Thứ Tư, 3 tháng 7, 2024

 

Dấu ấn đối ngoại Đảng trong nền ngoại giao Việt Nam: Bài 2: Khẳng định “tâm” và “tầm” của Đảng

Trong hàng loạt thông tin được viện dẫn để chống phá công tác đối ngoại Đảng, thế lực thù địch, phản động hướng mũi công kích vào việc quy kết: Đảng Cộng sản Việt Nam không hề và chưa hề có tên trên “bản đồ chính trường quốc tế”. Nếu có chỉ là sự bám víu, đối ngoại theo kiểu “nói leo, ăn theo”. Thế nhưng, đây thực chất chỉ là những lời “múa môi, sáo ngữ”, cố tình bóp méo, phủ nhận sự thật.

1. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nhiều lần khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Những kết quả và thành tựu đạt được trong thời gian qua là sản phẩm kết tinh sự sáng tạo của quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; trong đó có đóng góp hết sức quan trọng của công tác đối ngoại Đảng. Qua đó, “thế” và “lực”, “tâm” và “tầm”, uy tín và thanh danh của Đảng, đất nước được khẳng định vững chắc trên chính trường quốc tế.

Trong bối cảnh đất nước phải đối diện với muôn vàn khó khăn, thách thức, bằng ý chí, quyết tâm cao và tinh thần: "Tiền hô hậu ủng", "Nhất hô bá ứng", "Trên dưới đồng lòng", "Dọc ngang thông suốt", Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng “tự chỉnh đốn” để không ngừng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ trong điều kiện mới.

Trong suốt 3 nhiệm kỳ Đại hội Đảng liên tiếp (XI, XII, XIII), với việc kiên quyết, kiên trì phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, vai trò, vị thế của Đảng không ngừng được củng cố, tăng cường; góp phần tạo nên bước chuyển mới trên nhiều lĩnh vực, trong đó có công tác đối ngoại Đảng, đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ghi nhận: “Càng đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, Đảng của chúng ta càng mạnh lên, càng củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ, làm cho bộ máy trong sạch, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại”.

Sự ổn định bên trong là tiền đề quan trọng để Đảng đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại, góp phần nâng cao vị thế, uy tín của Đảng trên trường quốc tế. Tất cả các sự kiện, ngày lễ lớn của Đảng luôn nhận được sự quan tâm theo dõi, ủng hộ của các chính đảng, tổ chức quốc tế và nhiều quốc gia trên thế giới.

Sau khi Đại hội XIII của Đảng được tổ chức thành công, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận 215 điện mừng từ 105 đảng, 4 tổ chức khu vực và quốc tế, 76 tổ chức hữu nghị, 15 đoàn ngoại giao và 15 cá nhân đến từ 79 nước. Dịp kỷ niệm Ngày thành lập Đảng hằng năm luôn nhận được chuyến thăm, chúc mừng từ các chính đảng, tổ chức, bạn bè quốc tế. Đây là minh chứng sinh động cho uy tín của Đảng ta và sự cảm phục đặc biệt mà các quốc gia, chính đảng, nguyên thủ quốc gia trên thế giới dành cho Đảng Cộng sản Việt Nam.

Dấu ấn đối ngoại Đảng trong nền ngoại giao Việt Nam: Bài 2: Khẳng định “tâm” và “tầm” của Đảng

Từ ngày 12 đến 13-12-2023, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình và phu nhân cùng Đoàn đại biểu cấp cao của Đảng, Nhà nước Trung Quốc đã thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam theo lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và phu nhân. Ảnh: VŨ PHONG

Dấu ấn đối ngoại Đảng trong nền ngoại giao Việt Nam: Bài 2: Khẳng định “tâm” và “tầm” của Đảng

Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình trong chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam từ ngày 12 đến ngày 13-12-2023. Ảnh: VŨ PHONG

Thật tự hào khi tính đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thiết lập quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia; trong đó 96 đảng Cộng sản, 63 đảng cầm quyền, 28 đảng tham gia liên minh cầm quyền, tham chính. Đây là con số ấn tượng, riêng có mà một chính đảng cầm quyền trên thế giới thiết lập nên. Cùng với đó, từ sau Đại hội XIII của Đảng đến đầu tháng 7-2023, các hoạt động đối ngoại cấp cao đã đóng góp quan trọng vào tăng cường sự tin cậy chính trị, tạo đà thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ hợp tác giữa nước ta với các đối tác, bạn bè quốc tế. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã trực tiếp chủ trì, tham gia khoảng 150 cuộc tiếp xúc, điện đàm, thư và điện đối ngoại, các cuộc hội đàm trực tiếp hoặc trực tuyến, các cuộc tiếp, làm việc, dự hội nghị quốc tế với các vị lãnh đạo đảng, nhà nước, tổ chức quốc tế. Cùng với đó, nhiều hoạt động đối ngoại hết sức sôi động, có ý nghĩa trên nhiều phương diện được các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, các đồng chí đứng đầu ban Đảng, tổ chức chính trị - xã hội và lãnh đạo các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương thực hiện một cách chủ động, sáng tạo, hiệu quả.

2. Hoạt động đối ngoại Đảng đã tạo nền tảng chính trị quan trọng cho việc ổn định, mở rộng và thắt chặt quan hệ song phương giữa nước ta với các nước; đồng thời góp phần giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến an ninh và phát triển đất nước, cũng như các vấn đề nảy sinh trong quan hệ song phương. Điểm lại các hoạt động đối ngoại của đất nước từ tháng 7-2023 đến tháng 6-2024 có thể thấy, trong thời gian ngắn, lãnh đạo nhiều quốc gia, nhất là các nước có tầm ảnh hưởng trong khu vực và trên thế giới có chuyến thăm cấp nhà nước đến Việt Nam và nhận được sự đón tiếp trọng thị, chân thành, chu đáo từ các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước Việt Nam. 

