Thứ Hai, 29 tháng 7, 2024

BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ VỮNG VÀNG, KIÊN ĐỊNH MỤC TIÊU, LÝ TƯỞNG CÁCH MẠNG – MỘT TRUYỀN THỐNG QUÝ BÁU CỦA ĐẢNG TA

 

Trong bài phát biểu của đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Đại Hội XIII của Đảng đã khẳng định “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta”. Nhìn lại lịch sử của Đảng trong suốt 92 năm qua, chúng ta có thể thấy: bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng của Đảng là yếu tố quyết định thành công, là truyền thống quý báu của Đảng.

Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập đánh dấu bước chuyển biến quyết định của cách mạng Việt Nam. Đó là kết quả của sự chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, chính trị và tổ chức; là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Sự kiện đó được ghi nhận như một mốc son đỏ chói trên con đường phát triển của dân tộc ta; cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm nay đã được giải quyết. Từ đây, cách mạng Việt Nam bước vào quỹ đạo mới của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên lập trường của giai cấp công nhân.

Với cương lĩnh và đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, trong suốt 92 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua chặng đường đấu tranh cực kỳ khó khăn, gian khổ nhưng đã giành được những thắng lợi rất vẻ vang: Từ thân phận nô lệ, mất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vùng lên làm Cách mạng Tháng Tám thành công, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay là nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam); đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược; tiến hành công cuộc đổi mới và giành được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, đưa nước ta sánh vai với các cường quốc năm châu trên con đường hội nhập - phát triển. Cùng với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đã giành được, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta không ngừng được tôi luyện, trưởng thành, xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện sáng ngời phẩm chất tốt đẹp của mình. Một trong những truyền thống đó là: bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng, tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo. Đây chính là nguồn gốc, nhân tố góp phần tạo nên sức mạnh của Đảng và thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Bởi vì, với bản lĩnh chính trị vững vàng, tính kiên định và tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo đã giúp cho Đảng - đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân sự bình tĩnh, sáng suốt khi phân tích, nhận định, đánh giá tình hình, kịp thời đưa ra những quyết định đúng đắn, những chủ trương và giải pháp hữu hiệu để lãnh đạo phong trào cách mạng vượt qua những khó khăn, thách thức, đặc biệt là trong những bước ngoặt lịch sử. Điều này, như Lê-nin đã chỉ rõ: chỉ có giai cấp nào, đảng nào đi theo con đường của mình mà không do dự, không chán nản và không sa vào tuyệt vọng trong những bước ngoặt khi khó khăn nhất, gay go và nguy hiểm nhất thì mới có thể lãnh đạo được quần chúng, đưa phong trào cách mạng tiến lên.

Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam trong 92 qua dưới sự lãnh đạo của Đảng đã chứng minh, nếu không có bản lĩnh chính trị vững vàng, không hiểu và không thấy được bản lĩnh chính trị đó thì không thể lý giải được tại sao cách mạng Việt Nam đã vượt qua được những thời kỳ cực kỳ khó khăn, gian khổ của những năm từ 1932-1935, thời kỳ mà thực dân Pháp thi hành chính sách khủng bố trắng, thẳng tay đàn áp dìm phong trào cách mạng Việt Nam trong biển máu; cũng như giai đoạn sau Cách mạng Tháng Tám, thù trong giặc ngoài, tình thế như “ngàn cân treo sợi tóc”; hoặc như trong hai cuộc kháng chiến: chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, chúng ta phải đương đầu với những kẻ thù có tiềm lực kinh tế và quốc phòng mạnh hơn ta gấp nhiều lần. Song, với bản lĩnh chính trị vững vàng, tự chủ và sáng tạo, Đảng đã lãnh đạo nhân dân quyết tâm kháng chiến, hạn chế những điểm mạnh của kẻ địch, phát huy những ưu thế vốn có của chúng ta, đánh thắng từng bước, đẩy lùi từng bộ phận, trường kỳ kháng chiến… Cuối cùng, chúng ta đã chiến thắng.

Trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, bên cạnh những thành tựu đã giành được, chúng ta cũng mắc những sai lầm, khuyết điểm (nhất là trong giai đoạn 1975 – 1985). Đây là một thực tế, song cần nhận thức một cách sâu sắc rằng, xây dựng chủ nghĩa xã hội và đổi mới vì mục tiêu xã hội chủ nghĩa ở nước ta là sự nghiệp mới mẻ có nhiều khó khăn, phức tạp. Không phải là ngụy biện nhưng nếu xem xét thực chất của vấn đề, nhìn nhận một cách lịch sử và biện chứng, chúng ta có thể thấy rằng liệu có bao giờ trong lịch sử lại có một phương thức sản xuất mới nào đứng vững được ngay mà không trải qua nhiều thất bại, nhiều sai lầm? Lênin cho rằng: “trong sự nghiệp mới mẻ, khó khăn, vĩ đại như thế, không thể tránh khỏi những khuyết điểm, sai lầm, thiếu sót; ai sợ khó khăn trong việc kiến thiết xã hội chủ nghĩa, ai để cho những khó khăn đó làm cho mình khiếp đảm, ai tỏ ra tuyệt vọng hay hoang mang, hèn nhát, người đó không phải là một người xã hội chủ nghĩa”. Với bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng, Đảng ta đã nghiêm túc kiểm điểm, công khai thừa nhận những sai lầm, khuyết điểm trước nhân dân và cho rằng, nguyên nhân chính của những sai lầm, khuyết điểm trong những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội (1975 - 1985) của Đảng ta là do bệnh nóng vội, chủ quan, duy ý chí, từ đó dẫn đến sai lầm về bố trí cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý phân phối lưu thông, cải tạo xã hội chủ nghĩa; sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện… Những sai lầm đó, bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. “Công khai thừa nhận sai lầm; tìm ra nguyên nhân sai lầm; phân tích hoàn cảnh đã đẻ ra sai lầm, nghiên cứu cẩn thận những biện pháp để sửa chữa. Đó là dấu hiệu chứng tỏ một Đảng nghiêm túc, đó là Đảng làm tròn những nghĩa vụ của mình”, điều đó thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng của Đảng ta. Đại hội VI của Đảng (1986) đã đưa ra đường lối đổi mới, tìm ra bước đi và hình thức thực hiện phù hợp, trên cơ sở đó, sau này, Đảng ta đã nêu ra 6 quan điểm có tính nguyên tắc bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó nhấn mạnh: đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là nhận thức đúng hơn và có phương pháp phù hợp hơn để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

Sau hơn 35 năm đổi mới, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đất nước ta đã giành được những thành tựu to lớn: Nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và phát triển tương đối toàn diện. Kinh tế vĩ mô tương đối ổn định, các quan hệ và cân đối chủ yếu trong nền kinh tế được cải thiện. Hoạt động kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế có bước tiến mới rất quan trọng. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bước đầu được xây dựng. Thị trường hàng hoá phát triển tương đối nhanh; một số loại thị trường mới đã hình thành; Văn hoá và xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện; Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng và an ninh được tăng cường; quan hệ đối ngoại có bước phát triển mới, uy tín và vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao; việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có tiến bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc được phát huy.

Từ những thành tựu qua các giai đoạn phát triển của lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt trong các bước ngoặt của lịch sử có thể khẳng định: bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng cách mạng là một trong những truyền thống quý báu của Đảng. Trong bất luận hoàn cảnh nào Đảng ta vẫn bình tĩnh, sáng suốt kịp thời đưa ra những quyết sách đúng đắn, đáp ứng yêu cầu phát triển của cách mạng, đưa con thuyền cách mạng tiến lên. Trong những năm tới, với thế và lực mới, đất nước ta có nhiều cơ hội để phát triển, nhưng khó khăn, thách thức cũng không nhỏ. Song chúng ta tin rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng- một Đảng giàu truyền thống đấu tranh cách mạng, dân tộc ta chắc chắn sẽ tiếp tục giành được những thắng lợi to lớn hơn nữa trên con đường phát triển, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

                                                                                                    

 

BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ VỮNG VÀNG CỦA NGƯỜI ĐẢNG VIÊN LÀ CƠ SỞ NGĂN CHẶN SỰ SUY THOÁI, “TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA”

 

V.I.Lênin đã từng chỉ rõ, các thế lực thù địch không thể đánh đổ được những người cộng sản, trừ chính những sai lầm của chính mình và “không một ai trên thế giới này có thể làm mất được uy tín của những người Mácxít cách mạng nếu họ không tự làm mất uy tín của họ”. Điều đó có nghĩa là, việc rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên không chỉ có vai trò quan trọng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức mà còn có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của mỗi cán bộ, đảng viên nói riêng và của công tác cán bộ, công tác đảng viên nói chung.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng cảnh báo “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.  Người muốn khẳng định, bản lĩnh chính trị vững vàng là một phẩm chất quyết định sự sống còn và thành công của mỗi cán bộ, đảng viên và của Đảng. Đó là kết quả của một quá trình giáo dục, bồi dưỡng, học tập và rèn luyện thường xuyên, kiên trì, bền bỉ trong thực tiễn cũng giống như:  “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.

Thực tế cho thấy, về cơ bản, đội ngũ cán bộ, đảng viên có lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống giản dị, gương mẫu, có ý thức tổ chức kỷ luật, luôn tu dưỡng, rèn luyện, trình độ, năng lực chuyên môn để làm tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Đặc biệt, nhiều cán bộ, đảng viên với bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn “kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có tư duy đổi mới, có khả năng hoạch định đường lối, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện” đã năng động, sáng tạo, đi đầu trong mọi lĩnh vực, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm với những công việc khó, mới trong xu thế toàn cầu hóa. Đó có thể là những điều chưa có trong sách vở nhưng đang xảy ra trong thực tiễn và khi đã nghĩ “là đúng” thì phải dấn thân để làm, quyết tâm làm để đưa cái đúng vào cuộc sống; đồng thời, lấy kết quả cuối cùng để chứng minh và bảo vệ mình, tổ chức mình.

