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, giữ vững định hướng XHCN của sự nghiệp đổi mới, xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

 

Giữ gìn sự nghiêm minh kỷ luật của Đảng (tiếp theo và hết)

Chính nhờ có kỷ luật của Đảng nghiêm minh, các đảng viên nghiêm túc, tự giác chấp hành mà trong suốt 94 năm qua, Đảng ta đã vượt qua mọi thử thách hiểm nghèo và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Đảng mạnh nhờ kỷ luật nghiêm minh

Trong xã hội, mọi tổ chức muốn tồn tại và phát triển, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đều phải xây dựng được hệ thống các quy định, quy chế hoạt động, hay nói cách khác là phải có kỷ luật và tất cả các thành viên trong tổ chức đều phải tuyệt đối thực thi. Rõ ràng, kỷ luật càng chặt chẽ thì tổ chức càng vững mạnh, kỷ luật mà lỏng lẻo, các thành viên trong tổ chức không chấp hành, hoặc chấp hành kỷ luật theo kiểu đối phó, hình thức, vô kỷ luật thì tổ chức khó tránh khỏi tan rã.

Đối với Đảng ta, vấn đề giữ nghiêm kỷ luật là yếu tố sống còn khi Đảng lãnh xướng sứ mệnh lãnh đạo sự nghiệp cách mạng. Bởi rằng, mọi hành vi vi phạm kỷ luật của Đảng, dù nhỏ nếu không được phát hiện, điều chỉnh, uốn nắn kịp thời sẽ dẫn đến vi phạm lớn và hệ quả là làm suy yếu năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Kỷ luật của Đảng không nằm ngoài mục đích để bảo đảm sự thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nhất quán giữa ý chí và hành động, giữa các tổ chức đảng và đảng viên. Kỷ luật càng chặt chẽ, nghiêm minh thì mọi đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng sẽ được triển khai thắng lợi và giúp mỗi cán bộ, đảng viên tự giác chấp hành, luôn đặt mình trong khuôn khổ, “không muốn, không thể và không dám” vi phạm kỷ luật của Đảng. Chỉ có những kẻ “cố ý phá hoại”, những người không thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện, sa vào chủ nghĩa cá nhân, tha hóa, biến chất mới bất chấp tất cả mà vi phạm kỷ luật, kỷ cương của Đảng.

Đảng mạnh chính là nhờ có kỷ luật nghiêm minh. Về vấn đề này, Lênin đã khẳng định: “Nếu không có kỷ luật sắt hết sức nghiêm khắc thì người Bônsêvich không giữ nổi chính quyền lấy hai tháng rưỡi chứ đừng nói là hai năm rưỡi”. Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Lênin, trong các bài nói, bài viết, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định vai trò quan trọng của việc giữ nghiêm kỷ luật của Đảng. Người khẳng định: “Đảng có những điều kiện kỷ luật bắt buộc mỗi đảng viên phải theo. Không có kỷ luật sắt không có Đảng. Đã vào Đảng thì phải theo tư tưởng của Đảng. Đảng đã chỉ thị nghị quyết là phải làm. Không làm thì đuổi ra ngoài Đảng[1].

Giữ gìn sự nghiêm minh kỷ luật của Đảng (tiếp theo và hết)
Kỳ họp thứ 37, Ủy ban Kiểm tra Trung ương khóa XIII. Ảnh: Anh Quân 

Hơn một thập kỷ trở lại đây, công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã và đang gặt hái được nhiều thành quả to lớn rất đáng ghi nhận, được nhân dân hoan nghênh, đồng tình, ủng hộ. Đây chính là quá trình Đảng ta siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, để mỗi tổ chức đảng, đảng viên “tự soi”, tự nhìn nhận ra khuyết điểm, hạn chế và ra sức uốn nắn, sửa mình trước khi vượt qua ranh giới, khuôn khổ kỷ cương, kỷ luật của Đảng. Ngược lại, những con số thống kê về số lượng tổ chức đảng và đảng viên bị thi hành kỷ luật thời gian qua, dẫu có thể khiến chúng ta buồn lòng, thậm chí là đau xót. Nhưng suy cho cùng, đó cũng chỉ là những “con sâu” đã làm mục ruỗng tổ chức, làm suy yếu năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng nên nhất thiết phải loại bỏ. Chúng ta vẫn còn đó đội ngũ hơn 5 triệu đảng viên trong toàn Đảng, luôn sục sôi nhiệt huyết, kiên định lý tưởng của người cộng sản và tuyệt đối trung thành với Đảng, luôn đặt nhiệm vụ phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân lên trên hết, trước hết.

Sức mạnh của Đảng nằm trong mỗi tổ chức đảng và từng đảng viên, nhưng để sức mạnh của Đảng muôn triệu người như một thì nhất thiết phải đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động. Quan trọng hơn, mỗi cán bộ, đảng viên phải thấu triệt và thực hành thường xuyên tinh thần tự giác chấp hành kỷ luật đảng, tự giác đặt mình trong sự quản lý của tổ chức đảng. Điều đó đòi hỏi mỗi đảng viên, dù đặt trong điều kiện, hoàn cảnh nào, luôn phải tự giác chấp hành kỷ luật của Đảng. Chấp hành kỷ luật đảng không chỉ cần tinh thần tự giác mà cao hơn là sự bắt buộc. Tuy nhiên, yếu tố “bắt buộc” trong kỷ luật của Đảng không phải là sự ép buộc, càng không phải là miễn cưỡng thực thi mà phải trên cơ sở giác ngộ chính trị, giác ngộ càng cao thì bắt buộc sẽ trở thành tự giác và tự giác càng cao, kỷ luật của Đảng càng nghiêm túc.

Giữ gìn sự nghiêm minh kỷ luật của Đảng - mệnh lệnh không lời

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần đưa ra cảnh báo về những nguyên nhân dẫn đến làm mất kỷ luật đảng và đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự. Trong tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, Người đã nhấn mạnh rằng: “do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân[2].

Trong giai đoạn hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường nhiều thành phần đã mang đến sự phát triển to lớn cho đất nước, nhưng đồng thời cũng đặt ra rất nhiều vấn đề. Mặt trái của nền kinh tế thị trường đã tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có đội ngũ cán bộ, đảng viên. Một bộ phận cán bộ, đảng viên do không thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng, không thường xuyên tôi rèn bản lĩnh nên sa vào chủ nghĩa cá nhân, sa vào “bẫy” suy thoái, bị thâu tóm và thao túng bởi lợi ích nhóm, bị hấp dẫn bởi ma lực của đồng tiền. Họ dễ dàng gục ngã trước những viên “đạn bọc đường”, dẫn đến tham ô, tham nhũng, tiêu cực, vi phạm kỷ luật của Đảng và hệ quả nhãn tiền là tù tội, rơi vào vòng lao lý. Hơn hết là bản án lương tâm với đồng chí, đồng nghiệp, với cơ quan, gia đình, dòng tộc khi không chỉ làm mất đi danh dự của bản thân mà còn làm tổn hại thanh danh của Đảng. 