Có thể kể đến như từ ngày 10 đến ngày 11-9-2023, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì đón Tổng thống Mỹ Joe Biden thăm cấp Nhà nước đến Việt Nam. Việc hai quốc gia từng đứng ở hai bên chiến tuyến, có thể chế chính trị khác biệt (từng được cho là đối lập), cùng ra Tuyên bố chung nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện và đề ra phương hướng cho hợp tác lâu dài là sự kiện ngoại giao mang tính biệt lệ, có dấu ấn lịch sử đặc biệt quan trọng.

Dấu ấn đối ngoại Đảng trong nền ngoại giao Việt Nam: Bài 2: Khẳng định “tâm” và “tầm” của Đảng
 
Dấu ấn đối ngoại Đảng trong nền ngoại giao Việt Nam: Bài 2: Khẳng định “tâm” và “tầm” của Đảng
 Tổng thống Mỹ Joe Biden trong chuyến thăm cấp Nhà nước đến Việt Nam từ ngày 10 đến 11-9-2023. Ảnh: TRỌNG HẢI

Cũng trong năm 2023, từ ngày 12 đến 13-12-2023, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình và phu nhân đã thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam theo lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và phu nhân. Chuyến thăm lần này cùng với chuyến thăm lịch sử tới Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ ngày 30-10 đến 1-11-2022, ngay sau Đại hội XX của Đảng Cộng sản Trung Quốc có ý nghĩa quan trọng, để lại dấu ấn lịch sử cho quan hệ của Đảng Cộng sản hai nước. Trả lời báo chí về kết quả chuyến thăm, đồng chí Lê Hoài Trung, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương nhấn mạnh, chuyến thăm cấp nhà nước tới Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và phu nhân cùng đoàn đại biểu cấp cao của Đảng, Nhà nước Trung Quốc thành công tốt đẹp, đạt được nhiều kết quả lớn, thể hiện sự coi trọng cao độ của Đảng, Nhà nước Trung Quốc và cá nhân đồng chí Tập Cận Bình đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam cũng như đối với uy tín của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. 

Và mới đây, nhận lời mời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin đã thăm cấp Nhà nước đến Việt Nam từ ngày 19 đến 20-6-2024. Đây là chuyến thăm với nhiều ý nghĩa quan trọng, là một điểm nhấn nổi bật của đối ngoại Việt Nam năm 2024. Chuyến thăm thể hiện sự coi trọng dành cho Việt Nam trong triển khai chính sách đối ngoại hướng Đông của Nga. Trong hơn hai thập kỷ lãnh đạo Liên bang Nga, đây là lần thứ năm Tổng thống Vladimir Putin thăm Việt Nam, đồng thời là một trong những chuyến công du nước ngoài đầu tiên sau khi tái đắc cử Tổng thống nhiệm kỳ thứ 5 vào tháng 3-2024.

Những chuyến đi của Tổng thống Vladimir Putin để lại dấu ấn đậm nét và đóng góp vào việc tạo dựng những nền tảng quan trọng cho sự phát triển của quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga, trong đó có việc khởi xướng, ủng hộ thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược Việt Nam - Liên bang Nga năm 2001 và nâng cấp lên Đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2012...

Dấu ấn đối ngoại Đảng trong nền ngoại giao Việt Nam: Bài 2: Khẳng định “tâm” và “tầm” của Đảng

Trong chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam, ngày 20-6-2024, Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin đã vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ảnh: NGÔ VIỆT TRUNG

Dấu ấn đối ngoại Đảng trong nền ngoại giao Việt Nam: Bài 2: Khẳng định “tâm” và “tầm” của Đảng
 Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin trong chuyến thăm cấp Nhà nước đến Việt Nam. Ảnh: TRỌNG HẢI

Từ việc thực hiện đường lối, chủ trương đối ngoại của Đảng và dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với hơn 190 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, bao gồm 190/193 nước thành viên Liên hợp quốc. 

Trong đó, Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với hơn 30 nước; bao gồm 5 nước thành viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, toàn bộ Nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu (G7) và tất cả thành viên ASEAN. Việt Nam có quan hệ thương mại với hơn 220 đối tác, hơn 70 nước đã công nhận quy chế kinh tế thị trường đối với Việt Nam. Cùng với đó, Việt Nam hiện là thành viên của hơn 70 tổ chức, diễn đàn đa phương khu vực và toàn cầu. Đây là những minh chứng sinh động, thuyết phục khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và là tiền đề vững chắc để tiếp tục nâng tầm uy tín, vị thế của Đảng, của đất nước trên tất cả các lĩnh vực, các mối quan hệ quốc tế.

Thực tế còn cho thấy, đã có không ít các chính đảng, tổ chức, bạn bè quốc tế bày tỏ thiện chí, sự ủng hộ và mong muốn học hỏi kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, các hoạt động trao đổi lý luận và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn với các chính đảng qua nhiều hình thức khác nhau được tăng cường và tổ chức thực hiện ngày càng hiệu quả. Đảng ta đã phối hợp tổ chức thành công Hội thảo Lý luận lần thứ chín với Đảng Nhân dân Cách mạng Lào; Trao đổi Lý luận lần thứ mười với Đảng Cộng sản Nhật Bản; Đối thoại Lý luận lần thứ bảy với Đảng Dân chủ Xã hội Đức (SPD) và Đối thoại Chính sách lần thứ ba với Đảng Cánh tả Đức… Các hội thảo trao đổi, đối thoại lý luận, chính sách có ý nghĩa quan trọng để các bên tổng kết và chia sẻ thành tựu về lý luận và thực tiễn lãnh đạo xây dựng, phát triển đất nước. Qua đó, Đảng ta có điều kiện tích lũy thêm kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; về xây dựng đảng; về lãnh đạo, quản lý đất nước và giải quyết các vấn đề trên tất cả các lĩnh vực...

