Thứ Tư, 3 tháng 7, 2024

TẠM ĐÌNH CHỈ CÔNG TÁC: CÔNG CỤ HỮU HIỆU TRONG CUỘC CHIẾN CHỐNG THAM NHŨNG VÀ TIÊU CỰC

 

Thứ nhất, biện pháp tạm đình chỉ công tác là một công cụ hữu hiệu để ngăn chặn và xử lý các hành vi tiêu cực ngay từ giai đoạn đầu. Khi một cán bộ bị tạm đình chỉ công tác, họ sẽ bị tước bỏ quyền lực tạm thời, không thể tiếp tục các hành vi tiêu cực hoặc tác động lên quá trình điều tra, xác minh. Điều này giúp bảo vệ tính minh bạch, công khai và bảo đảm quá trình điều tra được diễn ra một cách khách quan và chính xác. Việc tạm đình chỉ công tác cũng tạo ra sức ép tâm lý lên các cán bộ, công chức, khiến họ nhận thức rõ ràng hơn về hậu quả của các hành vi vi phạm và từ đó có ý thức chấp hành tốt hơn các quy định pháp luật và đạo đức công vụ. Hơn nữa, theo Điều 81 của Luật Cán bộ, Công chức năm 2008 (sửa đổi bổ sung năm 2019), tạm đình chỉ công tác là biện pháp hành chính được áp dụng khi cán bộ, công chức có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc cần điều tra làm rõ sự việc, cho thấy đây là biện pháp được luật pháp công nhận và sử dụng để bảo đảm sự minh bạch và công bằng.

Thứ hai, biện pháp tạm đình chỉ công tác không phải là một hình thức kỷ luật cuối cùng, mà là một bước đầu trong quy trình xử lý vi phạm của cán bộ, công chức. Sau khi bị tạm đình chỉ, các cơ quan chức năng sẽ tiến hành điều tra, xác minh hành vi vi phạm của cán bộ. Nếu phát hiện vi phạm nghiêm trọng, họ sẽ áp dụng các hình thức kỷ luật từ khiển trách, cảnh cáo đến cách chức hoặc khai trừ khỏi Đảng theo Quy định số 102-QĐ/TW ngày 15/11/2017 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm. Điều này cho thấy, tạm đình chỉ công tác không phải là điểm dừng mà là khởi đầu cho một quy trình xử lý nghiêm túc và toàn diện. Những chỉ trích cho rằng tạm đình chỉ công tác chỉ là cơ hội để cán bộ nghỉ ngơi và du lịch là thiếu căn cứ, bởi lẽ sau khi bị tạm đình chỉ, cán bộ vẫn phải đối mặt với quá trình điều tra và có thể bị xử lý kỷ luật nếu vi phạm.

Thứ ba, tạm đình chỉ công tác là biện pháp được áp dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới, cho thấy tính khả thi và hiệu quả của nó trong quản lý công chức. Ở Singapore, một trong những quốc gia nổi tiếng với hệ thống hành chính công trong sạch và hiệu quả, biện pháp tạm đình chỉ công tác được áp dụng để điều tra các cán bộ bị nghi ngờ vi phạm nghiêm trọng. Điều này, giúp bảo đảm tính minh bạch, công khai và công bằng trong quá trình điều tra, đồng thời tạo ra một môi trường làm việc trong sạch và lành mạnh. Việc áp dụng biện pháp tạm đình chỉ công tác tại Việt Nam cũng nhằm mục đích tương tự, góp phần xây dựng một nền hành chính công vụ trong sạch, vững mạnh.

Những ý kiến chỉ trích biện pháp này thiếu căn cứ vững chắc và không xem xét toàn diện các khía cạnh của vấn đề. Chúng ta cần nhận diện rõ các luận điệu xuyên tạc tình hình chính trị, kinh tế, xã hội tại Việt Nam, bản chất xấu xa và mục đích đen tối của các thế lực thù địch, từ đó kiên quyết đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong tình hình mới./.