Có thể khẳng định rằng, chính chủ nghĩa cá nhân là thứ đẻ ra mọi loại vi phạm, khuyết điểm, tật ách, tai tương và “bẫy” suy thoái không chừa một ai. Giữ gìn sự nghiêm minh của kỷ luật đảng, hay nói cách khác là phải tuyệt đối chấp hành kỷ luật của Đảng là mệnh lệnh, là yêu cầu cấp bách đặt ra đối với mọi tổ chức đảng và mọi đảng viên trong mọi giai đoạn, mọi thời điểm. Để làm được điều đó, cần thực hiện tốt một số nội dung sau: 

Một là, mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng tu dưỡng đạo đức, rèn luyện bản lĩnh và giữ gìn danh dự người đảng viên, nêu cao trách nhiệm trước Đảng, trước dân. Đây là yêu cầu bắt buộc và phải thực hành thường xuyên, như “đánh răng, rửa mặt” hằng ngày, bởi rằng chỉ có đạo đức cách mạng trong sáng, có bản lĩnh chính trị vững vàng mới có thể vượt qua được mọi cám dỗ, không sa vào chủ nghĩa cá nhân và “bẫy” suy thoái. Đạo đức, danh dự, nhân phẩm của người đảng viên không phải “trên trời sa xuống”, cũng không phải cứ gắn lên mình hai chữ đảng viên là có được. Đó là cả quá trình bền bỉ tu dưỡng, kiên tâm, bền chí rèn luyện hằng ngày, “cũng như ngọc càng mài càng sáng”, nên mỗi người phải biết trân trọng, giữ gìn và bảo toàn, “như giữ gìn con ngươi của mắt mình”, để xứng đáng là người đảng viên của Đảng.

Hai là“Kỷ luật của Đảng ta là kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự giác...”, vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tự giác nghiên cứu, học tập các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, pháp luật Nhà nước. Chỉ khi nghiêm túc và tự giác học tập, mỗi cán bộ, đảng viên mới thấu triệt và nghiêm túc chấp hành mọi quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Khi đó, mỗi người sẽ nghiêm túc và tự giác đặt mình trong khuôn khổ kỷ luật, kỷ cương, phép tắc của Đảng.

Ba là, những năm gần đây, hệ thống pháp luật ở nước ta đã tương đối hoàn thiện và đồng bộ, tuy nhiên, vẫn còn một số quy định chưa theo sát với thực tiễn đang vận động và phát triển liên tục. Mặt khác, thực tế cũng cho thấy, các quy định của Đảng vẫn còn chậm được thể chế hóa thành các quy định của pháp luật Nhà nước. Cụ thể như, trong Kết luận số 14-KL/TW ngày 22-9-2021 của Bộ Chính trị về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung nêu rõ: “kịp thời xem xét, nghiên cứu để thể chế hóa thành quy định pháp luật, tạo cơ sở pháp lý để nhân rộng các mô hình, giải pháp...”. Tuy nhiên, phải đến 2 năm sau Chính phủ mới ban hành Nghị định số 73/2023/NĐ-CP ngày 29-9-2023 quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung...

Những nguyên nhân trên vô hình trung tạo ra lỗ hổng, kẽ hở khiến cho cán bộ, đảng viên hoặc là sợ sai không dám làm, đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, hoặc là những kẻ “cố ý phá hoại”, những kẻ đã sa vào “bẫy” suy thoái bất chấp tất cả mà lợi dụng trong quá trình thực thi nhiệm vụ, dẫn đến vi phạm kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật Nhà nước. Do đó, việc hoàn thiện và đồng bộ hệ thống pháp luật; kịp thời thể chế hóa các quy định của Đảng thành chính sách pháp luật Nhà nước là nhiệm vụ rất quan trọng và cấp bách. Bên cạnh đó, quá trình xây dựng pháp luật, hành lang pháp lý và các chế tài phải tiệm cận, đồng bộ với các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng để vừa mang ý nghĩa giáo dục, vừa cảnh báo, răn đe và nghiêm khắc, nghiêm minh, để bảo đảm mọi cán bộ, đảng viên “không thể, không dám, không muốn” vi phạm kỷ luật Đảng. 

Bốn là, thực tế cho thấy, một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng có nhiều tổ chức đảng, đảng viên vi phạm kỷ luật của Đảng trong thời gian qua, đó là công tác kiểm tra, giám sát có lúc, có nơi chưa được thường xuyên, kịp thời. Do đó, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp cần phải duy trì thường xuyên, liên tục công tác kiểm tra, giám sát đối với tổ chức đảng và đảng viên cấp dưới. Nhất là tăng cường kiểm tra đột xuất, không chờ đến khi “có dấu hiệu vi phạm” mới tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra, giám sát phải được tiến hành nghiêm túc và thực chất, tuyệt đối không được dung túng, bao che, không nhẹ trên, nặng dưới. Làm tốt phần việc này chính là góp phần quan trọng, giúp chấn chỉnh việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương của Đảng; kịp thời phát hiện, xử lý những vi phạm ngay từ khi còn manh nha và ngăn chặn kịp thời, không để những vi phạm nhỏ tích tụ thành vi phạm lớn, không để vi phạm của cá nhân thành sai phạm của cả tập thể.

Năm là, người xưa đã răn “thượng bất chính, hạ tắc loạn”, từ thực tiễn trong công tác xây dựng Đảng thời gian qua cho thấy, ở mọi cơ quan, đơn vị, địa phương, khi người đứng đầu gương mẫu và thường xuyên thực hành nêu gương trong mọi việc, từ lời nói đến hành động thì các đảng viên và quần chúng cấp dưới cũng sẽ theo đó mà học theo, làm theo. Bởi vậy, cần đề cao trách nhiệm, vai trò nêu gương của người đứng đầu các cấp; cấp trên làm gương cho cấp dưới, đảng viên làm gương cho quần chúng trong việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương của Đảng.

 

Giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình - chính sách quốc phòng đúng đắn của Việt Nam

Trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, nhận thức và thực hiện đúng đắn việc giải quyết các bất đồng, tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình của Đảng, Nhà nước ta là cơ sở quan trọng để chủ động nhận diện, kiên quyết đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch về chính sách quốc phòng của Việt Nam hiện nay.