Gần 95 năm đã trôi qua kể từ Ngày thành lập Đảng, với bản lĩnh, trí tuệ, tài năng tuyệt vời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang chèo lái sự nghiệp cách mạng nói chung, công tác đối ngoại Đảng nói riêng đạt nhiều thành tựu hết sức to lớn; là nền móng vững chắc đưa sự nghiệp cách mạng đi đến những thắng lợi vẻ vang. Đó cũng chính là bằng chứng sinh động, thuyết phục giúp bóc trần mọi luận điệu, thủ đoạn của những kẻ phản động, chống phá đang cố tình hạ bệ thành quả công tác đối ngoại của Đảng ta! 


LIÊM CHÍNH QUAN CHỨC

Bài báo “Cần, kiệm, liêm, chính” của Bác Hồ nhằm răn dạy cán bộ về đạo đức, khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa còn non trẻ, toàn quốc kháng chiến trường kỳ. Từ đó đến nay, những thành tựu to lớn, vĩ đại mà Nhà nước và nhân dân ta đạt được có phần quan trọng là nhờ thực hành cần, kiệm, liêm, chính.

“Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm, là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc vǎn minh tiến bộ”, đó là nội dung trong bài báo “Cần, kiệm, liêm, chính” của Bác Hồ viết năm 1949. Trong đó, “Liêm là trong sạch, không tham lam” - thật đơn giản, dễ hiểu, dễ học và dễ làm theo. Bác dạy sâu sắc như vậy, nhưng thực hiện không dễ, vì trong cuộc sống có biết bao nhiêu cám dỗ, cạm bẫy rình rập, nhất là đối với những người có quyền thế, chức vụ, địa vị mà mỗi lời nói, quyết định của họ đều có ảnh hưởng đến nhiều người, thậm chí đến cả cộng đồng.

Hiện nay, trong xã hội đang phổ biến một tư duy rằng, hễ là người có quyền, có danh thì có lợi, kể cả cái lợi ích đến từ những hành vi vi phạm pháp luật. Thế nên, có nhiều cán bộ, đảng viên đã bị xử lý vì sa ngã trước cái lợi bất chính. Trong số ấy cũng có những người trước cái lợi nhỏ thì có thể từ chối được, nhưng với những cái lợi cực lớn như hàng trăm, hàng nghìn tỷ đồng “lại quả” từ các dự án thì đã đánh mất mình.

“Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm” là ước mong của Bác Hồ và của tất cả chúng ta. Đó là dân tộc mà từ người già đến trẻ, từ cán bộ đến người dân, từ công chức, viên chức đến tiểu thương, công nhân, nhà khoa học... đều chăm chỉ, cần cù lao động và sống bằng thu nhập chính đáng. Vì vậy, muốn giữ được thanh danh thì phải tự rèn giũa để có đủ bản lĩnh, phẩm chất mà từ chối những cái lợi không chính danh, cái lợi bất minh, phi pháp, ngõ hầu giữ lấy phẩm cách liêm khiết, trong sạch của bản thân mình.

Biết là không dễ nhưng không thể để tình trạng bất liêm, tham nhũng có nguy cơ lan tràn trở thành phổ biến trong xã hội. Điều đó sẽ làm thoái hóa cả một thế hệ cán bộ và tạo ra hậu quả lâu dài đối với hệ thống chính trị.

Vì thế, trước hết, làm sao để quan chức, công chức, những người có quyền lực hay dựa vào quyền lực không thể, không muốn, không dám và không cần tham nhũng, bất liêm, bất chính. Cần phải có một hệ thống đa chiều, vững chắc, bao gồm cả giáo dục đạo đức, hệ thống pháp luật nghiêm minh, nghiêm ngặt và sự giám sát có hiệu quả của xã hội.

Các quy trình ra quyết định, quá trình thực thi, nhất là trong các hoạt động kinh tế cần phải được công khai và minh bạch để mọi người có thể theo dõi và giám sát. Công nghệ thông tin có thể được sử dụng để tạo ra các hệ thống giám sát tự động và công khai.

Cần phải có các kênh thông tin cho phép và bảo vệ người dân tố cáo về những hành vi tham nhũng mà không sợ bị trù dập. Báo chí và các tổ chức xã hội cũng cần được khuyến khích để đưa ra những báo cáo điều tra về tham nhũng, tiêu cực.

Sau cùng, mỗi quan chức, công chức, viên chức cần phải tự giác tuân thủ đạo đức nghề nghiệp và kỷ luật bản thân. Họ cần phải nhận thức được rằng: Việc giữ gìn phẩm chất liêm khiết không chỉ là lợi ích cá nhân mà còn là trách nhiệm với cộng đồng và xã hội; rằng khi họ đút túi một đồng tiền tham nhũng thì có nghĩa ai đó đang nghèo khổ, bệnh tật ngoài kia phải đóng thêm một đồng viện phí, học phí...

Quan chức phải xem sự liêm chính của bản thân như là sinh mệnh chính trị của mình. Không cần tham nhũng hại dân mà ngược lại, đồng cam cộng khổ, chia sẻ ngọt bùi với nhân dân, họ vẫn có thể có được một cuộc đời đầy đủ hạnh phúc, thanh liêm và nhiều giá trị.

Bài báo “Cần, kiệm, liêm, chính” của Bác Hồ nhằm răn dạy cán bộ về đạo đức, khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa còn non trẻ, toàn quốc kháng chiến trường kỳ. Từ đó đến nay, những thành tựu to lớn, vĩ đại mà Nhà nước và nhân dân ta đạt được có phần quan trọng là nhờ thực hành cần, kiệm, liêm, chính. Thực tế hiện nay đã cho thấy, những ai không thực hiện lời dạy đó đến nơi đến chốn đã phải trả giá. Đó cũng là bài học đạo đức quý báu đối với mỗi chúng ta, không chỉ riêng với quan chức./. 