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHONG TRÀO THI ĐUA

Tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước là hệ thống quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước, được hình thành trên cơ sở tiếp thu và vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản Chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng và truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm của dân tộc, đường lối và thực tiễn đấu tranh cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ nội dung của “Lời kêu gọi thi đua ái quốc” thể hiện nổi bật tư tưởng của Người về thi đua ái quốc như sau:

Một là, quan điểm thi đua, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng thi đua lên tầm tư tưởng, đường lối chính trị và phương pháp cách mạng. Theo Người, thi đua là một trong những biện pháp của quá trình vận động cách mạng, có ý nghĩa sâu sắc, rộng lớn, thi đua không chỉ khơi dậy tiềm năng sáng tạo của con người, mà quan trọng hơn là cải tạo bản thân con người, nêu cao tinh thần yêu nước, tinh thần quốc tế, làm cho già, trẻ, gái, trai và tất cả các tầng lớp nhân dân, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, địa vị xã hội đều hướng tới mục đích chung.

Hai là, mục đích thi đua yêu nước nhằm khơi dậy, phát huy được tinh thần yêu nước của mọi tầng lớp nhân dân, làm cho mọi người đều hăng hái, tích cực, sáng tạo, ngày càng làm được nhiều điều tốt hơn trong xã hội… Như vậy, đời sống của nhân dân sẽ ngày càng đầy đủ, no ấm, đất nước sẽ ngày càng giàu lên, quân đội sẽ ngày càng vững mạnh và sẽ hoàn thành được mục tiêu của cách mạng đề ra.

Ba là, nội dung thi đua yêu nước phải toàn diện, phải xuất phát và phục vụ nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn cách mạng, phải thiết thực, ở tất cả các lĩnh vực hoạt động của đất nước, gắn với nhiệm vụ cụ thể của từng ngành, từng cấp, hướng vào cải tạo và xây dựng con người mới, hướng vào giải quyết những vấn đề cơ bản, thiết thực của nhân dân; thi đua phải gắn với công việc hằng ngày của mỗi người.

Bốn là, cách tổ chức phong trào thi đua yêu nước: Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Phải dựa vào lực lượng của dân, tinh thần của dân, để gây hạnh phúc cho dân”; các phong trào thi đua yêu nước cần phải đa dạng, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần tự giác, sáng tạo và sức lực của các tầng lớp nhân dân trong từng giai đoạn cách mạng. Trong quá trình thi đua, Người thường lưu ý, phải coi trọng sáng kiến, tổng kết kinh nghiệm. Từ những sáng kiến và kinh nghiệm trong từng ngành, lĩnh vực, ở một địa phương, cơ quan, đơn vị… sẽ được phổ biến, lan rộng ra nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, nhiều cơ quan, cho đến cả nước; phải coi những sáng kiến, kinh nghiệm là tài sản vô giá, cần được phát huy và phổ biến.

Năm là, phương châm thi đua yêu nước, Người chỉ rõ “thi đua chứ không phải ganh đua” nên cần phải đoàn kết, thân ái giúp đỡ lẫn nhau để đạt thành tích cao; “giúp đỡ những người và những nhóm còn kém theo kịp mức cao hiện nay”; thi đua phải gắn liền với công tác khen thưởng; khen thưởng là kết quả của phong trào thi đua; khen thưởng đúng người, đúng việc, kịp thời sẽ động viên, giáo dục và thúc đẩy phong trào thi đua phát triển liên tục. Như vậy, thi đua để tăng cường đoàn kết, mà đoàn kết lại đẩy mạnh thi đua.

Sáu là, lực lượng thi đua, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, lực lượng của phong trào thi đua yêu nước là toàn thể nhân dân: “Mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già, trẻ, trai, gái; bất kỳ giàu, nghèo, lớn, nhỏ, đều cần phải trở nên một chiến sĩ tranh đấu trên mặt trận: quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa”. Từ đó, Người nhận định: “Với lòng nồng nàn yêu nước và lực lượng vô cùng tận của nhân dân ta, cuộc Thi đua ái quốc nhất định sẽ thành công to”.

Ngày nay, cách mạng nước ta đang bước vào thời kỳ cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, hội nhập quốc tế, Tư tưởng Hồ Chí Minh về phong trào thi đua yêu nước vẫn giữ nguyên giá trị lý luận và thực tiễn. Để vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước trong giai đoạn cách mạng hiện nay, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp: tiếp tục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên, nhân dân về ý nghĩa và tác dụng của phong trào thi đua yêu nước; tăng cường giáo dục lòng yêu nước, ý thức tự lực, tự cường, tự hào dân tộc và tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tạo nên sự đồng thuận thực hiện phong trào thi đua ngày càng phát triển. Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác thi đua khen thưởng.