Nhận thức đúng về tranh chấp quốc tế và biện pháp giải quyết

Trong thực tiễn, mặc dù còn có nhiều quan niệm khác nhau, nhưng đều có điểm thống nhất chung về tranh chấp quốc tế, đó là: Đang diễn ra sự không thống nhất, mâu thuẫn, xung đột về quan điểm pháp lý và lợi ích giữa các quốc gia có chủ quyền hoặc các chủ thể khác của pháp luật quốc tế.

Tranh chấp quốc tế có thể xảy ra trên các lĩnh vực hoạt động quốc tế, trong đó tranh chấp về chủ quyền trên đất liền, hải đảo, trên biển, trên không và trên không gian mạng là nổi cộm, dai dẳng, khó giải quyết và tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến xung đột, chiến tranh.

Giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình - chính sách quốc phòng đúng đắn của Việt Nam
Đại tướng Phan Văn Giang phát biểu tại Đối thoại Shangri-La 19 tại Singapore ngày 11-6-2022. Ảnh minh họa: qdnd.vn

Việc giải quyết tranh chấp quốc tế không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với duy trì hòa bình, ổn định, an ninh thế giới, mà còn góp phần thúc đẩy các quốc gia tuân thủ luật pháp quốc tế triệt để hơn. Luật pháp quốc tế đã thống nhất các nguyên tắc cơ bản khi giải quyết tranh chấp quốc tế, đó là: Bằng phương pháp hòa bình, thương lượng; không được sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực; giữ nguyên hiện trạng cho đến khi đạt đến thỏa thuận cuối cùng; các bên tranh chấp phải tự kiềm chế, không tiến hành bất cứ hoạt động nào làm cho tình hình trở nên xấu đi.

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị và phần tử cực đoan đưa ra nhiều ý kiến, bình luận với ý đồ xuyên tạc, âm mưu kích động chúng ta “phải có động thái mạnh mẽ, tuyên chiến quyết liệt” để chống lại các thế lực xâm phạm chủ quyền lãnh thổ quốc gia, nhất là chủ quyền biển, đảo Việt Nam. Nhận thức sâu sắc về vấn đề này, Đảng, Nhà nước ta đã xác định, việc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình là thượng sách giữ nước của Việt Nam, nhất là trong bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp, khó lường hiện nay.

Thượng sách giữ nước và chính sách quốc phòng đúng đắn của Việt Nam

Trong giải quyết các tranh chấp, Việt Nam nhất quán sử dụng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế - đây là chủ trương, giải pháp chiến lược, là chính sách quốc phòng hiệu quả và đã được thực tiễn kiểm nghiệm là phù hợp, đúng đắn. Điều đó thể hiện ở những khía cạnh sau.

Một là, thể hiện văn hóa giữ nước chính nghĩa, hòa hiếu, yêu chuộng hòa bình của dân tộc Việt Nam.

Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, có đến gần hai phần ba thời gian dân tộc Việt Nam phải đứng lên tiến hành các cuộc chiến tranh, khởi nghĩa để giành và giữ quyền độc lập, tự chủ và phát triển. Nét văn hóa nổi bật trong công cuộc giữ nước của dân tộc Việt Nam là luôn nhận thức rõ rằng, mọi cuộc chiến tranh mà không đem đến hòa bình và cao hơn là không đem đến tình hữu nghị cho các dân tộc đều là cuộc chiến tranh vô nghĩa. Và không một dân tộc nào trên thế giới này lại không mong muốn có hòa bình, ổn định, độc lập, tự chủ...

Lịch sử cho thấy, biết bao công sức, xương máu của các thế hệ người Việt đã đổ xuống, thấm vào từng tấc đất trên khắp lãnh thổ Việt Nam, chính là để giữ cho nước nhà được toàn vẹn lãnh thổ, có độc lập, tự do và hòa bình. Có hòa bình rồi tiến tới xây dựng tình hữu nghị, chung sống hòa bình với các nước láng giềng, các nước khác trên thế giới, để đem lại lợi ích cho nhân dân ta, nhân dân các nước từng gây chiến với nước ta và dân tộc khác trên thế giới.

Các quốc gia yêu chuộng hòa bình xem chiến thắng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc giải phóng và bảo vệ Tổ quốc là chiến thắng chính nghĩa, là nguồn cổ vũ, khích lệ, nên họ sẵn sàng ủng hộ Việt Nam. Thực tiễn các cuộc chiến tranh giữ nước trước đây, đặc biệt là các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc trong thời đại Hồ Chí Minh, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ, to lớn của bạn bè yêu chuộng hòa bình trên thế giới... Do đó, chiến thắng của Việt Nam đã vượt lên một tầm cao mới, mang tầm vóc của thời đại.

Hai là, cụ thể hóa chủ trương, giải pháp chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang nỗ lực thực hiện mục tiêu phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, với tư duy, tầm nhìn chiến lược, Đảng ta đã kế thừa và vận dụng, phát triển sáng tạo kế sách “giữ nước từ lúc nước chưa nguy” của dân tộc thành phương thức, tư tưởng chỉ đạo chiến lược chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Vì vậy, giữ được nước mà không cần phải tiến hành chiến tranh trở thành mục tiêu cơ bản, tối thượng của chính sách quốc phòng và an ninh ở nước ta hiện nay.

Để thực hiện tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu chiến lược đó cần phải triển khai toàn diện, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp chiến lược nhằm bảo đảm cho Đảng vững, nước giàu, dân yên, quân mạnh, thêm bạn, bớt thù. Trong đó, chủ trương thúc đẩy giải quyết các tranh chấp trong quan hệ quốc tế, nhất là vấn đề biên giới, biển, đảo bằng biện pháp hòa bình là giải pháp trọng tâm, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mà Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế... giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”.

Ba là, tạo cơ sở để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là xu thế khách quan và tiếp tục tiến triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế trong điều kiện hiện nay đòi hỏi mỗi quốc gia phải lấy nội lực là cơ bản, chiến lược lâu dài và là nhân tố quyết định; ngoại lực là nhân tố quan trọng, cần thiết. Hay nói cách khác, phải biết huy động sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại một cách phù hợp, hiệu quả.

Quan điểm của Nhà nước Việt Nam là hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển có mối quan hệ gắn bó hữu cơ. Hòa bình, ổn định và phát triển của một nước có tác động đến các nước láng giềng, khu vực và thế giới. Lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc cần hài hòa và tôn trọng lợi ích chính đáng, hợp pháp của các quốc gia, dân tộc khác, trên cơ sở luật pháp quốc tế.