 

Phòng, chống "diễn biến hòa bình": Cảnh giác với dụng ý xấu

Hôm nay, ông bà Đậu-Tuyết thịt con gà, làm bữa cơm mừng con gái út vừa hoàn thành kỳ thi tốt nghiệp THPT. Sau bữa cơm, thấy ông Đậu ngồi bần thần ngoài sân, bà Tuyết đi tới, vừa kéo ghế vừa hỏi:

- Ông lại có chuyện gì à? Lúc nãy nói chuyện với con thì rôm rả, sao giờ lại tâm trạng thế? Hay là đang tương tư bà nào? Tôi là tôi nghi lắm!

- Ơ, cái bà này, toàn nghĩ linh tinh. Tôi đang lo đây này, không hơi đâu mà đùa với chả cợt.

Thấy chồng gắt lên, bà Tuyết biết mình đùa vô duyên, liền rót chén nước chè đưa cho chồng, giọng nhẹ nhàng:

- Tôi đùa một tí thôi mà... Ông uống nước đi rồi nói cho tôi nghe nào...

Phòng, chống "diễn biến hòa bình": Cảnh giác với dụng ý xấu
Thí sinh thi tốt nghiệp THPT. Ảnh minh họa: TTXVN

- Hồi chiều, tôi ra đón con Ngà nhà mình thì gặp anh Tân cũng đợi con ở đấy. Anh Tân mở mạng xã hội đưa cho tôi xem. Tôi ngỡ ngàng khi đọc thấy đề thi ngữ văn trùng với suy đoán trên mạng, rồi có nhiều bình luận, chia sẻ, cho rằng có tiêu cực trong thi cử bà ạ!

Hiểu nỗi lo lắng của chồng, bà Tuyết nói:

- Tôi thấy ông vì lo quá mà mất khôn rồi đấy. Tin ông nói đã đăng trên các báo, đài, ti vi rồi. Hiện nay, công an đang vào cuộc điều tra, đã phát hiện một thanh niên chia sẻ trên TikTok và đang tiếp tục truy tìm nguồn tán phát thông tin này. Cơ quan công an khuyến cáo người dân không chia sẻ những thông tin sai lệch. Ban chỉ đạo cấp quốc gia Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2024 khẳng định, đề thi môn Ngữ văn được bảo mật an toàn tuyệt đối trước giờ thi. Còn thông tin ông đọc trên mạng gồm bài viết, bình luận, chia sẻ là những kẻ xấu cố tình tán phát làm ảnh hưởng đến tâm lý của thí sinh dự thi, gây hoang mang dư luận; nham hiểm hơn nữa còn là xuyên tạc công tác giáo dục, tổ chức thi cử để xảy ra tiêu cực của cơ quan các cấp đấy ông ạ!

Ở trong bếp, Ngà nghe rõ và hiểu đầu đuôi câu chuyện, liền mang đĩa cam lên mời bố mẹ, giọng vui vẻ:

- Con cảm ơn bố mẹ đã lo lắng cho con. Con trực tiếp tham gia kỳ thi và một số bạn ở các phòng khác đều nói kỳ thi năm nay tổ chức nghiêm túc, đúng quy chế. Còn con qua đối chiếu thấy kết quả làm bài cũng khả quan nên bố mẹ yên tâm ạ!

- Con nó nói đúng đấy ông ạ! Chương trình Thời sự tối nay cũng vừa đưa tin về kỳ thi được chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng, sâu sát và toàn diện; quá trình tổ chức thi bảo đảm an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế...

- Thì tôi cũng vì lo cho con nhà mình nên khi thấy thông tin, rồi đọc những bình luận đâm ra hoang mang. Tôi không biết đó là âm mưu của kẻ xấu, cố tình dựng chuyện, thổi phồng, xuyên tạc.

Nghe vậy, bà Tuyết nhìn ông Đậu, giọng nhẹ nhàng:

- Đấy ông thấy chưa, từ giờ phải chú ý cảnh giác với thông tin trên “phây”, trên "tích tốc", trên mạng đấy, không phải thấy gì cũng tin được đâu. Mình chỉ nên tin báo chí chính thống, không lại mắc mưu những kẻ có dụng ý xấu đấy ông ạ!

LỜI BÁC DẠY NGÀY NGÀY NÀY NĂM XƯA

  “Nếu mọi người học tập thấm nhuần tinh thần anh dũng và chí khí kiên cường, học được ở Viện bảo tàng, mà quyết tâm làm đúng chính sách của Đảng, đi đúng đường lối quần chúng, đặt lợi ích chung lên trên lợi ích riêng, thì chúng ta nhất định thắng lợi trong mọi việc”.

Lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài: “Xem Viện bảo tàng cách mạng”, đăng trên Báo Nhân dân, số 1936, ngày 04 tháng 7 năm 1959. Đây là thời kỳ miền Bắc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện kế hoạch 3 năm cải tạo và bước đầu phát triển kinh tế, văn hóa sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

 

Dấu ấn đối ngoại Đảng trong nền ngoại giao Việt Nam: Bài 3: Vững tin, vững tiến trên chính trường thế giới! (tiếp theo và hết)

Đối ngoại Đảng là sự kế thừa, nâng lên tầm cao mới của truyền thống ngoại giao dân tộc. Trong thời đại mới, đối ngoại Đảng cần tiếp tục thể hiện rõ vai trò tiên phong, dẫn dắt nền ngoại giao nước nhà. Thông qua kết quả đối ngoại Đảng và uy tín, vị thế của Đảng để vừa tập hợp lực lượng trong và ngoài nước, huy động mọi nguồn lực phục vụ phát triển đất nước; vừa đề cao trách nhiệm, góp phần xây dựng hòa bình thế giới và sự tiến bộ nhân loại.