“Sáng kiến và kinh nghiệm cũng như những con suối nhỏ chảy vào sông to, những con sông to chảy vào bể cả. Không biết quý trọng sáng kiến và phổ biến kinh nghiệm tức là lãng phí của dân tộc” - Chủ tịch Hồ Chí Minh./. 

Ý THỨC CHÍNH TRỊ CỦA SINH VIÊN VIỆT NAM

 

Gần đây, có một số luận điệu xuyên tạc và thiếu khách quan về tình hình sinh viên Việt Nam, đặc biệt là về ý thức chính trị và khả năng phản biện của họ. Trên trang “thongluan-rdp” đăng tải nội dung “Vì sao sinh viên Việt Nam luôn cam chịu?” của đối tượng Mạc Văn Trang. Bài viết đưa ra những luận điệu lệch lạc, xuyên tạc, cho rằng sinh viên thiếu ý thức chính trị, cam chịu và im lặng trước những bất công trong xã hội. Đây là các quan điểm mang tính chất quy chụp, vô căn cứ và không phản ánh đúng bản chất của sinh viên Việt Nam.

Trước hết, cần phải khẳng định sinh viên Việt Nam luôn có ý thức chính trị mạnh mẽ và tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội. Một số người cho rằng sinh viên Việt Nam thiếu ý thức chính trị và không tham gia vào các hoạt động xã hội. Tuy nhiên, thực tế cho thấy ngược lại. Sinh viên Việt Nam luôn có ý thức chính trị và tinh thần yêu nước sâu sắc. Họ tham gia tích cực vào nhiều phong trào và hoạt động xã hội khác nhau, từ thiện nguyện đến các hoạt động bảo vệ môi trường. Các hoạt động này không chỉ diễn ra trong phạm vi trường học mà còn lan rộng ra toàn xã hội. Ví dụ, trong những đợt thiên tai lũ lụt, sinh viên là lực lượng nòng cốt trong các chiến dịch cứu trợ và hỗ trợ đồng bào vùng bị ảnh hưởng.

Ngoài ra, sinh viên Việt Nam còn tích cực tham gia vào các diễn đàn và cuộc thi quốc tế, thể hiện bản lĩnh và tài năng của mình trên nhiều lĩnh vực. Họ không ngừng học hỏi, nghiên cứu và sáng tạo, góp phần vào sự phát triển của đất nước. Các hoạt động này cho thấy sinh viên Việt Nam không hề thờ ơ với những vấn đề xã hội mà ngược lại, họ luôn quan tâm và sẵn sàng đóng góp sức mình để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn. Các hoạt động tiêu biểu mà sinh viên Việt Nam đã và đang tham gia trong thời gian qua có thể kể đến như chương trình “Sinh viên với biển, đảo Tổ quốc”, cuộc vận động “Sinh viên Việt Nam, những câu chuyện đẹp”, chương trình “Tuổi trẻ Việt Nam – Câu chuyện hòa bình”, chương trình “Tiếp sức mùa thi”, chiến dịch sinh viên tình nguyện “Mùa hè xanh”, cuộc thi ý tưởng sáng tạo khởi nghiệp sinh viên “Start-up Student Ideas” lần thứ I, hội thi “Thủ lĩnh sinh viên” toàn quốc…

Thay vì cho rằng sinh viên Việt Nam cam chịu và im lặng, chúng ta cần nhìn nhận rằng họ đang thể hiện quan điểm và bảo vệ quyền lợi của mình thông qua nhiều hành động cụ thể và hiệu quả. Sinh viên Việt Nam không chỉ thụ động chấp nhận những bất công mà họ chọn cách đấu tranh thông minh và bền vững. Họ tham gia vào các phong trào, tổ chức, và các diễn đàn để bày tỏ ý kiến và đưa ra các giải pháp cho những vấn đề xã hội.