Cùng với đó, hợp tác quốc tế là xu hướng tất yếu để cùng nhau gìn giữ hòa bình, ổn định, thúc đẩy phát triển và tình hữu nghị giữa các quốc gia; không một quốc gia đơn lẻ nào, dù lớn và giàu mạnh đến đâu, có thể giải quyết được mọi vấn đề, nhất là các vấn đề toàn cầu, mà cần phải có sự hợp tác của các nước khác, cộng đồng quốc tế và người dân. Việc giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu phải có cách tiếp cận toàn cầu, đoàn kết và hợp tác quốc tế, đề cao chủ nghĩa đa phương.

Đảng, Nhà nước Việt Nam chủ trương giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng giải pháp hòa bình không chỉ là sự tôn trọng luật pháp quốc tế, đi đúng xu thế thời đại, mà còn góp phần quan trọng vào gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, lợi ích quốc gia cho các nước khác. Sự đồng thuận của nhân dân trong nước, sự đồng tình, ủng hộ, ghi nhận, đánh giá cao của cộng đồng quốc tế đối với giải pháp hòa bình Việt Nam đang thực hiện chính là cơ sở để thực hiện mục tiêu “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc” mà Đại hội XIII của Đảng xác định.

Bốn là, giải pháp tối ưu trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp hiện nay.

Trong những năm qua, Việt Nam và các nước láng giềng đã có nhiều nỗ lực trong việc áp dụng có hiệu quả luật pháp và thông lệ quốc tế để giải quyết các bất đồng, tranh chấp đặt ra. Quá trình giải quyết các bất đồng, tranh chấp giữa Việt Nam với các quốc gia khác, trong đó có vấn đề chủ quyền trên Biển Đông, Việt Nam luôn chủ trương giải quyết bất đồng, tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, thông qua đối thoại, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế; thực hiện hiệu quả và đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) nhằm duy trì hòa bình, ổn định, bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không; tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.

Điều đó chứng minh rõ Việt Nam không chỉ nỗ lực vận dụng sáng tạo làm phong phú thêm luật pháp quốc tế, mà còn luôn tích cực đấu tranh bảo vệ luật pháp quốc tế, nhất là khi Việt Nam kiên trì nguyên tắc “tôn trọng pháp luật quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982” và nỗ lực đưa nguyên tắc này vào các văn kiện của ASEAN, các thỏa thuận song phương như: DOC, Tuyên bố "Nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về Biển Đông" ngày 20-7-2012; Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, ký ngày 11-10-2011 và dự thảo Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).

Đây là những minh chứng thực tiễn sinh động không chỉ thể hiện rõ thiện chí, cam kết, quyết tâm, mà còn thể hiện rõ tính hiệu quả của biện pháp hòa bình trong giải quyết tranh chấp quốc tế mà Nhà nước ta đã thực hiện. Sự nhất quán và những nỗ lực của Nhà nước ta đã bảo vệ vững chắc được chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc, ngăn chặn, đẩy lùi xung đột và chiến tranh, giữ vững an ninh quốc gia, môi trường hòa bình, ổn định để tiến hành sự nghiệp đổi mới của đất nước trong gần 4 thập niên qua đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

Như vậy, có thể thấy, giải quyết các bất đồng, tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình là chủ trương chiến lược, nhất quán và là chính sách quốc phòng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với bối cảnh tình hình hiện nay và là giải pháp hiệu quả của Đảng, Nhà nước ta. Chủ trương này cần được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục quán triệt, nhận thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc và cụ thể hóa, tổ chức thực hiện bằng những hoạt động cụ thể, thiết thực trong thời gian tới. 

Mặt khác, nhận thức và thực hiện đúng đắn việc giải quyết các bất đồng, tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình của Đảng, Nhà nước ta là cơ sở quan trọng để chủ động nhận diện, kiên quyết đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch về chính sách quốc phòng của Việt Nam hiện nay.

 

Vạch trần, đấu tranh với biểu hiện “giả nhân giả nghĩa” của kẻ “hai mặt”

Cơ hội chính trị và bất mãn chính trị là hai khái niệm cùng loại, cùng bậc, xếp vào một hàng, có quan hệ chặt chẽ với nhau, đều biểu hiện thái độ và tư tưởng chính trị đối lập với Đảng, Nhà nước ta, đều nguy hại đối với việc xây dựng đoàn kết, thống nhất và củng cố chính trị nội bộ.

Vạch trần bản chất của những kẻ lươn lẹo “hai mặt”

Cơ hội chính trị tinh vi ứng biến với thời cuộc, diễn biến tình hình để lợi dụng “mặt tích cực” và né tránh “bất lợi” đối với bản thân; luôn mang trong mình mưu mô, toan tính và yếu tố bất mãn chính trị; ngược lại, bất mãn chính trị theo đuôi, đồng lõa với cơ hội chính trị và có thể chuyển hóa thành cơ hội chính trị. Xu hướng chung của các phần tử này là câu kết với nhau, dựa vào nhau và gắn bó chặt chẽ với các thế lực thù địch, hoặc bị các thế lực thù địch tìm mọi cách lôi kéo, mua chuộc, hà hơi, tiếp sức nhằm chống đối, cản trở cái tiến bộ, tích cực; thậm chí biến thành kẻ phản bội, phản động, đứng hẳn về phía đối lập, chống lại chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.

Từ sau Đại hội lần thứ XIII của Đảng đến nay, ở nước ta, cùng với việc đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cũng được tăng cường, bước đầu đạt những kết quả quan trọng, nhiều vụ án đã được đưa ra ánh sáng, được đông đảo nhân dân đồng tình, ủng hộ. Thế nhưng các thế lực thù địch, phản động đã lợi dụng một số thiếu sót, khuyết điểm của cuộc đấu tranh này hoặc xuyên tạc, dựng chuyện để kích động, lôi kéo những phần tử cơ hội, bất mãn chính trị chống phá Đảng, Nhà nước ta. Các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị đã và đang nhận được sự hà hơi, tiếp sức của các thế lực phản động để đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, phao tin đồn nhảm, tung tin xấu độc trên internet, mạng xã hội nhằm xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

 

Vạch trần, đấu tranh với biểu hiện “giả nhân giả nghĩa” của kẻ “hai mặt”
Ảnh minh họa internet 

Dưới đây là một số biểu hiện của các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị ở nước ta hiện nay.