Hiện nay, trước những tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường, những khó khăn, phức tạp nảy sinh trong quá trình hội nhập, đặc biệt là với các thủ đoạn tinh vi và sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động, đã làm một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng; lập trường tư tưởng không vững vàng nên hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài về lý tưởng cách mạng của người cộng sản, giảm sút ý chí, niềm tin về chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; mang nặng chủ nghĩa cá nhân vị kỷ: độc đoán, chuyên quyền, lạm dụng quyền lực, mua bằng cấp, chạy quy hoạch, chạy chức, chạy quyền và nhất là bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất nên đã vi phạm pháp luật, đã bị khai trừ khỏi đảng và vướng vòng lao lý, làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Do không giữ vững bản lĩnh chính trị, không chịu tu dưỡng đạo đức cách mạng, một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì thế mà hoài nghi, thiếu tin tưởng và nhất là không thiết tha với việc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Bộ phận cán bộ, đảng viên này đã không chủ động, tự giác, tích cực kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động mà đôi khi và thậm chí còn cổ súy, phụ họa “té nước theo mưa” cho một số quan điểm sai trái, lệch lạc,v.v…đã có “không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện. Một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” đã chỉ rõ về sự suy thoái nêu trên; trong đó nhấn mạnh: “Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; việc đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị còn bị động, thiếu sắc bén và hiệu quả chưa cao”.

Để khắc phục những hạn chế như đã nêu ở trên, cần phải tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục, rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên để ngăn chặn những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên và tổ chức Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, luôn xứng đáng “là người lãnh đạo, người đầy tớ” trung thành của nhân dân.

 

 

SUY NGHĨ VỀ VẤN ĐỀ NÂNG CAO BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

 

Là người đảng viên cộng sản, nhất thiết phải có bản lĩnh chính trị vững vàng. Bản lĩnh chính trị của người cộng sản được thể hiện ở tính kiên định mục tiêu, lí tưởng đã chọn. Kiên định là giữ vững khí tiết của người cộng sản, giữ vững phẩm chất, đạo đức cách mạng, giữ vững niềm tin vào con đường cách mạng mà Đảng đã vạch ra; không dao động, không giảm sút niềm tin và ý chí chiến đấu trong bất cứ tình huống khó khăn, hiểm nghèo nào; không sa ngã, khuất phục trước sức mạnh quyến rũ của uy lực đồng tiền, quyền lực, danh vọng,... Trong đấu tranh cách mạng, tính kiên định chính trị của người cộng sản luôn luôn được đặt ở vị trí hàng đầu. Hơn lúc nào hết, hiện nay, tính kiên định, lòng trung thành với lí tưởng của Đảng, với lợi ích của nhân dân lao động và của dân tộc đang là một trong những yêu cầu hàng đầu đòi hỏi đối với mọi đảng viên của Đảng.

Để nâng cao bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên, trước hết, người đảng viên cộng sản phải giác ngộ sâu sắc lí tưởng cách mạng. Đây là yêu cầu bắt buộc, điều kiện "cần" đối với người đảng viên. Không thể nói kiên định mục tiêu lí tưởng của Đảng, trung thành với lí tưởng của Đảng khi người đảng viên không nắm vững nền tảng tư tưởng của Đảng, không nắm vững cương lĩnh, đường lối quan điểm của Đảng. Muốn vậy, các tổ chức cơ sở đảng phải rà soát lại trình độ lí luận chính trị của đảng viên theo đúng qui định của Điều lệ Đảng. Công tác tổ chức cán bộ, công tác tư tưởng phải làm thật tốt việc qui hoạch cán bộ, trong đó có công tác đào tạo, bồi dưỡng, nhất là việc học tập, bồi dưỡng lí luận chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng; khắc phục triệt để tình trạng học chiếu lệ, hình thức.

Việc học tập, bồi dưỡng lí luận Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cán bộ, đảng viên phải được tiến hành thường xuyên, liên tục bằng nhiều hình thức thích hợp nhưng phải đảm bảo chất lượng. Học kết hợp với hành. Chống học chay lí thuyết suông. Đảng viên được học tập, bồi dưỡng lí luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh phải có sự chuyển biến thực sự trong nhận thức và hành động được biểu hiện cụ thể trong lối sống "đối nhân sử thế" trong mọi mối quan hệ mà trước hết trong quan hệ giữa những người đồng chí với nhau.

Hai là, người đảng viên cộng sản phải được rèn luyện, thử thách trong thực tiễn đấu tranh cách mạng. Khi vào Đảng, các đảng viên cũng xác định động cơ vào Đảng là để được hi sinh, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, cho lợi ích của giai cấp và của dân tộc. Vì vậy, đảng viên phải luôn luôn sẵn sàng nhận nhiệm vụ trong bất cứ tình huống nào, đảng viên không được lựa chọn giữa thuận lợi và khó khăn, không được lùi lại phía sau quần chúng. Sinh thời Bác đã dạy chúng ta "ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong", "lửa thử vàng, gian nan thử sức" phải qua thử lửa mới phân biệt được vàng thật hay giả. Người đảng viên cũng vậy, cái chất cộng sản chỉ có thể có được qua giác ngộ lí tưởng, qua rèn luyện thử thách. Các tổ chức cơ sở đảng phải thật sự có trách nhiệm trong công tác xây dựng Đảng, công tác phát triển Đảng, làm tốt công tác quản lí đảng viên, giúp đảng viên để họ được rèn luyện thử thách có được bản lĩnh chính trị vững vàng. Đảng viên phải có bản lĩnh chủ động sáng tạo trong việc thực hiện nhiệm vụ và có bản lĩnh trong đấu tranh phê bình và tự phê bình.

Trên thực tế, trong thời gian gần đây đã có không ít cán bộ, đảng viên của đảng không chịu tu dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, không chịu tu dưỡng đạo đức cách mạng, dẫn đến tha hóa, biến chất, tự đánh mất mình, tham ô, tham nhũng, làm tổn thất rất lớn đến tài sản của Nhà nước và nhân dân.

Để Đảng ta thật sự trong sạch vững mạnh, “là đạo đức, là văn minh”, xứng đáng là niềm tin và lẽ sống của mỗi người dân Việt Nam yêu nước, mọi cán bộ, đảng viên phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, sẵn sàng cống hiến hi sinh vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân, vì sự trường tồn của Đảng.

                                                                                                           

PHẢI CHĂNG CHẾ ĐỘ MỘT ĐẢNG CẦM QUYỀN LÀ MẤT DÂN CHỦ?

 

Từ nhiều năm qua, các thế lực thù địch ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hoà bình” nhằm chống phá chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng thế giới. Đối với Việt Nam, những giọng điệu “diễn biến hoà bình” thường lớn tiếng rêu rao chế độ một Đảng Cộng sản cầm quyền đang thủ tiêu dân chủ? Những tác giả của luận điệu sai trái này cố tình làm ngơ trước các vấn đề đã được đúc kết thành giáo khoa sơ đẳng về dân chủ, đồng thời trắng trợn vu khống Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam.

Để làm rõ vấn đề, trước hết cần xác định “dân chủ” đang nói ở đây là dân chủ nào, dân chủ của ai và dân chủ cho ai?

Với tư cách là hình thức chế độ chính trị của đất nước, dân chủ xuất hiện cùng với sự xuất hiện của nhà nước. Trong thiết chế dân chủ, quyền của công dân, tính tối cao của pháp luật được thừa nhận; những cơ quan quyền lực nhà nước đều do bầu cử mà ra. Dân chủ được thực hiện thông qua hai hình thức cơ bản: dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Mặt khác, dân chủ gắn liền với hình thức tổ chức nhà nước, nên không bao giờ có một thứ dân chủ "thuần tuý”, mà dân chủ bao giờ cũng mang bản chất giai cấp sâu sắc.

V.I.Lênin tổng kết: "... đảng thống trị của chế độ dân chủ tư sản chỉ cho một đảng tư sản khác được quyền bảo hộ thiểu số; còn đối với giai cấp vô sản, thì trong mọi vấn đề trọng đại, sâu sắc, cơ bản thay cho "quyền bảo hộ thiểu số" thì có luật giới nghiêm hay những cuộc tàn sát. Chế độ dân chủ càng phát triển, thì trong trường hợp có sự chia rẽ về chính trị sâu sắc và nguy hiểm cho giai cấp tư sản, nó càng tiến gần đến tàn sát hay nội chiến". Qua thể chế bầu cử ở các nước tư bản phương Tây, chúng ta cũng thấy rất rõ rằng, tiền bạc ngày càng trở thành yếu tố quyết định trong đời sống chính trị và làm hoen ố nền dân chủ của nó. Từ trước đến nay, cả pháp luật và văn hóa tư sản hầu hết đều bảo vệ và đề cao người giàu. Người giàu được coi là những phần tử ưu tú, còn người nghèo bị khinh rẻ, bị coi là gánh nặng, là nguồn gốc của những tệ nạn xã hội và tội phạm. Pháp luật Mỹ quy định người ứng cử vào các cơ quan quyền lực phải có một lượng tài sản lớn làm vật bảo đảm. Ngoài ra, các ứng cử viên còn phải có tiền để tiến hành các chiến dịch vận động tranh cử hết sức tốn kém. Do đó, trên thực tế, chỉ có những triệu phú, tỷ phú mới có cơ hội tham gia bộ máy chính quyền. Cái gọi là "nền dân chủ Mỹ" chỉ là nền dân chủ của nhà giàu. Tờ Thời báo tài chính (Anh) ngày 25-11-2000 viết: "Cuộc bầu cử năm 2000 đã cho thấy rõ nền dân chủ Mỹ có thể bán cho những người trả giá cao nhất". Có thể gọi đấy là nền dân chủ đấu giá. Tờ Thế giới (Tây Ban Nha) cùng ngày đã ví thói mê tiền như là "căn bệnh ung thư của nền dân chủ Mỹ". Gần đây nhất, cuộc tranh cử Tổng thống Mỹ giữa Tổng thống đương nhiệm Donald Trump và Joe Biden đã cho thấy sự mất dân chủ và thậm chí là không minh bạch. Điều đó cho thấy, một chính quyền được tạo lập bởi đồng tiền, thì tất yếu phải hướng đến phục vụ những kẻ nhiều tiền, chứ không thể là một "chính quyền của tất cả mọi người" mà các lý luận gia của họ rêu rao. Sự dối trá của nền dân chủ tư sản đã bị chính cử tri của họ lột trần bằng hành động tẩy chay các cuộc bầu cử ngày càng gia tăng.

Như vậy, dân chủ hay không dân chủ không phụ thuộc vào số lượng các đảng chính trị, vào việc có áp dụng hay không áp dụng chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Trong thực tế, nhà nước nói riêng và xã hội nói chung đều phải do một đảng lãnh đạo. Có hay không có dân chủ, dân chủ được thực hiện ở trình độ cao hay thấp, tất cả phụ thuộc vào bản chất của đảng cầm quyền, chứ không phụ thuộc vào số lượng nhiều hay ít các đảng phái chính trị.