1. Thời gian tới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế chung, nhưng thế giới đã, đang và sẽ trải qua nhiều biến động lớn, phức tạp hơn so với dự báo. Toàn thế giới đã đoàn kết cùng nhau bước qua đại dịch Covid-19, nhưng chuỗi sản xuất, trao đổi dịch vụ thế giới sẽ có những thích ứng mới trước tình trạng đứt gãy các chuỗi cung ứng và sự bất ổn trong quan hệ giữa các nền kinh tế lớn; liên kết kinh tế gia tăng trong khu vực, giữa một số nước. Cạnh tranh giữa các nước lớn, vấn đề xung đột Nga-Ukraine; giữa Nga và Liên minh châu Âu, giữa Iran và Israel diễn ra rất gay gắt, tác động sâu sắc đến cục diện an ninh chính trị thế giới.

Các vấn đề toàn cầu, an ninh phi truyền thống đặt ra nhiều thách thức chưa từng có cho phát triển kinh tế-xã hội của nhiều nước. Khu vực châu Á-Thái Bình Dương tiếp tục là động lực chính trong quá trình phục hồi kinh tế thế giới, song cũng là một trong những trọng tâm của cạnh tranh nước lớn. Khu vực Đông Nam Á đang được các nước trong và ngoài khu vực ngày càng coi trọng, tích cực can thiệp, tạo ảnh hưởng; trong khi nội bộ khu vực vẫn còn những vấn đề chưa thống nhất.

Trước tình hình đó, tiếp tục triển khai thực hiện chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đối ngoại Việt Nam nói chung, đối ngoại Đảng nói riêng cần tiếp tục phát huy mạnh mẽ trường phái ngoại giao “cây tre”, gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển; thực hiện “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, kiên định về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược.

Dấu ấn đối ngoại Đảng trong nền ngoại giao Việt Nam: Bài 3: Vững tin, vững tiến trên chính trường thế giới! (tiếp theo và hết)

Chủ tịch nước Tô Lâm chủ trì lễ đón trọng thể Tổng thống Liên bang Nga Vladimir Putin thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam, ngày 20-6-2024. Ảnh: TRỌNG HẢI

Là một trụ cột quan trọng trong mặt trận đối ngoại của đất nước, đối ngoại Đảng tập trung sức lãnh đạo nhằm đẩy mạnh, nâng tầm nhiều mặt. Trước hết, vị trí, vai trò đối ngoại Đảng phải được coi trọng, đánh giá đúng tầm mức; nhất là trong việc góp phần củng cố nền tảng chính trị vững chắc cho quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước; duy trì và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phát triển của đất nước; đóng góp vào thành công chung của công tác đối ngoại; nâng cao vị thế, uy tín của Đảng và đất nước trên chính trường quốc tế. 

Thực hiện nhất quán chủ trương Đại hội XIII của Đảng: “Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”. Theo đó, mỗi trụ cột đối ngoại đều có vai trò, sứ mệnh riêng, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước. 

Trong đó, đối ngoại Đảng có 3 nhiệm vụ đặc biệt quan trọng cần quan tâm lãnh đạo, thực hiện thắng lợi: 1. Tham gia hoạch định chủ trương, đường lối, các quyết sách về những vấn đề đối ngoại quan trọng; 2. Triển khai các hoạt động đối ngoại nhằm phát triển quan hệ với các chính đảng góp phần củng cố nền tảng chính trị cho quan hệ của Việt Nam với các nước; xây dựng khuôn khổ, định hướng quan hệ, xử lý nhiều vấn đề trong quan hệ giữa Việt Nam với các đối tác quan trọng; 3. Quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại của toàn bộ hệ thống chính trị, chỉ đạo công tác đối ngoại Đảng và đối ngoại nhân dân từ Trung ương đến cơ sở. Theo đó, trong điều kiện mới, đối ngoại Đảng tiếp tục phát huy vai trò và thế mạnh; triển khai một cách chủ động, tích cực, sáng tạo, có trọng tâm, trọng điểm, với nhiều nội dung mang tính đột phá cả trước mắt, lẫn lâu dài.

2. Để làm được điều đó, cần phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong tham gia tiến hành công tác đối ngoại Đảng. Mỗi tổ chức Đảng, mỗi đảng viên phải đề cao vai trò, trọng trách của mình như một “sứ giả của tình hữu nghị”; góp phần làm đẹp thêm hình ảnh người đảng viên Đảng Cộng sản, đồng thời nâng cao uy danh, uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam trên trường quốc tế.

Trong các hoạt động đối ngoại Đảng, cùng với sự tham gia của lãnh đạo cao nhất của Đảng là đồng chí Tổng Bí thư và các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội, cần sớm nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện cơ chế, tạo điều kiện cho các hoạt động đối ngoại Đảng của các ban Đảng và các tỉnh ủy, thành ủy cho đến tổ chức Đảng nhỏ nhất và từng đảng viên.

Tăng cường hơn nữa các chuyến thăm hữu nghị cấp cao, gặp gỡ cấp cao giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với các chính đảng, các quốc gia trên thế giới. Đồng thời, Đảng quan tâm hơn nữa đến việc cử đại diện tham gia sự kiện quốc tế, khu vực và nhất là với các nước láng giềng; tăng cường các hình thức điện đàm, hội đàm, gặp gỡ, hội nghị đa phương trực tiếp hoặc trực tuyến ở các cấp.