Có quan điểm, tư tưởng, lập trường chính trị không vững vàng, luôn ba hoa, ba phải, lươn lẹo, dễ dao động, thiếu niềm tin, hoài nghi, bi quan, thiếu tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, không tin vào tương lai, tiền đồ tươi sáng của dân tộc. Do bản chất cơ hội, lập trường mơ hồ, thiếu kiên định cho nên khi cách mạng gặp khó khăn, bất lợi thì hoang mang, thỏa hiệp, phụ họa theo nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái, thù địch, quay lại chửi thề, phản ứng, chống phá Đảng, Nhà nước và chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc; nhưng khi nhận thấy tình thế đã đổi khác, thì theo đuôi, a dua "nói leo, ăn theo", ra sức tung hô, ủng hộ cách mạng, nói, viết như “đúng rồi” để che đậy dã tâm xấu xa của mình.

Biết chọn thời điểm, thời cơ viết bài, tung tin, phát ngôn và lợi dụng triệt để đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để mưu cầu lợi ích riêng, chủ tâm thu vén, vơ vét cho bản thân và gia đình. Họ thường che giấu bộ mặt thật, ít bày tỏ quan điểm, chính kiến rõ ràng, thái độ chính trị lờ mờ, trung dung, thỏa hiệp, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, dĩ hòa vi quý, chỉ làm việc gì thấy có lợi cho bản thân; lợi dụng hạn chế, khuyết điểm của đồng đội để đồn thổi, “bé xé ra to”, biến “con muỗi thành con voi”; từ đó lồng ý kiến cá nhân vào phê bình, tự phê bình để nịnh bợ, lấy lòng cấp trên, hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ không trong sáng, thậm chí sử dụng biện pháp triệt hạ đối phương.

Suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống hoặc bị kỷ luật, không còn giữ chức vụ, không có điều kiện để phô trương thanh thế, cho nên nảy sinh nhiều tâm tư, bất mãn, chán chường, bị thế lực cơ hội, bất mãn tác động, lôi kéo, mua chuộc, họ đã theo đuôi kẻ xấu. Hầu hết những phần tử này có tham vọng chính trị, chức quyền và khi tham vọng không được đáp ứng thì sinh ra bất mãn, thoái chí, phát ngôn thiếu trách nhiệm, không còn ý thức xây dựng cơ quan, đơn vị, chống đối những người đã ngồi vào ghế của mình. Họ lợi dụng xu thế dân chủ hóa, internet, mạng xã hội, tranh thủ sự hậu thuẫn của các thế lực thù địch, các phần tử bất mãn để thực hiện mưu đồ xấu xa, chống lại sự lãnh đạo của Đảng, cản trở sự tiến bộ xã hội.

Hám lợi, hám danh, thực dụng về kinh tế, đề cao vật chất, sùng bái đồng tiền và muốn thể hiện mình trước tổ chức, tập thể, thích nổi danh trên mạng xã hội và trước đám đông; không thừa nhận ai, nhất là cán bộ trẻ. Họ cố tình móc nối, liên kết với một số cán bộ, nhân viên “có ơn huệ với mình” để moi tin, truyền tin, xuyên tạc bản chất sự việc; sẵn sàng rẽ theo con đường khác, kể cả sai trái, miễn là có lợi ích kinh tế, thỏa mãn ý chí cá nhân. Họ thường tự coi là người có học, hiểu biết, tỏ ra nổi trội, luôn tự cho mình có công trạng, có đóng góp cho cách mạng, cho cơ quan, đơn vị nhưng bị bạc đãi, thiếu sự tôn trọng. Vì vậy, họ muốn “nổi sóng”, đưa ra “phát kiến” mới rồi lôi kéo, tổ chức, gây thanh thế, cốt để “đánh bóng tên tuổi” mình, gây khó dễ nhằm triệt hạ đối phương và những người mình không ưa thích. Khi mục đích không đạt được, vì nhiều nguyên nhân khác nhau khiến họ bức xúc, không thể kìm nén, đã phát ngôn thiếu trách nhiệm, xuyên tạc sự thật. Khi ý kiến, góp ý, kiến nghị của họ không được chấp nhận, hoặc mối quan hệ không trong sáng bị phát hiện, ngăn chặn, các phần tử này lập tức thể hiện thái độ chống đối, tìm mọi cách hạ thấp uy tín, danh dự của các cán bộ lãnh đạo cấp trên.

Đây chỉ là phác thảo ban đầu nhưng chỉ chừng ấy biểu hiện xấu đã khiến chúng ta phải đề cao cảnh giác, hết sức đề phòng sự phản trắc của những phần tử “hai mặt”, cơ hội chính trị này.

Kiên quyết đấu tranh đối với những kẻ “hai mặt”, cơ hội chính trị

Để đấu tranh, chặt đứt “cái vòi”, “chân tay”, “râu ria” của những kẻ cơ hội và bất mãn chính trị một cách hiệu quả, cần có các giải pháp toàn diện về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, cơ chế, chính sách, pháp luật với quyết tâm cao. Muốn vậy, cần phát huy vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu các tổ chức đảng, chính quyền các cấp. Cần chú trọng thực hiện một số biện pháp sau.

Một là, thực hiện kiên quyết, có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII và Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hiện nghiêm quy định về những điều đảng viên không được làm; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu; không bị mắc mưu vào các âm mưu, thủ đoạn, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động. Đây là biện pháp cơ bản, toàn diện và bao trùm trong đấu tranh với các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị ở nước ta hiện nay. Vì vậy, các cấp ủy, tổ chức đảng, bí thư cấp ủy phải quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng; đồng thời, nêu cao tinh thần trách nhiệm nêu gương của cán bộ chủ chốt các cấp. Cần phải nêu gương thật sự trong lời nói, hành động, công việc, cuộc sống và thực hiện nghiêm chế tài giám sát, kiểm soát sự nêu gương ấy.

Hai là, chăm lo xây dựng các tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự trung thành, cần, kiệm, liêm, chính, không tham nhũng, lãng phí, quan liêu, mất đoàn kết. Thực hiện có nền nếp và chất lượng việc đấu tranh tự phê bình và phê bình, chủ động ngăn chặn, ngăn ngừa xu hướng cơ hội, bất mãn chính trị. Đặc biệt là cần chú trọng việc nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, lý luận, nâng cao trình độ lý luận, trình độ nhận thức về Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Tăng cường công tác quản lý nội bộ, kịp thời đấu tranh và xử lý cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Ba là, chủ động, tích cực đấu tranh chống những biểu hiện của tư tưởng cơ hội và bất mãn chính trị trong cơ quan, đơn vị và các quan điểm sai trái, thù địch. Đề cao cảnh giác với các phần tử cơ hội chính trị muốn luồn sâu, leo cao vào bộ máy công quyền các cấp. Phát huy sức mạnh tổng hợp và nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các lực lượng chức năng nhằm phân loại và phát hiện kịp thời, đấu tranh hiệu quả với hoạt động phá hoại của các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị.