Trong các nước xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản là tổ chức thực hiện sự thống trị của giai cấp vô sản, cho nên sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản đối với hệ thống chính trị là điều đương nhiên. Điều đó được thể hiện ở đường lối, chính sách của Đảng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội sẽ được thể chế hoá trong toàn bộ hiến pháp và pháp luật. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và phát triển của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Ở Việt Nam, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là bản chất, quy luật hình thành, phát triển và tự hoàn thiện của Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Từ khi ra đời đến nay, Đảng là nhân tố bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đó không phải lấy ý chí chủ quan về chính trị mà là một tất yếu khách quan của lịch sử, mọi mưu toan hạ thấp vai trò của Đảng Cộng sản là trái với yêu cầu khách quan của quá trình phát triển đất nước và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Việc thực hiện dân chủ ở Việt Nam không có sự cần thiết khách quan cho việc hình thành chế độ đa đảng đối lập, đa nguyên chính trị.

Trên thực tế, Đảng Cộng sản Việt Nam là người đại diện chân chính nhất cho lợi ích và nguyện vọng của nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống, quyền tự do, dân chủ và hạnh phúc. Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập, tổ chức và lãnh đạo Đảng ta cũng là người sáng lập và lãnh đạo Nhà nước ta trong nhiều năm, đã khẳng định: "Ngoài lợi ích của Tổ quốc và nhân dân, Đảng ta không có lợi ích nào khác". Chính lịch sử của Đảng và cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh gắn liền với lịch sử của cuộc đấu tranh cho việc thực hiện một chế độ dân chủ và nhân đạo của nhân dân. Ở Việt Nam cũng đã có lúc có nhiều đảng, nhưng những đảng khác đã không vượt qua được những thử thách gay gắt của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân chủ, sứ mệnh lịch sử của dân tộc ta chỉ do Đảng Cộng sản Việt Nam gánh vác. Những lần vượt qua khó khăn, thách thức đã thể hiện bản lĩnh vững vàng và trách nhiệm lớn lao của Đảng đối với vận mệnh của dân tộc và cuộc sống, quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Lịch sử cũng đã chứng minh rằng ngoài Đảng Cộng sản, không một đảng phái hoặc một lực lượng chính trị nào có thể đưa ra được cương lĩnh, đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, có thể đồng thời giải quyết hai mục tiêu dân tộc và dân chủ, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Đảng đã tuyên bố thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam), tiến hành tổng tuyển cử và xây dựng Hiến pháp để thể chế hoá quyền lực của nhân dân lao động. Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền nhằm khẳng định nguồn gốc của chính quyền nhà nước là ở nhân dân, đề cao tính hợp hiến, hợp pháp trong tổ chức và hoạt động của mình và bản thân Đảng cũng tồn tại và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đảng Cộng sản Việt Nam còn khẳng định dân chủ là quy luật hình thành và tự hoàn thiện của cả hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa: "Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị. Đây vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới".

Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Một trong những đặc trưng cơ bản của Đảng vô sản kiểu mới là thừa nhận và thực hiện triệt để nguyên tắc tập trung dân chủ trong toàn bộ hoạt động của mình. Trung thành với các nguyên lý xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác-Lênin, từ khi được thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng, củng cố về tư tưởng, chính trị và tổ chức, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng.

Dù diễn đạt tập trung dân chủ hay dân chủ tập trung thì đây là một nguyên tắc hoàn chỉnh và hai khái niệm đó thống nhất với nhau cả về bản chất và nội dung. Ý nghĩa của nó, như V.I.Lênin viết: "... chế độ tập trung, hiểu theo nghĩa thực sự dân chủ, đã bao hàm khả năng - khả năng này do lịch sử tạo ra lần đầu tiên- phát huy một cách đầy đủ và tự do không những các đặc điểm của địa phương mà cả những sáng kiến của địa phương, tính chủ động của địa phương, tính chất muôn hình muôn vẻ của các đường lối, của các phương pháp và phương tiện để đạt mục đích chung". Trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý: Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau và Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là dân chủ tập trung.

Trong khi khẳng định mạnh mẽ và kiên định chế độ dân chủ do một Đảng Cộng sản cầm quyền, Đảng ta không bao giờ quên lời di huấn của V.I. Lênin về các nguy cơ của một đảng cầm quyền, trong đó, sâu xa nhất là nguy cơ mất dân chủ, vi phạm quyền làm chủ chân chính của nhân dân. Thái độ tôn trọng dân chủ và năng lực thực hành dân chủ trở thành một trong những tiêu chuẩn thiết yếu trong hoạt động của Đảng. Trong công tác lãnh đạo và vận động quần chúng, Đảng Cộng sản cầm quyền phải đặc biệt chú trọng giáo dục và rèn luyện cán bộ, đảng viên về văn hoá dân chủ. Đây là vấn đề cốt lõi trong văn hoá chính trị của Đảng. Trình độ văn hoá dân chủ và văn hoá chính trị là một trong những thước đo về trình độ trưởng thành và bản lĩnh văn hoá của Đảng Cộng sản lãnh đạo và cầm quyền.

Tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng của Người về dân chủ là tài sản vô giá mà Đảng ta - vào lúc này - cần đặc biệt chú trọng, khai thác. Theo Hồ Chí Minh, có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên, thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng để giải quyết mọi khó khăn. Giác ngộ và thực hiện dân chủ, xét trong chiều sâu văn hoá của nó, lại là vấn đề tự do trong nhận thức quy luật và hành động đúng quy luật, thuận theo chân lý và đạo lý. Chỉ dẫn sâu sắc của Hồ Chí Minh về điều này đáng để cho mỗi chúng ta suy ngẫm và vận dụng. Người giải thích rằng: "Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý”. Trong nền chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng, sự lãnh đạo của Đảng bằng phương thức dân chủ là nội dung cốt lõi.

Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cho toàn thể quần chúng lao động, do đó, nó không chấp nhận sự chia rẽ xã hội, không thể tạo ra những lực lượng đối lập, đối kháng trong xã hội, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng và chính trị. Nhân danh các chiêu bài "dân chủ”, "nhân quyền", "đa nguyên, đa đảng" để kích động, gây chia rẽ, hận thù chỉ là thủ đoạn phục vụ mưu đồ chống nhân dân và dân tộc, làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa của các lực lượng thù địch muốn xoá bỏ Đảng Cộng sản và chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa, trong điều kiện kinh tế- xã hội còn kém phát triển, dân trí còn thấp, các thiết chế còn chưa hoàn thiện,...của Việt Nam hiện nay, nếu không có sự lãnh đạo tập trung của Đảng Cộng sản thì dân chủ sẽ rất dễ bị vi phạm.

Với mục tiêu phát huy đầy đủ quyền và năng lực làm chủ của nhân dân trong công cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, kiến tạo nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ưu việt hơn các chế độ dân chủ đã có trong lịch sử, Đảng Cộng sản cầm quyền - trong điều kiện chỉ có duy nhất một đảng Cộng sản hay có nhiều đảng, nhưng Đảng Cộng sản vẫn là lực lượng duy nhất lãnh đạo - vừa thông qua bộ máy nhà nước của dân, do dân, vì dân, vừa phải phát huy cao độ vai trò của Mặt trận với tính cách là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn, tham gia đắc lực vào việc xây dựng, tuyên truyền và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng, thực hiện sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước và các cơ quan nhà nước. Dân chủ, tập trung dân chủ trong Đảng gắn chặt với dân chủ, tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ; dân chủ, nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng phải gắn với dân chủ, nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong hệ thống Mặt trận.

Nếu tiến hành tốt nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của mình, Mặt trận không chỉ làm tốt vai trò tuyên truyền, vận động sâu rộng các tầng lớp nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng, mà còn là lực lượng phản biện xã hội góp phần đắc lực khắc phục nguy cơ quan liêu, chủ quan trong việc hình thành đường lối, chủ trương của các cấp bộ đảng. Với tính cách là phương thức tối cần thiết để phát huy rộng rãi trí tuệ, tinh thần xây dựng và tính chiến đấu của toàn thể đội ngũ đảng viên, dân chủ trong Đảng phải là kiểu mẫu, là lực đẩy dân chủ trong xã hội. Rất nhiều ý kiến đóng góp của nhân dân thông qua kênh Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được đưa vào văn kiện chính thức của Đảng. Một sự khảo nghiệm, phản biện và đóng góp trí tuệ rộng rãi, cầu thị và dân chủ như vậy đã được Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành. Điều tương tự chưa từng diễn ra ở bất cứ nơi nào khác. Các đảng tư sản và thiết chế dân chủ tư sản, trong lịch sử hàng trăm năm của mình, càng chưa bao giờ làm được như vậy.

Tất nhiên, khi khẳng định các thành tựu dân chủ mà Việt Nam đạt được, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chúng ta cũng phải nhìn nhận ra những nguy cơ và hạn chế, yếu kém đã từng mắc phải. Nhà nước tư sản và nhà nước vô sản, tuy bản chất khác nhau về cơ bản, song, đều mang trong mình khả năng bị quan liêu hoá và mất dân chủ ở mức độ này hay mức độ khác. Những nguy cơ làm thoái hoá Đảng cầm quyền luôn luôn được đặt ra trong bất cứ chế độ chính trị nào. Sự khủng hoảng triền miên của các đảng chính trị phương Tây đang là một thực tế, khi mà ngay các chính đảng đó bị lũng đoạn bởi một nhóm nhỏ dần dần trở thành một cơ thể riêng, có những mục đích và quyền lợi riêng và tách dần ra khỏi giai cấp, hình thành các nhóm tài phiệt. Và, trong thời đại ngày nay, đảng nào chỉ đại diện hạn hẹp cho lợi ích của thiểu số giàu có, thì dù có thích ứng đến đâu cũng khó tồn tại bền vững được.

Rõ ràng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vượt qua những thử thách của lịch sử, gắn bó máu thịt với nhân dân, luôn luôn biết tự đổi mới, chứ không phải một lực lượng nào khác có thể đề ra đường lối đáp ứng yêu cầu lịch sử, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân, phù hợp với quy luật khách quan của sự phát triển trong xã hội ngày nay. Một đảng như thế đủ sức đảm đương vai trò là lãnh tụ chính trị của xã hội, của dân chủ mà không cần có một lực lượng đối lập nào.