Những luận điệu xuyên tạc về sinh viên Việt Nam thiếu ý thức chính trị, cam chịu và im lặng trước những bất công là không có cơ sở và không phản ánh đúng bản chất của sinh viên Việt Nam. Thực tế cho thấy, sinh viên Việt Nam có ý thức chính trị mạnh mẽ và tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội; họ đã và đang có những hành động cụ thể để thể hiện quan điểm và bảo vệ quyền lợi của mình. Sinh viên Việt Nam không chỉ có khả năng phản biện mà còn biết cách hành động để tạo ra sự thay đổi tích cực trong xã hội, góp phần xây dựng một đất nước Việt Nam ngày càng phát triển, phồn vinh, hạnh phúc; thực hiện mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

NHẬN ĐỊNH SAI SỰ THẬT “VIỆT NAM CÓ RẤT ÍT TIẾN BỘ TRONG LĨNH VỰC NHÂN QUYỀN”

 

Đây là nhận định, đánh giá sai lệch, thiếu khách quan về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam. Bởi lẽ, các quyền con người cơ bản đã được ghi nhận trong Hiến pháp của Việt Nam; được bảo vệ, bảo đảm bởi hệ thống văn bản pháp luật cụ thể và được triển khai hiệu quả trên thực tiễn. Việt Nam đã có những nỗ lực rất lớn nhằm bảo đảm quyền con người, nhất là hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người theo các công ước quốc tế về quyền con người, trong đó Việt Nam là thành viên. Tính đến năm 2023, Việt Nam đã tham gia 7/9 điều ước quốc tế cơ bản về quyền con người, 25 công ước quốc tế về quyền lao động của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO); đàm phán và chính thức tham gia thỏa thuận toàn cầu về di cư hợp pháp, an toàn và trật tự (GCM).

Khi nói về vấn đề nhân quyền, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh: “Nhân quyền lớn nhất ở Việt Nam là lo cho 100 triệu dân ấm no và hạnh phúc, dân chủ, cuộc sống bình yên, an ninh, an toàn, an dân, phát huy tối đa yếu tố con người”. Chính vì vậy, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán chính sách “tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền, quyền và nghĩa vụ của công dân”. Mọi quyết sách đều xuất phát từ con người; mọi thành quả phát triển đều hướng vào bảo đảm tốt nhất quyền con người. Tính riêng năm 2023, kinh tế Việt Nam đạt tăng trưởng trên 5%, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống 3%. Hằng năm, Việt Nam dành trung bình khoảng 3% GDP cho bảo đảm an sinh xã hội. Chỉ trong vòng hơn một thập kỷ gần đây, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đã tăng gần 50%, thuộc nhóm quốc gia có tỷ lệ tăng cao nhất thế giới.

Những con số khái lược nêu trên đã chứng minh vấn đề nhân quyền ở Việt Nam có nhiều tiến bộ, thể hiện rõ quyết tâm và nỗ lực bảo đảm quyền con người của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Điển hình cho sự tiến bộ ấy là Việt Nam lần thứ hai trúng cử vào Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025 (lần đầu là nhiệm kỳ 2014-2016). Đây là sự công nhận vị thế của Việt Nam, thể hiện sự tín nhiệm, tin tưởng của cộng đồng quốc tế đối với vai trò và đóng góp của Việt Nam trong lĩnh vực quyền con người

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG BIỆN PHÁP HÒA BÌNH - CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG ĐÚNG ĐẮN CỦA VIỆT NAM

Trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, nhận thức và thực hiện đúng đắn việc giải quyết các bất đồng, tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình của Đảng, Nhà nước ta là cơ sở quan trọng để chủ động nhận diện, kiên quyết đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch về chính sách quốc phòng của Việt Nam hiện nay.

Nhận thức đúng về tranh chấp quốc tế và biện pháp giải quyết

Trong thực tiễn, mặc dù còn có nhiều quan niệm khác nhau, nhưng đều có điểm thống nhất chung về tranh chấp quốc tế, đó là: Đang diễn ra sự không thống nhất, mâu thuẫn, xung đột về quan điểm pháp lý và lợi ích giữa các quốc gia có chủ quyền hoặc các chủ thể khác của pháp luật quốc tế.

Tranh chấp quốc tế có thể xảy ra trên các lĩnh vực hoạt động quốc tế, trong đó tranh chấp về chủ quyền trên đất liền, hải đảo, trên biển, trên không và trên không gian mạng là nổi cộm, dai dẳng, khó giải quyết và tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến xung đột, chiến tranh.