Bốn là, trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, phản động của các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị, cần bám sát vào quan điểm, chủ trương, đường lối, kết luận, chỉ thị và hướng dẫn của Đảng và các cơ quan chức năng Trung ương. Dựa trên cơ sở khoa học xác đáng, với luận điểm đúng đắn, luận cứ rõ ràng, luận chứng sắc bén, có tính thuyết phục cao, nhất là đấu tranh bảo vệ chính trị nội bộ, không để lộ, lọt thông tin, bí mật Nhà nước, tình hình nội bộ của cơ quan, đơn vị. Bên cạnh đó, cần quản lý chặt chẽ các phương tiện thông tin truyền thông, nhất là internet và mạng xã hội; kiểm soát, tổ chức tốt việc thu hồi tài liệu, ấn phẩm mà các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị phát tán để xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Trong bối cảnh hiện nay, các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị cần nhận diện đầy đủ, sâu sắc bản chất âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; đặc biệt là những biểu hiện chống phá tinh vi, lươn lẹo của các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị. Trên cơ sở đó có biện pháp đấu tranh phù hợp, hiệu quả, không để chúng “tác oai tác quái”, cản trở chúng ta thực hiện sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”

HÀNH TRANG QUAN TRỌNG NHẤT CỦA CON NGƯỜI LÀ SỰ KHIÊM TỐN VÀ GIẢN DỊ

 HÀNH TRANG QUAN TRỌNG NHẤT CỦA CON NGƯỜI LÀ SỰ KHIÊM TỐN VÀ GIẢN DỊ 


Khiêm tốn chính là biết đánh giá đúng về bản thân, không kiêu ngạo, coi bản thân bình đẳng với mọi người. Còn giản dị là sống đơn giản, không cầu kì, phù hợp hoàn cảnh xung quanh. Sự khiêm tốn, giản dị được thể hiện cụ thể ở phong cách ăn mặc nền nã, hành vi ứng xử lịch sự, lời nói chân thành, hành động tự nhiên,… Câu nói của Ăng – ghen đã cho thấy giá trị của hai đức tính quý báu này.


Khiêm tốn và giản dị là hai phạm trù gắn bó mật thiết, cùng đem lại cho cuộc sống con nguời nhiều ý nghĩa thiết thực. Biết mình – biết người, ta sẽ sống một cách thoải mái, tự nhiên. Lối sống này giúp ta làm chủ chính mình. Tâm hồn ta được thư thái, bỏ qua những ganh đua tầm thường ngoài xã hội. Nhờ sống dung dị mà mối quan hệ giữa người với người thêm gắn kết, ta hòa đồng và yêu thương mọi người xung quanh hơn. Không chỉ vậy, ta còn biết trân trọng từng phút giây của cuộc đời. Hơn hết, sự khiêm tốn còn trở thành động lực thúc đẩy ta phấn đấu không ngừng để trở nên tốt đẹp hơn mỗi ngày.


Không phải ngẫu nhiên mà cách sống tối giản của người Nhật Bản lại được ưa chuộng và trở nên thịnh hành ở nhiều nơi khác trên thế giới. Có lẽ, giữa sự phát triển quá nhanh của công nghệ khiến xã hội trở nên xô bồ thì việc thanh lọc tâm hồn, sắp xếp đồ đạc một cách ngăn nắp, dành nhiều thời gian bên cạnh thiên thiên, chi tiêu tiết kiệm,…lại đem đến sự cân bằng cho chúng ta. Việc chạy theo sự xa hoa, lãng phí, giả tạo chỉ thỏa mãn con người trong phút chốc và để lại nhiều hậu quả xấu.


Như vậy, khiêm tốn và giản dị quả thực là đức tính quý báu nhất của con người. Hãy trau dồi hai phẩm chất này ngay trong sinh hoạt hằng ngày, sống thật với mình và người, yêu thương bản thân và nâng niu thời gian hiện tại.

TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG

 “Cán bộ, chiến sỹ luôn gắn bó m.áu th.ịt với nhân dân; tích cực tham gia xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, giúp dân xoá đói, giảm nghèo; phối hợp xử lý có hiệu quả các tình huống phức tạp, nhất là trên những địa bàn chiến lược, trọng yếu về quốc phòng, an ninh.


Đồng thời, Quân đội luôn là lực lượng nòng cốt, xung kích đi đầu trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, cứu hộ, cứu nạn, khắc phục sự cố môi trường; qua đó, ngày càng làm sâu sắc hơn, toả sáng hơn phẩm chất "Bộ đội Cụ Hồ" trong tình hình mới; khẳng định vai trò của "Đội quân chiến đấu - Đội quân công tác - Đội quân lao động sản xuất."


Đặc biệt, trong những nỗ lực phòng, chống đại dịch COVID-19 thời gian qua cũng như hiện nay, cán bộ, chiến sỹ toàn quân đã thực sự là chỗ dựa vững chắc, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, xứng đáng là Quân đội của nhân dân, Quân đội trong lòng dân.”



THÁNG BẢY VỀ LẠI NHỚ CÁC ANH !

 THÁNG BẢY VỀ LẠI NHỚ CÁC ANH !


Tháng 7 về bất chợt mưa ngâu

Như nỗi nhớ ở hai đầu gặp lại

Tiếng vọng xưa đồng đội ơi gọi mãi

Giữa đại đạn- ở Trường Sơn


Tháng 7 về xin thắp nén hương thơm

Phút tưởng niệm những anh hùng L.iệt s.ĩ

Đã một thời lên đường đi đánh Mỹ

Hiến tuổi xuân cho đất nước thanh bình.


Tháng 7 về vang khúc hát Thương binh

Đời để lại"dấu chân tròn trên cát'

Dáng liêu xiêu nghiêng khoảng trời nắng nhạt

Lối đi về khập khiễng bước đường quê.


Tháng 7 về còn nhớ kỷ niệm xưa

Dòng Thạch Hãn nước hòa trong máu đỏ

Bao đồng đội nằm lại nơi Thành Cổ

Cầu Hiền Lương chia nỗi nhớ hai đầu.


Tháng 7 về bạn đang ở nơi đâu?

Tây Nguyên xanh hay Trường Sơn hùng vĩ

Tôi đứng lặng trước tượng đài Liệt sĩ

Nghe nhạc chiêu hồn lệ thấm ướt bờ mi.