Đối với các ban Đảng, các cấp, các ngành, cần chú trọng hơn đến việc gặp gỡ, đối thoại, trao đổi trên kênh song phương và đa phương; đào tạo cán bộ, ký kết các thỏa thuận hợp tác, kết nghĩa giữa các địa phương của Việt Nam và các nước trên thế giới... Coi trọng triển khai, thực hiện hiệu quả các thỏa thuận, chương trình hợp tác đã ký kết giữa các Đảng bộ trực thuộc Trung ương với các đảng đối tác để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đối ngoại Đảng.

Đóng góp chung vào những thành công của đối ngoại Đảng, có vai trò quan trọng của hệ thống các cơ quan đại diện Việt Nam, cán bộ, đảng viên làm công tác đối ngoại ở nước ngoài mà phần đông là các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Thật đáng ghi nhận vì đến nay, Việt Nam đã có gần 100 cơ quan đại diện ở nước ngoài, trải khắp các châu lục và ở mỗi cơ quan này đều đã thành lập tổ chức Đảng lãnh đạo một cách trực tiếp, toàn diện.

Đây là lực lượng tuyến đầu thực hiện công tác thông tin đối ngoại tại địa bàn ngoài nước; do vậy, các tổ chức Đảng và đội ngũ đảng viên thực hiện nhiệm vụ ở nước ngoài cần đề cao vai trò, trách nhiệm, tích cực quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, về vai trò, sứ mệnh, bản chất tốt đẹp của Đảng Cộng sản Việt Nam đến với bạn bè quốc tế; đồng thời thu thập những thông tin có chọn lọc về tình hình, sự phát triển của thế giới, khu vực, về các vấn đề được dư luận và nhân dân trong nước quan tâm; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc; tạo sự đồng thuận, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước; kêu gọi, thu hút sự hợp tác, hỗ trợ của thế giới đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 

3. Trong một thế giới đa cực, diễn biến phức tạp, mau lẹ, các cấp cần tiếp tục đổi mới hơn nữa nội dung, phương thức hoạt động, không ngừng nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại Đảng, với phương châm "dĩ bất biến, ứng vạn biến", "chủ động linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả”, bảo đảm phối hợp tổng thể, chặt chẽ, đồng bộ giữa các trụ cột đối ngoại. Phát huy vai trò của đối ngoại Đảng trong thúc đẩy bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược đáp ứng đúng và trúng yêu cầu của tình hình mới.

Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về đối ngoại, nhất là các vấn đề tác động trực tiếp, lâu dài đến an ninh và phát triển đất nước. Thường xuyên theo dõi, nghiên cứu, nắm chắc và dự báo đúng tình hình để kịp thời có đối sách và giải pháp phù hợp. Tích cực triển khai, hiện thực hóa các đề án, chiến lược lớn trong lĩnh vực đối ngoại, an ninh, quốc phòng, trong đó có Nghị quyết về những định hướng, chủ trương lớn triển khai đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng, Chiến lược Đối ngoại Việt Nam đến năm 2030. Đồng thời, không ngừng đổi mới tư duy đối ngoại phù hợp với tình hình mới; tăng cường tính chủ động, tính chiến lược và tính đồng bộ, toàn diện trong tất cả các khâu, từ nghiên cứu dự báo đến tham mưu, xử lý các vấn đề đối ngoại và tổ chức, triển khai các hoạt động đối ngoại Đảng.

Dấu ấn đối ngoại Đảng trong nền ngoại giao Việt Nam: Bài 3: Vững tin, vững tiến trên chính trường thế giới! (tiếp theo và hết)

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tiếp Chủ tịch Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) Masatsugu Asakawa, chiều 13-3-2024. Ảnh: TRỌNG HẢI

Phát huy mạnh mẽ vai trò đầu mối trong quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại, bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước đối với hoạt động đối ngoại của toàn bộ hệ thống chính trị, nâng cao tính thiết thực, hiệu quả của các hoạt động đối ngoại Đảng. Tập trung mở rộng và phát triển về chiều sâu các mối quan hệ đối ngoại của Đảng, tăng cường sự tin cậy, tạo nền tảng chính trị vững chắc cho quan hệ song phương. 

Tiếp tục tăng cường đoàn kết, hợp tác toàn diện và tin cậy với các đảng cầm quyền ở các nước láng giềng có chung biên giới, các nước xã hội chủ nghĩa, đưa quan hệ vào chiều sâu, củng cố sự tin cậy chính trị, tạo nền tảng chính trị vững chắc, giữ vai trò định hướng chiến lược cho quan hệ song phương; đồng thời, phát huy mạnh mẽ lợi thế đặc thù của kênh đối ngoại Đảng để góp phần giải quyết hiệu quả các vấn đề lớn trong quan hệ song phương với các nước này. 

Cùng với đó, cần tiếp tục thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ với các đảng cầm quyền, đảng tham chính, đảng có vị trí và vai trò quan trọng trong việc hình thành và triển khai chính sách của các nước đối với Việt Nam; tăng cường thực chất quan hệ với các đảng cộng sản và công nhân có vị trí, vai trò trên chính trường các nước, có nhiều ảnh hưởng trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và ở từng khu vực để tạo lực lượng hậu thuẫn chính trị.

Tiếp tục phát huy vai trò của đối ngoại Đảng để đóng góp thiết thực cho công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là việc tiếp thu kinh nghiệm xây dựng Đảng, kinh nghiệm lãnh đạo, điều hành đất nước. Đồng thời, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại, tranh thủ sự đoàn kết và ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao uy tín quốc tế, vị thế của Đảng và đất nước, tạo thuận lợi cho việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đề ra tại Đại hội XIII của Đảng.

Để đáp ứng yêu cầu của công tác đối ngoại Đảng trong thời kỳ mới, cần tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, bản lĩnh và trí tuệ, hiện đại, chuyên nghiệp về phong cách, phương pháp làm việc, có tinh thần đổi mới, sáng tạo; quyết liệt phòng, chống mọi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, xuống cấp về đạo đức, lối sống trong đội ngũ làm công tác ngoại giao.