Việc giải quyết tranh chấp quốc tế không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với duy trì hòa bình, ổn định, an ninh thế giới, mà còn góp phần thúc đẩy các quốc gia tuân thủ luật pháp quốc tế triệt để hơn. Luật pháp quốc tế đã thống nhất các nguyên tắc cơ bản khi giải quyết tranh chấp quốc tế, đó là: Bằng phương pháp hòa bình, thương lượng; không được sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực; giữ nguyên hiện trạng cho đến khi đạt đến thỏa thuận cuối cùng; các bên tranh chấp phải tự kiềm chế, không tiến hành bất cứ hoạt động nào làm cho tình hình trở nên xấu đi.

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị và phần tử cực đoan đưa ra nhiều ý kiến, bình luận với ý đồ xuyên tạc, âm mưu kích động chúng ta “phải có động thái mạnh mẽ, tuyên chiến quyết liệt” để chống lại các thế lực xâm phạm chủ quyền lãnh thổ quốc gia, nhất là chủ quyền biển, đảo Việt Nam. Nhận thức sâu sắc về vấn đề này, Đảng, Nhà nước ta đã xác định, việc giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình là thượng sách giữ nước của Việt Nam, nhất là trong bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp, khó lường hiện nay.

Thượng sách giữ nước và chính sách quốc phòng đúng đắn của Việt Nam

Trong giải quyết các tranh chấp, Việt Nam nhất quán sử dụng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế - đây là chủ trương, giải pháp chiến lược, là chính sách quốc phòng hiệu quả và đã được thực tiễn kiểm nghiệm là phù hợp, đúng đắn. Điều đó thể hiện ở những khía cạnh sau.

Một là, thể hiện văn hóa giữ nước chính nghĩa, hòa hiếu, yêu chuộng hòa bình của dân tộc Việt Nam.

Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, có đến gần hai phần ba thời gian dân tộc Việt Nam phải đứng lên tiến hành các cuộc chiến tranh, khởi nghĩa để giành và giữ quyền độc lập, tự chủ và phát triển. Nét văn hóa nổi bật trong công cuộc giữ nước của dân tộc Việt Nam là luôn nhận thức rõ rằng, mọi cuộc chiến tranh mà không đem đến hòa bình và cao hơn là không đem đến tình hữu nghị cho các dân tộc đều là cuộc chiến tranh vô nghĩa. Và không một dân tộc nào trên thế giới này lại không mong muốn có hòa bình, ổn định, độc lập, tự chủ...

Lịch sử cho thấy, biết bao công sức, xương máu của các thế hệ người Việt đã đổ xuống, thấm vào từng tấc đất trên khắp lãnh thổ Việt Nam, chính là để giữ cho nước nhà được toàn vẹn lãnh thổ, có độc lập, tự do và hòa bình. Có hòa bình rồi tiến tới xây dựng tình hữu nghị, chung sống hòa bình với các nước láng giềng, các nước khác trên thế giới, để đem lại lợi ích cho nhân dân ta, nhân dân các nước từng gây chiến với nước ta và dân tộc khác trên thế giới.

Các quốc gia yêu chuộng hòa bình xem chiến thắng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc giải phóng và bảo vệ Tổ quốc là chiến thắng chính nghĩa, là nguồn cổ vũ, khích lệ, nên họ sẵn sàng ủng hộ Việt Nam. Thực tiễn các cuộc chiến tranh giữ nước trước đây, đặc biệt là các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc trong thời đại Hồ Chí Minh, Việt Nam đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ, to lớn của bạn bè yêu chuộng hòa bình trên thế giới... Do đó, chiến thắng của Việt Nam đã vượt lên một tầm cao mới, mang tầm vóc của thời đại.

Hai là, cụ thể hóa chủ trương, giải pháp chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang nỗ lực thực hiện mục tiêu phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong điều kiện tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, với tư duy, tầm nhìn chiến lược, Đảng ta đã kế thừa và vận dụng, phát triển sáng tạo kế sách “giữ nước từ lúc nước chưa nguy” của dân tộc thành phương thức, tư tưởng chỉ đạo chiến lược chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Vì vậy, giữ được nước mà không cần phải tiến hành chiến tranh trở thành mục tiêu cơ bản, tối thượng của chính sách quốc phòng và an ninh ở nước ta hiện nay.