 

CẢNH GIÁC VỚI ÂM MƯU THÂM ĐỘC "PHI CHÍNH TRỊ HÓA LƯC LƯỢNG VŨ TRANG"

 

Một trong những thủ đoạn tuy không mới nhưng rất thâm độc, đó là chiêu bài đòi "phi chính trị hóa lực lượng vũ trang". Bằng nhiều hình thức ngày càng tinh vi, dã tâm của chúng là nhằm phủ định vai trò lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” của Đảng đối với lực lượng vũ trang, làm cho lực lượng vũ trang không còn là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị tin cậy của Đảng và Nhà nước ta. Nhưng có một sự thật không thể phủ nhận, không thể bóp méo, đó là: Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam ra đời, chiến đấu, xây dựng và trưởng thành từ cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Sự lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” của Ðảng là nhân tố quyết định sự trưởng thành, chiến đấu và chiến thắng của các lực lượng vũ trang. Những chiến công, truyền thống anh hùng rất vẻ vang trong gần 80 năm qua là minh chứng rõ nét nhất, thuyết phục nhất, cho điều tất yếu khách quan này.

Nhân tố chính trị - tinh thần được phát huy đã trở thành cội nguồn sức mạnh của Quân đội, bảo đảm cho cán bộ, chiến sĩ luôn sẵn sàng đối mặt với khó khăn, gian khổ, không ngại hy sinh, quyết chiến, quyết thắng mọi kẻ thù xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sự rèn giũa của Đảng đã tôi luyện nên những người lính can trường và nhân văn; những quân nhân "chân trần chí thép". Đường lối của Đảng dẫn đường, hòa quyện với khát vọng sục sôi giành độc lập dân tộc và hòa bình của nhân dân, tạo thành một thứ sức mạnh cho Quân đội đủ sức chiến thắng những đội quân xâm lược hùng mạnh nhất thế giới. Kể cả khi đối phương đặt toàn bộ vào sức mạnh hủy diệt của B52 với những cuộc tập kích có cường độ cao nhất trong lịch sử các cuộc chiến tranh thế gới.

Còn với lực lượng công an, ngay từ khi mới thành lập đã lập công đầu, đập tan âm mưu chống phá của "thù trong, giặc ngoài", bảo  vệ vững chắc chính quyền cách mạng non trẻ. Sức mạnh và an ninh của chế độ nằm ở chính sức mạnh và uy tín của lực lượng vũ trang – công cụ bạo lực sắc bén của Đảng.

Với vai trò là hai cánh tay của Đảng, của Chính phủ, Quân đội và Công an trong bất cứ tình huống nào và ở bất cứ đâu cũng phải luôn đi tiên phong bảo vệ sinh mệnh của Đảng, bảo vệ chế độ và bảo vệ hạnh phúc của Nhân dân. Đó là sức mạnh cao cả, bất biến của lực lượng vũ trang.

Thời gian qua, những kẻ phản động, thù địch vẫn tìm mọi cách công kích, phủ nhận nguyên tắc "Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt" đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, nhằm làm cho 2 lực lượng quan trọng này mất phương hướng chính trị, xa rời mục tiêu, lý tưởng chiến đấu và bị vô hiệu hóa. Chúng lập luận rằng, quân đội, công an phải "trung lập", "đứng ngoài chính trị", "không cần đặt dưới sự lãnh đạo của đảng phái nào". Chúng coi đây là một trong những trọng tâm chống Đảng, Nhà nước nhằm chuyển hóa cách mạng Việt Nam.

Những âm mưu, thủ đoạn trên càng đặc biệt nguy hiểm khi những kẻ này triệt để lợ dụng các phương tiện truyền thông hiện đại như: internet, các trang mạng xã hội, blog cá nhân... để tán phát, truyền bá quan điểm sai trái, thù địch. Chúng còn được sự hậu thuẫn của một số hãng truyền thông phương Tây, như VOA, BBC, RFA, RFI... cùng những phần tử thâm thù cách mạng, cơ hội chính trị tung hô, cổ xúy.

Để thực hiện mục tiêu "phi chính trị hóa lực lượng vũ trang", các thế lực thù địch, phản động tập trung phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi bỏ Điều 4 trong Hiến pháp. Chúng tung những luận điệu như: chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời, lạc hậu không còn đúng trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay. Rồi xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dưng lực lượng vũ trang nhân dân nói riêng, bóp méo đường lối, quan điểm của Đảng về quân sự, quốc phòng, an ninh.

Các thế lực thù địch còn tiến hành nhiều chiêu trò nhằm suy diễn, quy kết Quân đội, Công an Việt Nam không vì dân, xuyên tạc bản chất của quân đội nhân dân, công an nhân dân. Chúng xuyên tạc chính quyền Việt Nam đưa Quân đội, Công an giải quyết một số vụ việc gây rối trật tự công cộng. Họ còn ngụy biện rằng: không cần phân biệt chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa tư bản, không cần chính trị, chỉ cần tiền, cần vũ khí, do đó quân đội, công an không cần đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Một thủ đoạn nữa trong âm mưu "phi chính trị hóa lực lượng vũ trang" là các thế lực thù địch tập trung phá hoại các nguyên tắc tổ chức cơ bản, xóa bỏ công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội và Công an. Chúng cho rằng trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, lấy lợi nhuận làm mục đích, lấy vật chất làm đòn bẩy tinh thần, nên công tác đảng, công tác chính trị không còn phát huy tác dụng. Trong khi, đây là vấn đề nòng cốt để giữ vững và định hướng nền tảng tư tưởng chính trị trong quân đội, công an.

Không chỉ tấn công về tư tưởng, lý luận, những kẻ phản động, thù địch còn viện dẫn những hiện tượng cá biệt, đơn lẻ để đánh giá, xuyên tạc bản chất, chức năng, nhiệm vụ của Quân đội, Công an. Ví dụ, khi có một cán bộ cấp tướng bị kỷ luật Đảng vì mắc sai phạm, chúng đã quy chụp cho rằng những sai phạm đó xuất phát từ chính bản chất, truyền thống và đặc thù hoạt động quân sự; cho nên, quân đội không thể sửa chữa sai phạm, khuyết điểm; không thể lấy lại được danh dự, uy tín... Rồi cố tình bóp méo, suy diễn rằng nội bộ quân đội, công an đang có vấn đề, biểu hiện mất đoàn kết.

Không những vậy, lợi dụng sự bất mãn của một số cán bộ quân đội, công an bị suy thoái, biến chất qua các bài viết, phát ngôn của những người này trên mạng xã hội, chúng đã tuyên truyền xuyên tạc nói xấu Đảng, hòng làm cho quân độ, công an mất uy tín trong nhân dân, hạ thấp vị thế của quân đội, công an trong xã hội... Chúng ta không lạ lẫm gì cái trò "phá rối", "chọc gậy bánh xe" của những kẻ tự cho mình là người có "trách nhiệm" với dân, với nước.

Với Công an nhân dân, ngay từ những ngày đầu lập nước, đã là lực lượng được trao nhiệm vụ bảo vệ Đảng, bảo vệ Bác và bảo vệ chính quyền non trẻ. Nhắc đến lực lượng Công an nhân dân, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã khẳng định: Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, người chiến sĩ công an luôn sẵn sàng nhận nhiện vụ, chấp nhận hi sinh, gian khổ, tận tụy hết lòng, hết sức phục vụ Đảng, phục vụ tổ quốc và phục vụ nhân dân; chỉ biết "Còn Đảng là còn mình", luôn coi danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất.

Để Quân đội phát huy tốt truyền thống tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, trong bài phát biểu chỉ đạo Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, Tổng bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định “đặc biệt coi trọng xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của toàn quân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy rằng: Quân sự mà không có chính trị thì như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”.

Với những thành quả đã đạt được của lực lượng vũ trang dưới sự lãnh đạo của Đảng suốt những năm qua, chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng rằng Sự lãnh đạo của Đảng: trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, Lực lượng vũa trang luôn luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân; có ý chí, quyết tâm cao, vượt qua mọi gian khổ, hy sinh, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

 

Cảnh giác trước sự chống phá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của các thế lực thù địch

 

Hiện nay, trên các trang mạng xã hội, nhất là website, blog danlambao, quanlambao, chantroimoi media, chandungquyenluc, RFA... đặt máy chủ ở nước ngoài thường xuyên đăng tải những thông tin xuyên tạc, bịa đặt, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh với các thủ đoạn sau:

Một là, bằng nhiều thủ đoạn, cách thức khác nhau, các thế thù địch ra sức xuyên tạc nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, nhất là các nguyên lý của học thuyết Mác; về sự phát triển chủ nghĩa xã hội; bác bỏ lý luận hình thái kinh tế - xã hội; phủ nhận học thuyết giá trị thặng dư, các vấn đề chuyên chính vô sản, đấu tranh giai cấp và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Nguy hiểm hơn, các thế lực thù địch còn kích động, lôi kéo các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị tăng cường xuyên tạc, vu khống, bôi nhọ Chủ tịch Hồ Chí Minh và tư tưởng của Người. Do đó, nếu chúng ta không nêu cao cảnh giác, thì rất dễ rơi trạng thái hoang mang, dao động, thiếu niềm tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.

Hai là, không chỉ phủ nhận lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà các thế lực thù địch còn phủ định cả những thành tựu của sự nghiệp đổi mới. Chúng cường điệu hóa những yếu kém, khuyết điểm của nền kinh tế - xã hội và quy chụp đó là do yếu kém về đường lối lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Rồi chúng tung hô, ca ngợi mô hình phát triển của chủ nghĩa tư bản, cho đó là sự thích ứng “vạn năng”; tuyên truyền, đề cao con đường phát triển của chủ nghĩa tư bản, quảng cáo cho khả năng về “con đường thứ 3” phi xã hội chủ nghĩa. Qua đó, nhằm gieo rắc, nuôi dưỡng các trào lưu tư tưởng cơ hội, xét lại, hữu khuynh.

Ba là, các thế lực thù địch ra sức tuyên truyền và tìm mọi cách thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang. Chúng tuyên truyền rằng, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là của dân tộc chứ không phải của Đảng. Chúng đòi trả lực lượng vũ trang cho nhân dân, rằng lực lượng vũ trang là phục vụ lợi ích của dân tộc, không lệ thuộc vào chính trị của một đảng phái nào. Mục tiêu của chúng là tách lực lượng vũ trang ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng; làm phai nhạt lý tưởng cách mạng và suy giảm sức chiến đấu của lực lượng vũ trang.

Hoạt động chống phá của các thế lực thù địch là hiện hữu và rất nguy hiểm. Do đó, mỗi chúng ta cần phải nêu cao cảnh giác, kiên định lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam; chủ động, kịp thời nhận diện các hoạt động chống phá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của các thế lực thù địch để kiên quyết, kiên trì đấu tranh phản bác.