Tiếp tục coi trọng xây dựng, chỉnh đốn Đảng và công tác cán bộ, trong đó có đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá cán bộ ngoại giao, nhất là với cán bộ cấp chiến lược, lãnh đạo, quản lý; từng bước xây dựng, phát triển đội ngũ chuyên gia có trình độ đạt tầm khu vực và quốc tế. Kiện toàn tổ chức, bộ máy ngành ngoại giao Đảng tinh gọn, khoa học, hợp lý và hiệu quả. Đẩy mạnh hiện đại hóa, chuyển đổi số ngành ngoại giao Đảng.

 

Giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình - chính sách quốc phòng đúng đắn của Việt Nam

Trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, nhận thức và thực hiện đúng đắn việc giải quyết các bất đồng, tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình của Đảng, Nhà nước ta là cơ sở quan trọng để chủ động nhận diện, kiên quyết đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch về chính sách quốc phòng của Việt Nam hiện nay.

Nhận thức đúng về tranh chấp quốc tế và biện pháp giải quyết

Trong thực tiễn, mặc dù còn có nhiều quan niệm khác nhau, nhưng đều có điểm thống nhất chung về tranh chấp quốc tế, đó là: Đang diễn ra sự không thống nhất, mâu thuẫn, xung đột về quan điểm pháp lý và lợi ích giữa các quốc gia có chủ quyền hoặc các chủ thể khác của pháp luật quốc tế.

Tranh chấp quốc tế có thể xảy ra trên các lĩnh vực hoạt động quốc tế, trong đó tranh chấp về chủ quyền trên đất liền, hải đảo, trên biển, trên không và trên không gian mạng là nổi cộm, dai dẳng, khó giải quyết và tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến xung đột, chiến tranh.

Giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình - chính sách quốc phòng đúng đắn của Việt Nam
Đại tướng Phan Văn Giang phát biểu tại Đối thoại Shangri-La 19 tại Singapore ngày 11-6-2022. Ảnh minh họa: qdnd.vn

Việc giải quyết tranh chấp quốc tế không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với duy trì hòa bình, ổn định, an ninh thế giới, mà còn góp phần thúc đẩy các quốc gia tuân thủ luật pháp quốc tế triệt để hơn. Luật pháp quốc tế đã thống nhất các nguyên tắc cơ bản khi giải quyết tranh chấp quốc tế, đó là: Bằng phương pháp hòa bình, thương lượng; không được sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực; giữ nguyên hiện trạng cho đến khi đạt đến thỏa thuận cuối cùng; các bên tranh chấp phải tự kiềm chế, không tiến hành bất cứ hoạt động nào làm cho tình hình trở nên xấu đi.

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị và phần tử cực đoan đưa ra nhiều ý kiến, bình luận với ý đồ xuyên tạc, âm mưu kích động chúng ta “phải có động thái mạnh mẽ, tuyên chiến quyết liệt” để chống lại các thế lực xâm phạm chủ quyền lãnh thổ quốc gia, nhất là chủ quyền biển, đảo Việt Nam. Nhận thức sâu sắc về vấn đề này, Đảng, Nhà nước ta đã xác định, việc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình là thượng sách giữ nước của Việt Nam, nhất là trong bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp, khó lường hiện nay.

Thượng sách giữ nước và chính sách quốc phòng đúng đắn của Việt Nam

Trong giải quyết các tranh chấp, Việt Nam nhất quán sử dụng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế - đây là chủ trương, giải pháp chiến lược, là chính sách quốc phòng hiệu quả và đã được thực tiễn kiểm nghiệm là phù hợp, đúng đắn. Điều đó thể hiện ở những khía cạnh sau.

Một là, thể hiện văn hóa giữ nước chính nghĩa, hòa hiếu, yêu chuộng hòa bình của dân tộc Việt Nam.

Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, có đến gần hai phần ba thời gian dân tộc Việt Nam phải đứng lên tiến hành các cuộc chiến tranh, khởi nghĩa để giành và giữ quyền độc lập, tự chủ và phát triển. Nét văn hóa nổi bật trong công cuộc giữ nước của dân tộc Việt Nam là luôn nhận thức rõ rằng, mọi cuộc chiến tranh mà không đem đến hòa bình và cao hơn là không đem đến tình hữu nghị cho các dân tộc đều là cuộc chiến tranh vô nghĩa. Và không một dân tộc nào trên thế giới này lại không mong muốn có hòa bình, ổn định, độc lập, tự chủ...

Lịch sử cho thấy, biết bao công sức, xương máu của các thế hệ người Việt đã đổ xuống, thấm vào từng tấc đất trên khắp lãnh thổ Việt Nam, chính là để giữ cho nước nhà được toàn vẹn lãnh thổ, có độc lập, tự do và hòa bình. Có hòa bình rồi tiến tới xây dựng tình hữu nghị, chung sống hòa bình với các nước láng giềng, các nước khác trên thế giới, để đem lại lợi ích cho nhân dân ta, nhân dân các nước từng gây chiến với nước ta và dân tộc khác trên thế giới.

Các quốc gia yêu chuộng hòa bình xem chiến thắng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc giải phóng và bảo vệ Tổ quốc là chiến thắng chính nghĩa, là nguồn cổ vũ, khích lệ, nên họ sẵn sàng ủng hộ Việt Nam. Thực tiễn các cuộc chiến tranh giữ nước trước đây, đặc biệt là các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc trong thời đại Hồ Chí Minh, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ, to lớn của bạn bè yêu chuộng hòa bình trên thế giới... Do đó, chiến thắng của Việt Nam đã vượt lên một tầm cao mới, mang tầm vóc của thời đại.