Tháng 7 về ai có nhớ Người đi

Khi đất nước chao nghiêng miền Đông hải

Nửa vầng trăng một khoảng trời còn mãi

Sài gòn ơi?chung nhịp bước quân hành.


Tháng 7 về biết không có bóng anh

Trong đội ngũ điệp trùng hoa chiến thắng

Ngôi sao sáng giữa bầu trời tỏa nắng

Lời tri ân xin thắp nén hương lòng.


Tháng 7 về triệu triệu ngọn nến hồng

Thắp sáng nghĩa trang trải dài theo đất nước

Viếng các Anh linh thiêng hồn Tổ Quốc

Đất Tiên rồng vững bước mãi ngàn năm.

KHẮC GHI LỜI BÁC DẠY, NGÀY 02/7/1958.

 KHẮC GHI LỜI BÁC DẠY, NGÀY 02/7/1958.

“Yêu nước thì việc gì có lợi cho nhân dân, dù khó mấy cũng phải ra sức làm cho kỳ được. Điều gì có hại cho nhân dân, dù khó mấy cũng phải ra sức trừ cho kỳ hết”. 

Đây là lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài:“Vệ sinh yêu nước” (Phong trào diệt ruồi, muỗi), đăng trên Báo Nhân dân, số 1572, ngày 02/7/1958. Năm 1958 là năm đầu tiên thực hiện kế hoạch 3 năm cải tạo và bước đầu phát triển kinh tế, văn hóa sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, miền Bắc bắt đầu bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Theo Bác, yêu nước không thể tách rời thương yêu nhân dân, yêu nước không phải là cái gì chung chung, trừu tượng, mà nó được bắt đầu từ những việc nhỏ nhất và thể hiện ở việc làm cụ thể của mỗi người trong đời sống hằng ngày. Người có tinh thần yêu nước sẽ luôn đặt lợi ích của nhân dân lên trên, lên trước lợi ích cá nhân và dù khó khăn, gian khổ thế nào cũng ra sức làm cho kỳ được, còn việc gì có hại cho nhân dân phải ra sức trừ cho kỳ hết. Người cho rằng, ruồi muỗi là bạn đồng minh của giai cấp bóc lột. Nó gây ra nhiều tật bệnh, làm cho nhân dân ta ốm đau. Người ốm đau thì sức lao động bị giảm sút, công cuộc phát triển kinh tế và văn hóa bị hạn chế. Vì vậy, chúng ta phải ra sức tiêu diệt những kẻ địch độc ác bảo vệ sức khỏe, tính mạng và tài sản của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân mẫu mực của một người chiến sĩ cách mạng đã hiến dâng trọn vẹn cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang và cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc của nhân dân./.

Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong

 "DỄ TRĂM LẦN KHÔNG DÂN CŨNG CHỊU, KHÓ VẠN LẦN DÂN LIỆU CŨNG XONG" 


Trong tư tưởng và di sản Hồ Chí Minh có thể nói chữ “dân” có giá trị thiêng liêng và bền vững. Đời Bác chỉ xoay quanh chữ “dân” và chữ “nước”. Ta bắt đầu từ tên của Bác, Bác sống 79 mùa Xuân mà Bác dùng 175 tên, Bác lấy tên Nguyễn Ái Quốc từ thời ra đi tìm đường cứu nước. Trải qua 30 năm tìm đường cứu nước, đi vòng quanh thế giới gần 40 nước khác nhau để rồi trở về lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Bác lấy tên Nguyễn Ái Dân. Ái Quốc nghĩa là yêu nước, Ái Dân là yêu dân, “yêu nước là phải yêu dân”, đấy chính là triết lý sâu xa mà Bác đã truyền lại cho chúng ta ngày nay như một lẽ sống.


Trong hàng trăm luận điểm về “dân chủ” của Bác thì chữ “dân” là điểm xuất phát; trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không có gì mạnh mẽ bằng lực lượng đoàn kết của dân. Nói về dân, ông cha ta đã tổng kết “chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân, có dân thì có tất cả, mà mất dân là mất hết”. Hồ Chí Minh là người thực hành xuất sắc chân lý cao cả đó.  Theo Bác, cái gì tốt và có lợi cho dân cái đó là chân lý, phục vụ nhân dân là phục tùng 1 chân lý cao nhất, là đầy tớ, công bộc cho dân là lựa chọn 1 lẽ sống cao thượng nhất.  Đời Bác có thể nói là 1 minh chứng hoàn hảo cho những giá trị tinh thần thiêng liêng đó.

Đến những giây phút cuối cùng của đời Bác, Bác còn hỏi về dân, về đời sống của dân. Một chi tiết cảm động khi Bác nằm trên gường bệnh, trời Hà Nội oi nồng trong cơn giông bão, trong khi chiến tranh ác liệt, ta thương Bác nên mang cho Bác chiếc quạt, Bác bảo: Bác ở đây là đủ mát rồi, trong vườn Bác có đủ cây cối, đồng bào ta suốt ngày trên đồng ruộng, nắng nôi như thế lấy đâu ra quạt. Hãy mang chiếc quạt này cho các chú thương binh ở trại điều dưỡng... Bác thương dân đến như thế đấy. Hay Bác tiêu dùng hàng ngày như 1 người dân đạm bạc sống khắc khổ, tiết kiệm đến khắc khổ. Bác dạy chúng ta “mỗi đồng tiền, bát gạo mà chúng đang tiêu dùng đều từ mồ hôi của dân mà ra, thương dân thì phải tiết kiệm. Lãng phí, coi thường dân và tham ô tham nhũng, là có tội với dân”. Đặc biệt, tư tưởng của Bác gắn liền với đạo đức, phương pháp và phong cách. Và đời bác là con người thực hành, trong đó thực hành dân chủ, thực hành dân vận, thực hành đại đoàn kết dân tộc đều xuất phát từ chữ “dân”. Bác khẳng định vai trò, sứ mệnh của dân trong sự nghiệp phát triển của mình. Bác nhắc lại câu ca dao mà đồng bào ta thường nói: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Có dân giúp sức, ủng hộ và tin tưởng là bí quyết trường tồn của chúng ta.