 

Đấu tranh, ngăn chặn các quan điểm sai trái xuyên tạc lịch sử trên không gian mạng

 

Một trong những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ mà Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII chỉ ra là: Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Phủ nhận những thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước; hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân đã được các thế lực thù địch, phần tử cơ hội, phản động chống phá cách mạng trong, ngoài nước thực hiện dưới nhiều hình thức, quy mô khác nhau như: Lợi dụng và sử dụng triệt để các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội, con đường ngoại giao, từ thiện, viện trợ nhân đạo; các loại hình văn hóa nghệ thuật, kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ và quốc phòng - an ninh. Thế nên, để phòng, chống sự kích động, lôi kéo từ bên ngoài, nâng cao "sức đề kháng", để không bị cuốn vào vòng xoáy và "miễn dịch" trước “cơn bão” thông tin cùng những vi rút độc hại thì rất cần những giải pháp hữu hiệu. Mỗi cán bộ, đảng viên và người dân cần hết sức tỉnh táo để phát hiện, góp tiếng nói đấu tranh, ngăn chặn.

Từ khi mạng xã hội phát triển, vấn đề tung “thông tin xấu”, “thông tin đen” với mục đích nói xấu, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước nhằm hạ thấp uy tín của Đảng ngày càng được các đối tượng đẩy mạnh, tiến hành bài bản, có hệ thống, khiến nhiều người lầm tưởng là có giá trị lý luận và thực tiễn cao. Ở các thời điểm nhạy cảm về chính trị của đất nước, những cơ quan ngôn luận thù địch, có định kiến xấu với Việt Nam liên tục đưa các bài viết, phân tích, phỏng vấn... khoét sâu mâu thuẫn trong các vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhân quyền và những tiêu cực xuống cấp về đạo đức cán bộ, nhằm lôi kéo người dân đấu tranh, tiến tới chuyển hóa chế độ chính trị ở Việt Nam.

Hàng năm, cứ vào dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám 1945, Đại thắng mùa xuân 30/4 thống nhất đất nước , trên các trang mạng, các thế lực thù địch lại tung ra nhiều luận điệu xuyên tạc bằng cách đưa ra những nguồn “sử liệu” không có kiểm chứng, chúng nhào nặn một cách chủ ý để phủ nhận những thành quả cách mạng to lớn của dân tộc ta. Chúng tuyên truyền rằng: Cách mạng Tháng Tám 1945 với việc lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành Đảng cầm quyền chỉ là sự "ăn may" khi phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh..., hay chiến tranh Việt Nam là cuộc “nội chiến” huynh đệ tương tàn giữa hai miền Nam - Bắc do sự khác biệt về lý tưởng cộng sản…

Nhưng sự thật đã khẳng định rằng, Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công bắt nguồn từ sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh; từ sức mạnh của khối đại đoàn kết và truyền thống đoàn kết, yêu nước của dân tộc Việt Nam được hun đúc từ hàng nghìn năm lịch sử và khi thời cơ đến, đã bùng lên mạnh mẽ đấu tranh giành chính quyền cách mạng. Hơn nữa, lịch sử quá rõ để khẳng định: Về bản chất, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam là cuộc đối đầu giữa nhân dân Việt Nam chống lại đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai nhằm giành độc lập, tự do cho dân tộc. Đó hoàn toàn không phải là cuộc “nội chiến” giữa hai miền Nam - Bắc do xung đột về ý thức hệ như những luận điệu xuyên tạc lịch sử tuyên truyền.

Như vậy, mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, từ truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần quyết tâm đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc, nhưng có bài viết đăng trên trang mạng nêu lên những luận điệu xuyên tạc về lòng yêu nước, tinh thần, ý chí chiến đấu kiên cường của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, luận điệu này không dễ thuyết phục người dân bởi với dân tộc Việt Nam, truyền thống yêu nước đã thấm sâu vào máu, trở thành động lực to lớn để mỗi người dân Việt Nam cảm nhận và chuyển hóa thành hành động, việc làm cụ thể, qua đó giành những thắng lợi rực rỡ trong lịch sử dựng nước và giữ nước…

Trước sự xuyên tạc lịch sử dân tộc của các thế lực thù địch nhằm đẩy mạnh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, hơn lúc nào hết chúng ta phải đẩy mạnh tuyên truyền lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc tới mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ trong lực lượng vũ trang.

Trước hết, chỉ huy các cấp, các đơn vị và tổ chức đảng các cấp cần phải đẩy mạnh công tác giáo dục truyền thống lịch sử; tuyên truyền sâu rộng về ý nghĩa, vai trò, sự cần thiết của công tác giáo dục truyền thống lịch sử cho cán bộ, giảng viên, đặc biệt là học viên. Chỉ có làm cho mỗi cán bộ, giảng viên, đặc biệt là thế hệ trẻ trong lực lượng vũ trang hiểu sâu sắc được lịch sử dân tộc thì mới ngăn chặn được âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch xuyên tạc lịch sử dân tộc. Đó cũng là biện pháp để ngăn chặn biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Bên cạnh đó, hiện nay đất nước đang đứng trước những vận hội và thử thách mới, phải không ngừng phát triển để nâng cao sức mạnh toàn diện, trong đó lịch sử là cội nguồn của sức sống, của sự trường tồn của dân tộc và là nền tảng tinh thần cực kỳ quan trọng cho sự phát triển bền vững. Mỗi cán bộ, giảng viên, học viên phải không ngừng nâng cao trình độ lý luận và phương pháp luận, phát huy cao trách nhiệm và nhiệt huyết được hun đúc từ truyền thống hàng nghìn năm lịch sử của dân tộc, phải là những chiến sĩ xung kích trên mặt trận phòng, chống “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, chống biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đặc biệt là biểu hiện xuyên tạc lịch sử dân tộc, qua đó để những trang vàng lịch sử dân tộc Việt Nam tiếp tục được viết tiếp, được lưu truyền cho con cháu muôn đời mai sau.

 

TỪ TÁC PHẨM “TỰ CHỈ TRÍCH” CỦA TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN VĂN CỪ SUY NGHĨ VỀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ HIỆN NAY

 

Nhân dịp 112 năm Ngày sinh của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ (9/7/1912-9/7/2024) chúng ta đọc lại tác phẩm "Tự chỉ trích", suy ngẫm, thấm thía những luận điểm về tự phê bình và phê bình, tham khảo phương pháp luận khoa học, thế giới quan và nhân sinh chính trị đúng đắn để tiếp tục công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị hiện nay.

1. Trong những trang vàng lịch sử Đảng ta, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ để lại dấu ấn là một lãnh tụ xuất sắc của Đảng, một người con ưu tú của dân tộc, “tuổi trẻ tài cao”, với ước nguyện cao đẹp, xả thân vì lý tưởng cứu dân cứu nước, một tài năng chính trị lỗi lạc có tầm nhìn chiến lược linh hoạt và phương pháp cách mạng khoa học. Đồng chí là hiện thân về đạo đức cách mạng nhiệt thành, trong sáng, kiên trì học tập, thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin, kiên định nguyên tắc Đảng, luôn từ thực tiễn để tiếp cận chân lý.

Trình độ lý luận chính trị vững vàng, thực tiễn đấu tranh phong phú, khả năng tập hợp, đoàn kết được cán bộ, đảng viên, quần chúng giúp đồng chí có nhiều kinh nghiệm trong việc chỉ đạo cách mạng. Năm 26 tuổi đồng chí nhận trọng trách là Tổng Bí thư của Đảng (3/1938). Đồng chí đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam và phong trào cộng sản, công nhân quốc tế với lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng của lãnh tụ nguyễn Ái Quốc, cùng Ban Chấp hành Trung ương Đảng giải quyết những yêu cầu đúng đắn của cách mạng Việt Nam và Đông Dương đề ra. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ có vai trò định hướng quan trọng tại Hội nghị Trung ương 6 tháng 11/1939. Trong hội nghị này, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ và Trung ương Đảng đã nhanh chóng, kịp thời quyết định chuyển hướng chiến lược và phương pháp cách mạng của Đảng phù hợp với thực tiễn thời cuộc lúc đó. Trung ương đánh giá đầy đủ vấn đề dân tộc, chỉ rõ mâu thuẫn chủ yếu ở Đông Dương là mâu thuẫn giữa các dân tộc trên bán đảo này với chủ nghĩa đế quốc Pháp và bè lũ tay sai, coi nhiệm vụ tập hợp toàn dân để đấu tranh giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng.

Giữa lúc phong trào cách mạng của dân tộc đang bước vào cao trào mới thì ngày 18/1/1940, đồng chí bị địch bắt. Năm 1940, bọn đế quốc Pháp kết án tử hình đồng chí. Ngày 28/8/1941, đồng chí bị quân thù bắn ở Bà Điểm, Gò Vấp (Gia Định). Trước họng súng của kẻ thù, đồng chí vẫn giữ khí phách hiên ngang, bất khuất, kiên trung của người cộng sản luôn vì Đảng, vì Nhân dân, vì Tổ quốc.

Tuy cuộc đời dừng lại khi còn rất trẻ, đồng chí đã kịp để lại cho Đảng ta một số tác phẩm quý báu, mang tầm tư tưởng và trí tuệ, thể hiện tư duy lý luận chính trị sắc sảo, nhãn quan chính trị nhạy bén, quan điểm về tính Đảng, tính nguyên tắc rõ ràng. Trong đó “Tự chỉ trích” là một văn kiện quan trọng về tổng kết kinh nghiệm đấu tranh cách mạng thời kỳ Mặt trận Dân chủ và là “cẩm nang” trong xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận chính trị, thực hành nguyên tắc tự phê bình và phê bình của Đảng, cho đến nay vẫn còn mang ý nghĩa thời đại.

Tác phẩm “Tự chỉ trích” ra đời vào tháng 7/1939. Vào thời điểm đó, sự thắng thế của các phần tử tờ-rốt-kít dẫn đến thất bại tạm thời của Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Một số cán bộ, đảng viên dao động, tranh cãi, công kích lẫn nhau, viết bài đăng báo, với nhiều luồng tư tưởng lệch lạc về đường lối của Đảng, xuất hiện chủ nghĩa bè phái, chia rẽ trong nội bộ Đảng. Với tư cách là Tổng Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Cừ cảm thấy “không thể giữ thái độ lãnh đạm hay mù mờ”, “có trách nhiệm phải tham gia vào cuộc thảo luận”, “phải định rõ thái độ”, “có bổn phận phải phân tích xác thực hoàn cảnh”. Cùng với việc khởi xướng đấu tranh lý luận trên các mặt trận báo chí, tuyên truyền, giáo dục, đồng chí Nguyễn Văn Cừ viết tác phẩm “Tự chỉ trích” in trong tập sách Dân chúng xuất bản tháng 7/1939 với bút danh Trí Cường. Thông qua khái quát những vấn đề tư tưởng, nhận thức, tranh luận và giải đáp, giác ngộ chính trị cho đảng viên, khắc phục tình trạng bất đồng ý kiến xuất hiện trong Đảng lúc bấy giờ. Tác phẩm đã chuẩn bị về mặt lý luận và tư tưởng cho thành công của Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương tháng 11/1939.