Để thực hiện tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu chiến lược đó cần phải triển khai toàn diện, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp chiến lược nhằm bảo đảm cho Đảng vững, nước giàu, dân yên, quân mạnh, thêm bạn, bớt thù. Trong đó, chủ trương thúc đẩy giải quyết các tranh chấp trong quan hệ quốc tế, nhất là vấn đề biên giới, biển, đảo bằng biện pháp hòa bình là giải pháp trọng tâm, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mà Đại hội XIII của Đảng đã xác định: “Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế... giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”.

Ba là, tạo cơ sở để kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là xu thế khách quan và tiếp tục tiến triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, hội nhập quốc tế trong điều kiện hiện nay đòi hỏi mỗi quốc gia phải lấy nội lực là cơ bản, chiến lược lâu dài và là nhân tố quyết định; ngoại lực là nhân tố quan trọng, cần thiết. Hay nói cách khác, phải biết huy động sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại một cách phù hợp, hiệu quả.

Quan điểm của Nhà nước Việt Nam là hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển có mối quan hệ gắn bó hữu cơ. Hòa bình, ổn định và phát triển của một nước có tác động đến các nước láng giềng, khu vực và thế giới. Lợi ích của mỗi quốc gia, dân tộc cần hài hòa và tôn trọng lợi ích chính đáng, hợp pháp của các quốc gia, dân tộc khác, trên cơ sở luật pháp quốc tế.

Cùng với đó, hợp tác quốc tế là xu hướng tất yếu để cùng nhau gìn giữ hòa bình, ổn định, thúc đẩy phát triển và tình hữu nghị giữa các quốc gia; không một quốc gia đơn lẻ nào, dù lớn và giàu mạnh đến đâu, có thể giải quyết được mọi vấn đề, nhất là các vấn đề toàn cầu, mà cần phải có sự hợp tác của các nước khác, cộng đồng quốc tế và người dân. Việc giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu phải có cách tiếp cận toàn cầu, đoàn kết và hợp tác quốc tế, đề cao chủ nghĩa đa phương.

Đảng, Nhà nước Việt Nam chủ trương giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng giải pháp hòa bình không chỉ là sự tôn trọng luật pháp quốc tế, đi đúng xu thế thời đại, mà còn góp phần quan trọng vào gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, lợi ích quốc gia cho các nước khác. Sự đồng thuận của nhân dân trong nước, sự đồng tình, ủng hộ, ghi nhận, đánh giá cao của cộng đồng quốc tế đối với giải pháp hòa bình Việt Nam đang thực hiện chính là cơ sở để thực hiện mục tiêu “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc” mà Đại hội XIII của Đảng xác định.

Bốn là, giải pháp tối ưu trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp hiện nay.

Trong những năm qua, Việt Nam và các nước láng giềng đã có nhiều nỗ lực trong việc áp dụng có hiệu quả luật pháp và thông lệ quốc tế để giải quyết các bất đồng, tranh chấp đặt ra. Quá trình giải quyết các bất đồng, tranh chấp giữa Việt Nam với các quốc gia khác, trong đó có vấn đề chủ quyền trên Biển Đông, Việt Nam luôn chủ trương giải quyết bất đồng, tranh chấp bằng các biện pháp hòa bình, thông qua đối thoại, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế; thực hiện hiệu quả và đầy đủ Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) nhằm duy trì hòa bình, ổn định, bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không; tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.

Điều đó chứng minh rõ Việt Nam không chỉ nỗ lực vận dụng sáng tạo làm phong phú thêm luật pháp quốc tế, mà còn luôn tích cực đấu tranh bảo vệ luật pháp quốc tế, nhất là khi Việt Nam kiên trì nguyên tắc “tôn trọng pháp luật quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982” và nỗ lực đưa nguyên tắc này vào các văn kiện của ASEAN, các thỏa thuận song phương như: DOC, Tuyên bố "Nguyên tắc 6 điểm của ASEAN về Biển Đông" ngày 20-7-2012; Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, ký ngày 11-10-2011 và dự thảo Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).