Hai là, cụ thể hóa chủ trương, giải pháp chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang nỗ lực thực hiện mục tiêu phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, với tư duy, tầm nhìn chiến lược, Đảng ta đã kế thừa và vận dụng, phát triển sáng tạo kế sách “giữ nước từ lúc nước chưa nguy” của dân tộc thành phương thức, tư tưởng chỉ đạo chiến lược chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Vì vậy, giữ được nước mà không cần phải tiến hành chiến tranh trở thành mục tiêu cơ bản, tối thượng của chính sách quốc phòng và an ninh ở nước ta hiện nay.

Để thực hiện tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu chiến lược đó cần phải triển khai toàn diện, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp chiến lược nhằm bảo đảm cho Đảng vững, nước giàu, dân yên, quân mạnh, thêm bạn, bớt thù. Trong đó, chủ trương thúc đẩy giải quyết các tranh chấp trong quan hệ quốc tế, nhất là vấn đề biên giới, biển, đảo bằng biện pháp hòa bình là giải pháp trọng tâm, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mà Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế... giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”.

Ba là, tạo cơ sở để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là xu thế khách quan và tiếp tục tiến triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế trong điều kiện hiện nay đòi hỏi mỗi quốc gia phải lấy nội lực là cơ bản, chiến lược lâu dài và là nhân tố quyết định; ngoại lực là nhân tố quan trọng, cần thiết. Hay nói cách khác, phải biết huy động sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại một cách phù hợp, hiệu quả.

Quan điểm của Nhà nước Việt Nam là hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển có mối quan hệ gắn bó hữu cơ. Hòa bình, ổn định và phát triển của một nước có tác động đến các nước láng giềng, khu vực và thế giới. Lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc cần hài hòa và tôn trọng lợi ích chính đáng, hợp pháp của các quốc gia, dân tộc khác, trên cơ sở luật pháp quốc tế.

Cùng với đó, hợp tác quốc tế là xu hướng tất yếu để cùng nhau gìn giữ hòa bình, ổn định, thúc đẩy phát triển và tình hữu nghị giữa các quốc gia; không một quốc gia đơn lẻ nào, dù lớn và giàu mạnh đến đâu, có thể giải quyết được mọi vấn đề, nhất là các vấn đề toàn cầu, mà cần phải có sự hợp tác của các nước khác, cộng đồng quốc tế và người dân. Việc giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu phải có cách tiếp cận toàn cầu, đoàn kết và hợp tác quốc tế, đề cao chủ nghĩa đa phương.

Đảng, Nhà nước Việt Nam chủ trương giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng giải pháp hòa bình không chỉ là sự tôn trọng luật pháp quốc tế, đi đúng xu thế thời đại, mà còn góp phần quan trọng vào gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, lợi ích quốc gia cho các nước khác. Sự đồng thuận của nhân dân trong nước, sự đồng tình, ủng hộ, ghi nhận, đánh giá cao của cộng đồng quốc tế đối với giải pháp hòa bình Việt Nam đang thực hiện chính là cơ sở để thực hiện mục tiêu “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc” mà Đại hội XIII của Đảng xác định.

Bốn là, giải pháp tối ưu trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp hiện nay.

Trong những năm qua, Việt Nam và các nước láng giềng đã có nhiều nỗ lực trong việc áp dụng có hiệu quả luật pháp và thông lệ quốc tế để giải quyết các bất đồng, tranh chấp đặt ra. Quá trình giải quyết các bất đồng, tranh chấp giữa Việt Nam với các quốc gia khác, trong đó có vấn đề chủ quyền trên Biển Đông, Việt Nam luôn chủ trương giải quyết bất đồng, tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, thông qua đối thoại, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế; thực hiện hiệu quả và đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) nhằm duy trì hòa bình, ổn định, bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không; tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.

Điều đó chứng minh rõ Việt Nam không chỉ nỗ lực vận dụng sáng tạo làm phong phú thêm luật pháp quốc tế, mà còn luôn tích cực đấu tranh bảo vệ luật pháp quốc tế, nhất là khi Việt Nam kiên trì nguyên tắc “tôn trọng pháp luật quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982” và nỗ lực đưa nguyên tắc này vào các văn kiện của ASEAN, các thỏa thuận song phương như: DOC, Tuyên bố "Nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về Biển Đông" ngày 20-7-2012; Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, ký ngày 11-10-2011 và dự thảo Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).

Đây là những minh chứng thực tiễn sinh động không chỉ thể hiện rõ thiện chí, cam kết, quyết tâm, mà còn thể hiện rõ tính hiệu quả của biện pháp hòa bình trong giải quyết tranh chấp quốc tế mà Nhà nước ta đã thực hiện. Sự nhất quán và những nỗ lực của Nhà nước ta đã bảo vệ vững chắc được chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc, ngăn chặn, đẩy lùi xung đột và chiến tranh, giữ vững an ninh quốc gia, môi trường hòa bình, ổn định để tiến hành sự nghiệp đổi mới của đất nước trong gần 4 thập niên qua đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

Như vậy, có thể thấy, giải quyết các bất đồng, tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình là chủ trương chiến lược, nhất quán và là chính sách quốc phòng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với bối cảnh tình hình hiện nay và là giải pháp hiệu quả của Đảng, Nhà nước ta. Chủ trương này cần được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục quán triệt, nhận thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc và cụ thể hóa, tổ chức thực hiện bằng những hoạt động cụ thể, thiết thực trong thời gian tới. 

Mặt khác, nhận thức và thực hiện đúng đắn việc giải quyết các bất đồng, tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình của Đảng, Nhà nước ta là cơ sở quan trọng để chủ động nhận diện, kiên quyết đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch về chính sách quốc phòng của Việt Nam hiện nay.