Bằng phương pháp bút chiến, đồng chí tranh luận và giải đáp một số vấn đề đặt ra trong tư tưởng, nhận thức với mục đích: “Để thống nhất tư tưởng, thống nhất hành động! Củng cố hàng ngũ để chóng thực hiện sự thống nhất các tầng lớp nhân dân”. Đồng chí kêu gọi dùng phương pháp “tự chỉ trích” để nhận diện và đấu tranh với các khuynh hướng sai lầm trong Đảng lúc bấy giờ: “Chúng ta phải chiến thắng những xu hướng sai lầm trong hàng ngũ: xu hướng “tả khuynh”, cô độc, nó muốn làm cho Đảng cô lập rút hẹp bởi biệt phái, cách xa quần chúng, và xu hướng thỏa hiệp hữu khuynh lung lay trước những tình hình nghiêm trọng, nhãng quên hoặc che lấp sự tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, lăm le rời bỏ những nguyên tắc cách mệnh”.

Đồng chí cho rằng: “Đảng vì còn trẻ tuổi còn phạm nhiều khuyết điểm, nhiều sự sai lầm; điều ấy Đảng luôn luôn tự chỉ trích thành thật và mạnh dạn công nhận để sửa đổi” với thái độ “…không bi quan hoảng hốt mà cũng không đắc chí tự mãn để tìm ra những nguyên nhân thất bại và nghiên cứu phương pháp sửa lỗi và tiến thủ”. Từ bản lĩnh và nhận thức đúng đắn của người cộng sản, đồng chí khẳng định: “Công khai, mạnh dạn thành thực vạch những lầm lỗi của mình và tìm những phương châm sửa đổi, chống những xu hướng hoạt đầu thỏa hiệp không phải là làm yếu Đảng mà là làm cho Đảng được thống nhất, mạnh mẽ. Cũng không sợ “địch nhân lợi dụng, chửi rủa, vu cáo cho Đảng, không sợ nối giáo cho giặc”. Trái lại, nếu “đóng kín cửa bảo nhau”, giữ cái vỏ thống nhất mà bề trong hổ lốn một cục đầy dẫy bọn hoạt đầu, đó mới chính là để cho quân thù chửi rủa, hơn nữa, đó tỏ ra không phải là một đảng tiền phong cách mạng, mà là một đảng hoạt đầu cải lương”.

Đồng chí đặc biệt coi trọng vấn đề phương pháp trong phê bình và tự phê bình. Để thống nhất ý chí và hành động, mỗi đảng viên có quyền tự do thảo luận và tự chỉ trích nhưng phải có nguyên tắc. Nguyên tắc đó là “tự chỉ trích bôn sê vích”, phải biết trọng uy tín của Đảng, coi nó là cốt yếu, hiểu rõ mục đích tự chỉ trích để tự huấn luyện, làm tăng uy tín và ảnh hưởng của Đảng, để cho Đảng được càng thống nhất và củng cố, đưa phong trào phát triển lên, đưa cách mạng tới thắng lợi chứ “không phải là công kích Đảng, mạt sát Đảng, đặt danh dự cá nhân lên tất cả quyền lợi của Đảng, của cách mạng”.

Theo đồng chí, “cần thiết phải để cho sáng kiến và sự hoạt động theo sáng kiến của các đảng viên được phát triển, làm cho các đảng viên giác ngộ rõ ràng và đầy đủ trách nhiệm của mình, biết xoay phương hướng trong những hoàn cảnh khó khăn nghiêm trọng, biết tự chỉ trích đúng và kịp thời những khuyết điểm sai lầm”…

Tác phẩm là một mẫu mực về phương pháp tự phê bình và phê bình - "chìa khóa vạn năng" để củng cố và tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, xây dựng đội ngũ trong sạch, vững mạnh. Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng suốt 92 năm qua, Đảng ta đã luôn sử dụng chiếc “chìa khóa” đó dưới nhiều cách gọi khác nhau: “cả quyết sửa lỗi mình”, “tự chỉ trích”, “tự soi, tự sửa”, “sửa sai để tiến lên”, “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật”, "tự phê bình và phê bình"... "Công khai mạnh dạn, thành thực vạch những nhầm lỗi của mình và tìm phương châm sửa đổi” “để thống nhất tư tưởng, để rèn luyện mình, để đề cao uy tín và ảnh hưởng của Đảng, nhằm làm cho Đảng ngày càng mạnh và cách mạng ngày càng phát triển” như đồng chí Nguyễn Văn Cừ từng nêu.

2. Nhân dịp 112 năm Ngày sinh của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ (9/71912-9/7/2024) chúng ta đọc lại tác phẩm "Tự chỉ trích", suy ngẫm, thấm thía những luận điểm về tự phê bình và phê bình, tham khảo phương pháp luận khoa học, thế giới quan và nhân sinh chính trị đúng đắn để tiếp tục công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị hiện nay. Nếu trong Đảng không thống nhất tư tưởng và hành động, mạnh dạn, quyết liệt đấu tranh để khắc phục những sai lầm, khuyết điểm thì vận mệnh của Đảng sẽ gay go. Điều đáng mừng là Đảng ta không sợ nhìn ra khuyết điểm, công khai, thành thực để sửa lỗi, tinh thần đấu tranh phê bình và tự phê bình luôn là một nguyên tắc thiết yếu.

Trong 3 nhiệm kỳ Đại hội Đảng khóa XI, XII, XIII, với tinh thần “tự chỉ trích”, tự phê bình và phê bình quyết liệt, Trung ương đã thẳng thắn đánh giá, nhận diện tình hình, nghiên cứu, tổng kết, rút kinh nghiệm, bổ sung, ban hành các chỉ thị, nghị quyết, kết luận, quy định quan trọng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị. Đảng ta đã thẳng thắn nhận diện, công khai thực trạng vấn nạn tham ô, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực, suy thoái như nhạt phai lý tưởng cách mạng, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin, giảm sút ý chí chiến đấu, đề cao chủ nghĩa cá nhân thực dụng, cơ hội, bè phái cục bộ, lợi ích nhóm, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc, công tác cán bộ, thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, quản lý; vi phạm các quy định pháp luật; vi phạm quy định về những điều đảng viên không được làm, vi phạm đạo đức, lối sống… của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức tại các cơ quan công quyền trong hệ thống chính trị làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức mạnh, uy tín và năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng ta, làm tổn hại đến lợi ích của Nhà nước, của quốc gia và nhân dân, làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ, là cơ hội cho các thế lực thù địch lợi dụng chống phá.

Câu chuyện nóng bỏng nhất hiện nay được dư luận quan tâm là “cuộc đại phẫu”- đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong bộ phận cán bộ, đảng viên. Với tinh thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”, công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực đã triển khai kiên trì, quyết liệt có nhiều bước tiến mạnh, được nhân dân đồng tình, hưởng ứng, góp phần quan trọng vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, giữ vững ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vừa qua, Đảng, Nhà nước đã xử lý nghiêm minh nhiều vụ án, vụ việc, cán bộ, đảng viên tham nhũng, tiêu cực, một số vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, gây thiệt hại lớn, liên quan đến nhiều cán bộ cấp cao ở Trung ương và địa phương. Theo Ban Nội chính Trung ương, trong hơn 10 năm qua, Ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật hơn 2.700 tổ chức đảng, gần 168.000 đảng viên trong đó có hơn 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng. Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã kỷ luật hơn 170 cán bộ cấp cao diện Trung ương quản lý, trong đó có 33 Ủy viên, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, hơn 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Đây không phải là con số của thành tích mà là con số của tổn thất, là nỗi đau, sự nhức nhối trong xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Trung ương khẳng định quyết tâm, phát hiện đến đâu thì xử lý đến đó, phát hiện kịp thời, xử lý kịp thời thì đạt hiệu quả, giảm thiểu hậu quả.

Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được coi là then chốt, cốt yếu hiện nay đang được thực hiện toàn diện về tư tưởng chính trị, đạo đức, tổ chức và cán bộ trên cả hai mặt “xây” và “chống”, phòng ngừa và xử lý. Trong đó, xây là cơ bản, lâu dài, chống là quan trọng, cấp bách. Phải xử lý cán bộ, đồng chí của mình, đó là một đau xót của tổ chức nhưng không thể không làm, mục đích là răn đe, là cảnh tỉnh, là ngăn ngừa, là thượng tôn pháp luật. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định sẽ thường xuyên sàng lọc, rà soát kịp thời và kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách đảng viên với tinh thần “thà ít mà tốt”. Đồng thời, Đảng và Nhà nước cũng đang khẩn trương nhận diện những lỗ hổng và khuyết tật của cơ chế, tình trạng buông lỏng công tác quản lý, giám sát quyền lực; “dọn dẹp”, sửa đổi thể chế để theo kịp với sự phát triển và thay đổi của xã hội, tạo động lực cho phát triển, hạn chế việc sai, mắc lỗi. Trên hết, trước hết, tự phê bình và phê bình vừa như chiếc kính hiển vi soi chiếu, kịp thời phát hiện, nhận diện những biểu hiện sai trái, kịp thời sửa chữa, đấu tranh; vừa như “tấm lọc” hữu hiệu góp phần thanh lọc, ngăn ngừa nguy cơ diễn biến của những khuynh hướng sai lầm. Nâng cao chất lượng sinh hoạt của tổ chức đảng, các tổ chức chính trị - xã hội, nhất là cấp ủy, thường vụ cấp ủy, trong đó tự phê bình và phê bình được thực hiện từ Trung ương đến chi bộ là yêu cầu có tính nguyên tắc được đề cao và phải thực hiện nghiêm, thường xuyên, liên tục.