Đây là những minh chứng thực tiễn sinh động không chỉ thể hiện rõ thiện chí, cam kết, quyết tâm, mà còn thể hiện rõ tính hiệu quả của biện pháp hòa bình trong giải quyết tranh chấp quốc tế mà Nhà nước ta đã thực hiện. Sự nhất quán và những nỗ lực của Nhà nước ta đã bảo vệ vững chắc được chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc, ngăn chặn, đẩy lùi xung đột và chiến tranh, giữ vững an ninh quốc gia, môi trường hòa bình, ổn định để tiến hành sự nghiệp đổi mới của đất nước trong gần 4 thập niên qua đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

Như vậy, có thể thấy, giải quyết các bất đồng, tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình là chủ trương chiến lược, nhất quán và là chính sách quốc phòng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với bối cảnh tình hình hiện nay và là giải pháp hiệu quả của Đảng, Nhà nước ta. Chủ trương này cần được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục quán triệt, nhận thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc và cụ thể hóa, tổ chức thực hiện bằng những hoạt động cụ thể, thiết thực trong thời gian tới.

Mặt khác, nhận thức và thực hiện đúng đắn việc giải quyết các bất đồng, tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình của Đảng, Nhà nước ta là cơ sở quan trọng để chủ động nhận diện, kiên quyết đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch về chính sách quốc phòng của Việt Nam hiện nay./. 

BÁO CÁO SAI SỰ THẬT CỦA EU VỀ QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN Ở VIỆT NAM

 

Báo cáo nhân quyền của EU cho rằng: Nghị định số 53/2022/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam “tiếp tục làm sói mòn quyền tự do ngôn luận”.

Nhận định trên là vô căn cứ, phản ánh không đúng về vấn đề tự do ngôn luận trên không gian mạng ở Việt nam.

Như chúng ta đã biết, thời gian gần đây, hàng loạt rủi ro, hiểm họa liên tiếp diễn ra trên không gian mạng đã khiến công tác bảo vệ an ninh mạng trở thành một nhiệm vụ cấp thiết tại hầu hết các quốc gia trên toàn thế giới trong đó có Việt Nam. Vì vậy, xây dựng hệ thống pháp luật về an ninh mạng có ý nghĩa quan trọng, nhằm bảo đảm việc thực thi các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý hành vi, sự cố xâm phạm an ninh mạng.

Xuất phát từ thực tiễn trên, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định số 53/2022/NĐ-CP: Quy định một số điều của Luật an ninh mạng. Việc ban hành Nghị định này là cơ sở quan trọng trong bảo vệ chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trên không gian mạng; phát huy hơn nữa các nguồn lực sẵn có trong công tác bảo đảm an ninh mạng. Đồng thời, phát triển lĩnh vực an ninh mạng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng an ninh và góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân.

Sau khi nghị định này có hiệu lực, vấn đề tự do ngôn luận trên không gian mạng ở Việt Nam vẫn được phát huy đầy đủ, internet có mặt ở mọi nơi. Tính đến đầu năm 2023, Việt Nam có 77,93 triệu người dùng internet, chiếm 79,1% dân số; có 70 triệu người dùng mạng xã hội, tương đương 71% dân số. Tổng số kết nối di động đang hoạt động là 161,6 triệu (164,0% tổng dân số). Hiện nay, Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng internet cao thứ 12 trên thế giới, đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á. Tỷ lệ người dùng sử dụng internet hằng ngày lên tới 94%.

Dẫu vẫn biết, tự do ngôn luận trên không gian mạng là một trong những quyền cơ bản của con người cần được tôn trọng và bảo đảm. Tuy nhiên, tự do ngôn luận trên không gian mạng cũng phải nằm trong khuôn khổ pháp luật nhằm tránh hiện tượng bị lợi dụng, gây phương hại đến quyền, lợi ích của các tổ chức, cá nhân khác, đến đạo đức xã hội, trật tự công cộng và an ninh quốc gia.

Như vậy, Nghị định số 53/2022/NĐ-CP: Quy định một số điều của Luật an ninh mạng của Chính phủ Việt Nam là phù hợp công ước quốc tế về quyền con người, phù hợp với quyền, lợi ích của các tổ chức, cá nhân trên lãnh thổ Việt Nam. Việc EU nhận định rằng, Nghị định số 53/2022/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam “tiếp tục làm sói mòn quyền tự do ngôn luận” là thiếu khách quan và không phản ánh đúng vấn đề tự do ngôn luận trên không gian mạng ở Việt Nam./.