Từ ngày đầu dựng nước đến 2 cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp và chống Mỹ. Đến tận giây phút cuối cùng, Bác từ chối nhận Huân chương và Bác khiêm nhường nói rằng: Vì Bác chưa hoàn thành nhiệm vụ, Bác chưa xứng đáng. Bác đợi miền Nam giải phóng xong, đồng bào miền Nam gắn Huân chương cho Bác cũng chưa muộn. Thế nên  chúng ta hiểu tại sao khi Bác mất nhân nhân trong Nam, ngoài Bắc, cả đồng bào nước ngoài thương tiếc vô cùng vì Bác sống mãi trong lòng dân. Chính vì đề cao chữ “dân” như thế, nên Bác luôn căn dặn cán bộ: Không làm điều gì trái ý dân; lo việc hàng ngày cho dân...

Hiện nay, còn nhiều nguyên nhân mà chúng ta chưa làm cho dân hài lòng, nhất là vấn đề lợi ích, chăm lo cho cuộc sống hàng ngày của nhân nhân và đặc biệt là đồng bào ở vùng sâu, vùng xa khó khăn như ở Hà Giang. Theo GS, TS Hoàng Chí Bảo, để làm theo được tư tưởng vì dân của Bác, trước hết chúng ta phải chăm lo đời sống, công ăn việc làm cho dân. Làm cho dân đủ ăn, đủ mặc, rồi mới tiến tới phát triển khá giả hơn. Cùng với đó, phải chăm lo, bồi dưỡng học vấn, văn hóa cho nhân dân, nhất là những vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn để họ tiến kịp với vùng xuôi, tiến kịp với mặt bằng xã hội và thế giới. Đặc biệt, phải xây dựng đội ngũ cán bộ vì dân, có trình độ, phẩm chất, đạo đức tốt, bởi cán bộ mà chưa thực sự xứng đáng với dân, thậm chí còn hư hỏng, suy thoái thì chỉ làm mất lòng tin ở dân. Cho nên có thể nói sức mạnh tiềm lực của quốc gia còn phản ánh vai trò “dân chủ, đoàn kết và đồng thuận” trong nhân dân. Hiện nay, Đảng ta đang ra sức thực hiện các nhiệm vụ mà Đại hội Đảng lần thứ XII đề ra, đó là phát triển kinh tế, phát triển văn hóa kết hợp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy lùi được quan liêu, tham nhũng, phòng ngừa được sự suy thoái đạo đức thì dân sẽ một lòng đi theo Đảng. Ngay cả khi Đảng gặp khó khăn nhân dân vẫn một lòng đi theo Đảng, niềm tin đó vẫn không giảm sút. Mấu chốt của vấn đề là xây dựng đội ngũ cán bộ toàn tâm, toàn ý vì dân, vì nước. Đấy chính là những gì tốt nhất để chúng ta thực sự học tập và làm theo tư tưởng của Bác.



Chi bộ đặc biệt như thế

 CHI BỘ ĐẶC BIỆT Ở CÔN ĐẢO


Chi bộ đầu tiên ở Nhà tù Côn Đảo ra đời gắn liền với hoạt động của đồng chí Nguyễn Hới (nguyên Ủy viên Ban Thường vụ, Ban Chấp hành TW lâm thời Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư Tỉnh ủy Nam Định). Ngay khi mới ra đảo bị giam ở Banh II (trại tù), Nguyễn Hới đã bàn bạc với một số đồng chí gần gũi rằng cần thiết phải thành lập ngay một tổ chức hạt nhân cộng sản để lãnh đạo trong tù. Cuối năm 1931, khi bọn chúa ngục chuyển những người tù chính trị mang án khổ sai và án tù về Banh I thì nhóm hạt nhân được hình thành do Nguyễn Hới đứng đầu.


 Chi bộ Đảng ở Côn Đảo ra đời vào khoảng đầu năm 1932 tại khám Chỉ Tồn, Banh I, lúc đầu có chừng 20 đảng viên, đồng chí Nguyễn Hới làm bí thư, chi ủy có các đồng chí Tôn Đức Thắng, Tống Phúc Chiểu, Tạ Uyên, Tống Văn Trân… Đồng chí Phan Đình Khải (tức Lê Đức Thọ) khi bị đày sang Banh I cũng được bổ sung vào chi ủy. Chi bộ xác định những nhiệm vụ chủ yếu là:

 - Lãnh đạo đấu tranh trong tù.

 - Giáo dục, bồi dưỡng lý luận cho nhau.

 - Tuyên truyền, giác ngộ binh lính, giám thị.

 - Liên hệ với Đảng ở đất liền và tổ chức trốn.


 Hoạt động trong tù, chi bộ đặt lên hàng đầu lòng trung thành vô hạn với Đảng, xem như tiêu chuẩn quan trọng nhất của đảng viên. Bất cứ ai giữ cương vị nào trong Đảng khi bị bắt phải giữ vững khí tiết, vào tù không giao động cầu an, không ngán ngại đấu tranh mới được tổ chức vào chi bộ.


Năm 1933, Chi ủy được bổ sung nhiều cán bộ có năng lực như Ngô Gia Tự, Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Nguyễn Chí Diễu, Trần Quang Tặng… Năm 1935, đồng chí Nguyễn Duy Trinh làm bí thư chi bộ thay đồng chí Ngô Gia Tự đã vượt ngục và không trở về (1934). Các đồng chí Tạ Uyên và Tống Văn Trân vượt ngục thành công về tham gia chỉ đạo cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (1940). Chi bộ tổ chức học tập văn hóa, chính trị và lý luận Mác – Lênin một cách bài bản cho anh em tù chính trị. Nhận được tin tức và tài liệu Đại hội lần thứ nhất của Đảng ta (1935) tại Ma Cao (Trung Quốc), trong đó có bổ sung vào Điều lệ Đảng thêm một loại hình tổ chức đảng là “chi bộ đặc biệt” (có thể tổ chức trong những điều kiện đặc biệt), chi bộ Đảng trong nhà tù Côn Đảo đổi tên thành chi bộ đặc biệt Côn Đảo.


Cuối năm 1941, đồng chí Phạm Hùng làm bí thư, thay đồng chí Nguyễn Duy Trinh vừa mãn án. Một số đồng chí có năng lực được bổ sung vào cấp ủy như Trần Ngọc Danh, Võ Sỹ, Văn Viên. Chi bộ tập trung mọi nỗ lực vào hoạt động cứu tế tù nhân. Bác Tôn, đồng chí Lê Văn Lương vẫn ở trong chi ủy. Toàn bộ công tác trung tâm của chi bộ đặc biệt trong thời kỳ này là đấu tranh chống khủng bố và cứu tế tù nhân.


 Sau khi Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), Chi ủy đã tích cực chỉ đạo đấu tranh chống bọn thân Nhật, chống bọn Tơrốtkít và lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám, giành chính quyền tại Côn Đảo, đưa hơn 2000 tù chính trị trở về tham gia kháng chiến.