Càng đi sâu vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, chúng ta càng thấy tầm quan trọng của việc thực hành tự phê bình và phê bình trong việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn từ gốc, từ sớm, từ xa, không để những vi phạm nhỏ tích tụ thành những sai phạm lớn. Tuy đây là nguyên tắc căn bản đã được khẳng định qua thời gian, được yêu cầu cần tiến hành thường xuyên như một thói quen, hành xử văn hóa trong sinh hoạt đảng, nhưng trên thực tế đây vẫn là “khâu yếu trong sinh hoạt đảng”. Một thời gian dài, nguyên tắc tự phê bình và phê bình ở một số nơi bị buông lỏng, thực hiện không nghiêm, chưa thực chất, chưa thường xuyên, chưa liên tục, còn hình thức. Dẫn đến một số cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu chưa nhận thức đúng đắn, chưa nhận diện đầy đủ các biểu hiện tiêu cực, mức độ suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tại địa phương, cơ quan, đơn vị mình… Chỉ đến khi sự việc bung bét, xuất hiện các cá nhân, tập thể vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật thì mới “vỡ lẽ” là các biểu hiện suy thoái, vi phạm đã diễn ra âm thầm, từ từ mà không được phát hiện, hoặc phát hiện mà không được đấu tranh đến nơi đến chốn.

Vũ khí phê bình, tự phê bình có lúc có nơi bị vô hiệu hóa, thậm chí có sự bao che, dung dưỡng vi phạm, có sự cấu kết, móc nối, bắt tay thỏa hiệp giữa cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất với các doanh nghiệp, tổ chức để trục lợi. Cái xấu, cái sai len lỏi trong mỗi con người, mỗi tổ chức đảng và dần được chấp nhận như một điều bình thường bởi không ai lên tiếng. Việc thể hiện quan điểm, chính kiến trở thành dị biệt, khó chấp nhận. Hệ quả của việc buông lỏng nguyên tắc này là làm tê liệt, giảm sức chiến đấu của tổ chức đảng. Chủ quan trong nhận diện tình hình, sai lệch trong nhận xét, đánh giá, lơi lỏng trong kiểm tra, giám sát, chậm trễ trong chấn chỉnh dẫn đến hệ lụy nghiêm trọng, nhiều cán bộ, đảng viên, thậm chí là cán bộ cấp cao vướng vào sai phạm, vi phạm kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật.

Tự phê bình và phê bình là thước đo trình độ sinh hoạt dân chủ trong Đảng. Đảng viên có quyền và có trách nhiệm nói lên chính kiến của mình, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng tình hình, tự soi tự sửa mình và tổ chức. Tổ chức cơ sở đảng phải thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, lắng nghe, tôn trọng, tạo môi trường dân chủ, cởi mở cho đảng viên lên tiếng. Phải tạo thành văn hóa thực hành tự phê bình và phê bình, tránh qua loa, hình thức, chiếu lệ, xuê xoa; tránh các biểu hiện nể nang, né tránh, ngại va chạm, “dĩ hòa vi quý”; cũng tránh lợi dụng kiểm điểm, phê bình để đấu đá, hạ bệ, vu khống, bôi nhọ, chỉ trích nhau với động cơ không trong sáng; thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, thờ ơ, vô cảm trước những bức xúc của nhân dân, phụ họa theo nhận thức và quan điểm sai trái, lệch lạc. Để tạo dựng được thói quen, phương pháp tự phê bình và phê bình thực chất, cá nhân, tổ chức phải có phẩm chất trí tuệ, nền tảng văn hóa, đạo đức, niềm tin và lòng trung thành, tư duy thực tiễn, thực hành trên nền tảng tư tưởng, vững vàng lý luận chính trị, các nguyên tắc rường cột của Đảng.

Công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị hiện nay đang thể hiện quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ và hiệu quả hơn, cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực đang được đẩy lên một giai đoạn mới, cam go, phức tạp hơn. Văn bản, chỉ thị, nghị quyết, kết luận, quy định của Trung ương ban hành đến nay đã tương đối đầy đủ, bổ sung căn cứ, cơ sở để thực hiện xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị đi vào cả chiều rộng lẫn chiều sâu, trong đó có công tác tự phê bình và phê bình được nhấn mạnh như một nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu. Nhưng để thực hành thực chất, hiệu quả phải dựa vào ý thức tự giác của mỗi đảng viên, của tổ chức cơ sở đảng, đặc biệt là sự nêu gương của người đứng đầu. Sự đồng lòng, nhất trí của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, của báo chí, truyền thông và toàn xã hội là sức mạnh tổng hợp để tạo nên những bước tiến quan trọng trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị. Bài học về “thống nhất nhận thức để thống nhất hành động” đòi hỏi phải khắc phục cho được tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”, đòi hỏi quyết tâm chính trị, cả hệ thống vào cuộc, hành động, triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trương, nhiệm vụ mới của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với niềm tin của nhân dân là vấn đề cấp bách, nhiệm vụ sống còn bởi liên quan đến uy tín, danh dự, sức mạnh và sự tồn vong của Đảng, sự ổn định chính trị - xã hội và phát triển bền vững của đất nước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong đó, vũ khí hiệu năng nhất là phê bình và tự phê bình cần phải phát huy được hết công hiệu của nó. Vì thế tác phẩm Tự chỉ trích càng tỏ rõ giá trị bền vững quý giá, càng nóng bỏng tính thời sự trong thời điểm hiện nay. Tự phê bình và phê bình để đi đến thống nhất ý chí và hành động, đó là bài học của quá khứ, bài học của hiện tại và vẫn là bài học quý giá cho tương lai./.

 

KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG AN NINH NHÂN DÂN VIỆT NAM

          

Nhằm thực hiện chống phá Đảng và Nhà nước ta, các thế lực thù địch, phản động luôn dùng mọi âm mưu, thủ đoạn khôn lường. Từ việc xuyên tạc đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, cho đến bôi nhọ hình ảnh của quân đội và công an nhân dân. Trong đó, lực lượng vũ trang nói chung, lực lượng an ninh nói riêng thường xuyên bị các thế lực thù địch, phản động khai thác để xuyên tạc, bôi nhọ, nói xấu về nhiệm vụ và hoạt động của lực lượng An ninh nhân dân. Trong thực tiễn, từ khi được thành lập đến nay, lực lượng An ninh nhân dân được Đảng, Bác Hồ giáo dục và rèn luyện, được nhân dân hết lòng tin yêu và giúp đỡ, lực lượng An ninh nhân dân không ngừng trưởng thành và lớn mạnh. Trải qua các thời kỳ cách mạng, trong chiến tranh chống xâm lược cũng như trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt trong giai đoạn cách mạng hiện nay, lực lượng An ninh nhân dân luôn là công cụ tin cậy, là vũ khí sắc bén để bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ nhân dân. Vai trò của lực lượng An ninh nhân dân Việt Nam là không thể phủ nhận đối với việc bảo đảm an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Những đóng góp đó không thể bị các thế lực thù địch, phản động làm mờ đi hình ảnh người chiến sĩ an ninh trong lòng người dân Việt Nam.

          Vào ngày 12/7/1946, lực lượng An ninh nhân dân đã lập chiến công đặc biệt xuất sắc, khám phá, tiêu diệt tổ chức phản cách mạng ở số 7 phố Ôn Như Hầu (nay là phố Nguyễn Gia Thiều, Hà Nội), đập tan cuộc đảo chính của Quốc dân đảng câu kết với thực dân Pháp, bảo vệ an toàn chính quyền cách mạng non trẻ đang trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc.” Chiến công có ý nghĩa vô cùng to lớn trong lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân đưa đất nước thoát ra khỏi tình thế khó khăn nhất. Đây là mốc lịch sử quan trọng đánh dấu chặng đường vẻ vang của lực lượng An ninh nhân dân và ngày 12/7/1946 được xác định là Ngày truyền thống của lực lượng An ninh nhân dân.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cũng như kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lực lượng An ninh đã lập nhiều chiến công thầm lặng nhưng vô cùng oanh liệt, đập tan mọi âm mưu, hoạt động phá hoại của địch, giữ vững an ninh vùng tự do, các khu căn cứ, bảo vệ tuyệt đối an toàn các cơ quan đầu não của Đảng, Nhà nước; dựa vào nhân dân tổ chức lực lượng triệt phá hàng ngàn tổ chức, ổ nhóm gián điệp, tay sai, trấn áp hàng ngàn tổ chức phản động; tiến hành diệt ác, phá tề, trừ gian, bóc gỡ cơ sở của địch; truy quét, tiễu trừ hàng ngàn tên phỉ; “giăng bẫy” bắt gọn hầu hết toán gián điệp biệt kích của Mỹ-ngụy tung ra miền Bắc; làm thất bại âm mưu “đánh cộng sản trong lòng cộng sản” của địch, thu hàng chục ngàn tin tình báo có giá trị giúp Đảng, Nhà nước hoạch định chiến lược đấu tranh với địch.

Sau ngày miền Nam giải phóng, đất nước hoàn toàn thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng An ninh gắn bó máu thịt với nhân dân, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng, các cấp, các ngành, làm tốt vai trò nòng cốt, xung kích trên mặt trận bảo vệ an ninh quốc gia, cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định cuộc sống của nhân dân. Đặc biệt, lực lượng An ninh đã đấu tranh làm thất bại và vô hiệu hóa các chiến dịch phá hoại của các tổ chức phản động lưu vong.

Từ khi Đảng và Nhà nước đẩy mạnh thực hiện đường lối đổi mới đến nay, lực lượng An ninh đã tổ chức đấu tranh hàng trăm vụ án gián điệp, phản động, với hàng ngàn đối tượng, đẩy lùi, vô hiệu hóa các âm mưu, hoạt động tình báo, gián điệp, tập hợp lực lượng, hình thành tổ chức phản động, phá hoại tư tưởng, bạo loạn lật đổ ở Việt Nam của các thế lực thù địch trong và ngoài nước; đấu tranh làm thất bại hoàn toàn các chiến dịch chống phá Việt Nam của các tổ chức phản động lưu vong; đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả các loại đối tượng lợi dụng mở cửa, hợp tác quốc tế vào nước ta hoạt động tình báo, gián điệp, phá hoại tư tưởng; đập tan hàng chục chiến dịch gây nổ, gây bạo loạn, thành lập các tổ chức chính trị đối lập và tiến hành khủng bố do các tổ chức phản động lưu vong thực hiện.

Trên lĩnh vực an ninh kinh tế, lực lượng An ninh đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chức năng, chủ động phòng ngừa, đấu tranh với các hoạt động phá hoại kinh tế, dùng kinh tế chuyển hóa chính trị; đã khám phá hàng chục vụ án điển hình về buôn lậu, tham nhũng... qua đó tham mưu giúp Nhà nước, các cơ quan, ban, ngành kịp thời hoạch định chính sách cũng như đề ra các biện pháp quản lý kinh tể phù hợp với bối cảnh mới. Với các thách thức an ninh phi truyền thống, lực lượng An ninh nhân dân tỏ rõ bản lĩnh, tích cực tham mưu và triển khai có hiệu quả các giải pháp bảo vệ an ninh mạng, bảo vệ an toàn hệ thống thông tin các cơ quan trọng yếu, ngăn ngừa có hiệu quả các cuộc tấn công mạng, các chiến dịch tuyên truyền phá hoại tư tưởng, xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội trên không gian mạng; tích cực tham gia tuyến đầu phòng, chống dịch COVID-19.

          Có thể khẳng định mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng đều có sự đóng góp to lớn về trí tuệ, sức lực và xương máu của các thế hệ cán bộ, chiến sỹ lực lượng An ninh nhân dân. Ghi nhận, đánh giá cao những công lao, cống hiến của lực lượng An ninh nhân dân, Đảng, Nhà nước đã trao tặng lực lượng nhiều phần thưởng cao quý: 3 Huân chương Sao Vàng, 39 tập thể được tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh, phong tặng Danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; hàng nghìn lượt tập thể và cá nhân được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Quân công, Huân chương Chiến công các hạng và nhiều phần thưởng cao quý khác./.

KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC Ý NGHĨA NGÀY 27 THÁNG 7

                                                          

Hằng năm, vào ngày 27 tháng 7 toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta tổ chức nhiều các hoạt động nhằm tri ân công lao của những người thương binh, liệt sĩ trong cuộc chiến giành độc lập, bảo vệ tổ quốc. Đây là dịp để thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa qua đó tuyên truyền, giáo dục thế hệ trẻ về lòng biết ơn đối với những người đã có công với cách mạng. Tuy nhiên, cũng vào dịp này các thế lực thù địch, phản động thường xuyên lợi dụng để chống phá. Bọn chúng xuyên tạc những hi sinh, cống hiến của ông cha ta trong chiến tranh giải phóng dân tộc. Các thế lực thù địch bôi nhọ những hình ảnh thương binh, liệt sĩ. Thậm chí bọn chúng còn đánh lạc hướng dư luận về những hoạt động ý nghĩa nhằm tri ân với các anh hùng liệt sĩ của Đảng và Nhà nước ta. Cho dù bọn chúng có dùng thủ đoạn nào đi chăng nữa thì ý nghĩa của ngày 27 tháng 7 – ngày thương binh, liệt sĩ vẫn còn nguyên giá trị đến muôn đời. Để không bị các thế lực thù địch lợi dụng chống phá, chúng ta hãy nói cho bọn chúng biết rõ về lịch sử và ý nghĩa của ngày 27 tháng 7.

          Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Khi chính quyền cách mạng đang còn non trẻ thì thực dân Pháp âm mưu trở lại xâm lược nước ta. Kiên quyết bảo vệ thành quả cách mạng, giữ gìn độc lập tự do, quân và dân ta ở những nơi thực dân Pháp gây hấn đã chiến đấu anh dũng, chặn lại bàn tay đẫm máu của thực dân xâm lược. Trong cuộc chiến đấu này, nhiều chiến sĩ đồng bào ta đã bị thương, có người đã vĩnh viễn nằm lại chiến trường. Nhiều gia đình cùng một lúc phải mất đi cả chồng và các con ngoài mặt trận. Nhiều người vợ trẻ chỉ được hưởng hạnh phúc vợ chồng chưa trọn một ngày, rồi góa bụa cả đời. Khỏi phải nói những thiệt thòi mất mát, nỗi buồn tủi của những người còn sống khi người thân mất đi. Nhưng cũng chính bằng lòng tiếc thương vô hạn ấy, người sống tự nói với lòng mình rằng: “ Hãy sống sao cho xứng với người đã khuất”. Và rồi đã như thành truyền thống, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã dành tình thương yêu của mình chăm sóc các gia đình liệt sỹ, anh chị em thương binh - bệnh binh một cách tận tình chu đáo.

          Đầu năm 1946, Hội giúp binh sĩ tử nạn (sau đổi tên là Hội giúp binh sĩ bị thương) được thành lập ở Thuận Hóa, Bình Trị Thiên, ở Hà Nội và nhiều nơi khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được mời làm hội trưởng danh dự của Hội giúp binh sĩ tử nạn. Chiều ngày 28/5/1946, Hội “Giúp binh sĩ bị nạn” tổ chức một cuộc nói chuyện quan trọng tại Nhà hát thành phố Hà Nội và Hồ Chủ Tịch đã tới dự. Chiều ngày 11/7/1946, tại Nhà hát này đã có một buổi quyên góp quần áo, giày mũ cho chiến sĩ ngoài mặt trận, mở đầu cuộc vận động “mùa đông chiến sĩ”. Tại đây, Bác Hồ đã cởi chiếc áo rét đang mặc để tặng binh sĩ. Khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ vào ngày 19/12/1946, số người bị thương và hy sinh tăng lên. Đời sống của chiến sỹ và đồng bào ta gặp muôn vàn khó khăn. Đảng và Nhà nước ta đã quyết định nhiều chính sách quan trọng liên quan đến công tác thương binh liệt sĩ nhằm đảm bảo đời sống vật chất cũng như tinh thần của các gia đình chính sách trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến.

          Tháng 6/1947, đại biểu của Tổng bộ Việt Minh, Hội Phụ nữ cứu quốc, Cục Chính trị quân đội quốc gia Việt Nam, Nha thông tin tuyên truyền và một số địa phương đã họp tại Đại Từ- Thái Nguyên. Nội dung cuộc họp là thực hiện chỉ thị của Hồ Chủ Tịch chọn ngày kỷ niệm Thương binh Liệt sĩ và bảo vệ công tác thương binh liệt sĩ. Sau khi xem xét, Hội nghị đã nhất trí lấy ngày 27/7/1947 làm ngày Thương binh toàn quốc. Đây được coi là cuộc mít tinh quan trọng với 2000 người tham gia tại Thái Nguyên. Tại đây, Ban tổ chức đã trịnh trọng đọc thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã gửi tặng một chiếc áo lụa, một tháng lương và một bữa ăn của nhân viên trong Phủ Chủ tịch. Hàng năm vào dịp này, Người cũng đều có thư và quà để gửi đến các anh em thương binh và gia đình liệt sỹ. Từ tháng 7/1955, Ngày thương binh được đổi thành Ngày thương binh liệt sĩ để ghi nhận những hy sinh lớn lao của đồng bào, chiến sĩ cả nước cho chiến thẳng vẻ vang của toàn dân tộc. Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, theo chỉ thị 223/CT-TW ngày 8/7/1975 của Ban Bí thư Trung ương Đảng từ năm 1975, ngày 27/7 hàng năm chính thức trở thành "Ngày thương binh liệt sĩ" của cả nước.

          Ngày nay, Đảng và Nhà nước thông qua việc đề ra và thực hiện đầy đủ chính sách xã hội đối với thương binh, gia đình liệt sỹ và người có công với cách mạng tiếp tục đóng góp công sức vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực sự đã trở thành động lực vật chất, tinh thần giúp họ vươn lên, vượt qua khó khăn thử thách, làm chủ cuộc sống. Đảng, Nhà nước ta luôn chú trọng giáo dục ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ công dân và lòng biết ơn sâu sắc của các tầng lớp nhân dân, của các thế hệ đối với liệt sỹ, gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh và người có công với cách mạng. Sự cống hiến, hy sinh của họ cho độc lập, tự do của dân tộc, cho hạnh phúc của nhân dân là vô giá, không chỉ cho ngày hôm qua, hôm nay mà cho muôn đời con, cháu mai sau. Việc chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ và người có công là nghĩa vụ, trách nhiệm và niềm vinh dự của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội và của mọi người, của thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Làm tốt công tác đối với thương binh, liệt sỹ và Người có công với cách mạng thể hiện tính ưu việt và bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta, củng cố niềm tin của nhân dân ta vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm cơ sở cho giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa./.

 

  

Tăng cường củng cố niềm tin...

 Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục, làm chuyển biến mạnh mẽ nhận thức, trách nhiệm của nhân dân trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giáo dục bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú để giúp nhân dân nhận thức và hiểu rõ về vai trò, trách nhiệm công dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Đảng, chính quyền. Tăng cường trang bị cho nhân dân kiến thức, kỹ năng để nhận diện phương thức, phương tiện, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; kịp thời và chủ động thông tin, tuyên truyền về những vụ việc, vấn đề nhạy cảm, phức tạp, không để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá, xuyên tạc, qua đó củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ.

Trung tâm trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

 Quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”, là chủ thể, là trung tâm trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Nhân dân là chủ thể, là trung tâm của công cuộc đổi mới, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, do đó, mọi chủ trương, chính sách đều phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; khơi dậy được sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân trong đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch. Kiên trì thực hiện nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Thường xuyên tiếp xúc, đối thoại, lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để hiểu dân, kịp thời đáp ứng những nguyện vọng chính đáng của nhân dân, tránh để những bức xúc nổi cộm thành “điểm nóng”.

“thành lũy” kiên cố vững chắc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

 Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân là lực lượng đông đảo trong xã hội, nhưng nếu mỗi người đứng riêng rẽ thì sẽ không thể tạo thành sức mạnh, chỉ khi được giác ngộ, quy tụ trong một khối thống nhất mới tạo thành sức mạnh “muôn người như một”. Tuy nhiên, việc quy tụ, tập hợp và phát huy sức mạnh quần chúng nhân dân đòi hỏi phải có phương pháp, hình thức phù hợp, trong đó, Đảng phải là hạt nhân. Trên cơ sở kế thừa và tiếp nối truyền thống của cha ông về tinh thần “thân dân, trọng dân, yêu dân” và sức mạnh “chở thuyền”, “lật thuyền” của nhân dân; quán triệt sâu sắc tư tưởng “nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi nhân dân là “mạch nguồn” tạo nên sức mạnh nội sinh, quyết định sự hưng thịnh, suy vong của quốc gia – dân tộc; là “thành lũy” kiên cố vững chắc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Sức mạnh của quần chúng, vai trò của nhân dân

 Sức mạnh của quần chúng là yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của mọi cuộc cách mạng. Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin về vai trò của nhân dân trong lịch sử và tư tưởng “nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo phương pháp phát huy sức mạnh quần chúng vào công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn hiện nay, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.