Từ nhiều năm qua, các thế lực thù địch ráo riết thực hiện chiến lược
“diễn biến hoà bình” nhằm chống phá chủ nghĩa xã hội và phong trào cách mạng
thế giới. Đối với Việt Nam, những giọng điệu “diễn biến hoà bình” thường lớn
tiếng rêu rao chế độ một Đảng Cộng sản cầm quyền đang thủ tiêu dân chủ? Những
tác giả của luận điệu sai trái này cố tình làm ngơ trước các vấn đề đã được đúc
kết thành giáo khoa sơ đẳng về dân chủ, đồng thời trắng trợn vu khống Đảng, Nhà
nước và nhân dân Việt Nam.
Để làm rõ vấn
đề, trước hết cần xác định “dân chủ” đang nói ở đây là dân chủ nào, dân chủ của
ai và dân chủ cho ai?
Với tư cách là
hình thức chế độ chính trị của đất nước, dân chủ xuất hiện cùng với sự xuất
hiện của nhà nước. Trong thiết chế dân chủ, quyền của công dân, tính tối cao
của pháp luật được thừa nhận; những cơ quan quyền lực nhà nước đều do bầu cử mà
ra. Dân chủ được thực hiện thông qua hai hình thức cơ bản: dân chủ đại diện và
dân chủ trực tiếp. Mặt khác, dân chủ gắn liền với hình thức tổ chức nhà nước,
nên không bao giờ có một thứ dân chủ "thuần tuý”, mà dân chủ bao giờ cũng
mang bản chất giai cấp sâu sắc.
V.I.Lênin tổng
kết: "... đảng thống trị của chế độ dân chủ tư sản chỉ cho một đảng tư sản
khác được quyền bảo hộ thiểu số; còn đối với giai cấp vô sản, thì trong mọi vấn
đề trọng đại, sâu sắc, cơ bản thay cho "quyền bảo hộ thiểu số"
thì có luật giới nghiêm hay những cuộc tàn sát. Chế độ dân chủ càng phát
triển, thì trong trường hợp có sự chia rẽ về chính trị sâu sắc và nguy hiểm cho
giai cấp tư sản, nó càng tiến gần đến tàn sát hay nội chiến". Qua thể
chế bầu cử ở các nước tư bản phương Tây, chúng ta cũng thấy rất rõ rằng, tiền
bạc ngày càng trở thành yếu tố quyết định trong đời sống chính trị và làm hoen
ố nền dân chủ của nó. Từ trước đến nay, cả pháp luật và văn hóa tư sản hầu hết
đều bảo vệ và đề cao người giàu. Người giàu được coi là những phần tử ưu tú,
còn người nghèo bị khinh rẻ, bị coi là gánh nặng, là nguồn gốc của những tệ nạn
xã hội và tội phạm. Pháp luật Mỹ quy định người ứng cử vào các cơ quan quyền
lực phải có một lượng tài sản lớn làm vật bảo đảm. Ngoài ra, các ứng cử viên
còn phải có tiền để tiến hành các chiến dịch vận động tranh cử hết sức tốn kém.
Do đó, trên thực tế, chỉ có những triệu phú, tỷ phú mới có cơ hội tham gia bộ
máy chính quyền. Cái gọi là "nền dân chủ Mỹ" chỉ là nền dân chủ của
nhà giàu. Tờ Thời báo tài chính (Anh) ngày 25-11-2000 viết: "Cuộc
bầu cử năm 2000 đã cho thấy rõ nền dân chủ Mỹ có thể bán cho những người trả
giá cao nhất". Có thể gọi đấy là nền dân chủ đấu giá. Tờ Thế
giới (Tây Ban Nha) cùng ngày đã ví thói mê tiền như là "căn bệnh ung
thư của nền dân chủ Mỹ". Gần đây nhất, cuộc tranh cử Tổng thống Mỹ giữa
Tổng thống đương nhiệm Donald Trump và Joe Biden đã cho thấy sự mất dân chủ và
thậm chí là không minh bạch. Điều đó cho thấy, một chính quyền được tạo lập bởi
đồng tiền, thì tất yếu phải hướng đến phục vụ những kẻ nhiều tiền, chứ không
thể là một "chính quyền của tất cả mọi người" mà các lý luận gia của
họ rêu rao. Sự dối trá của nền dân chủ tư sản đã bị chính cử tri của họ lột
trần bằng hành động tẩy chay các cuộc bầu cử ngày càng gia tăng.
Như vậy, dân chủ
hay không dân chủ không phụ thuộc vào số lượng các đảng chính trị, vào việc có
áp dụng hay không áp dụng chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Trong
thực tế, nhà nước nói riêng và xã hội nói chung đều phải do một đảng lãnh đạo.
Có hay không có dân chủ, dân chủ được thực hiện ở trình độ cao hay thấp, tất cả
phụ thuộc vào bản chất của đảng cầm quyền, chứ không phụ thuộc vào số lượng
nhiều hay ít các đảng phái chính trị.
Trong các nước
xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản là tổ chức thực hiện sự thống trị của giai cấp
vô sản, cho nên sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản đối với hệ thống chính
trị là điều đương nhiên. Điều đó được thể hiện ở đường lối, chính sách của Đảng
về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội sẽ được thể chế hoá trong toàn bộ hiến
pháp và pháp luật. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nguyên tắc cơ bản
trong tổ chức và phát triển của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Ở Việt Nam, thực
hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là bản chất,
quy luật hình thành, phát triển và tự hoàn thiện của Nhà nước Việt Nam xã hội
chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Từ khi ra đời đến nay, Đảng là nhân tố bảo
đảm mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đó không phải lấy ý chí chủ quan về
chính trị mà là một tất yếu khách quan của lịch sử, mọi mưu toan hạ thấp vai
trò của Đảng Cộng sản là trái với yêu cầu khách quan của quá trình phát triển
đất nước và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Việc thực hiện dân chủ ở Việt
Nam không có sự cần thiết khách quan cho việc hình thành chế độ đa đảng đối
lập, đa nguyên chính trị.
Trên thực tế,
Đảng Cộng sản Việt Nam là người đại diện chân chính nhất cho lợi ích và nguyện
vọng của nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống, quyền tự do,
dân chủ và hạnh phúc. Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập, tổ chức và lãnh đạo
Đảng ta cũng là người sáng lập và lãnh đạo Nhà nước ta trong nhiều năm, đã
khẳng định: "Ngoài lợi ích của Tổ quốc và nhân dân, Đảng ta không có lợi
ích nào khác". Chính lịch sử của Đảng và cuộc đời hoạt động cách mạng của
Hồ Chí Minh gắn liền với lịch sử của cuộc đấu tranh cho việc thực hiện một chế
độ dân chủ và nhân đạo của nhân dân. Ở Việt Nam cũng đã có lúc có nhiều đảng,
nhưng những đảng khác đã không vượt qua được những thử thách gay gắt của cuộc
đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân chủ, sứ mệnh lịch sử của dân tộc ta chỉ do
Đảng Cộng sản Việt Nam gánh vác. Những lần vượt qua khó khăn, thách thức đã thể
hiện bản lĩnh vững vàng và trách nhiệm lớn lao của Đảng đối với vận mệnh của
dân tộc và cuộc sống, quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Lịch sử cũng đã chứng
minh rằng ngoài Đảng Cộng sản, không một đảng phái hoặc một lực lượng chính trị
nào có thể đưa ra được cương lĩnh, đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt Nam,
có thể đồng thời giải quyết hai mục tiêu dân tộc và dân chủ, độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.
Ngay sau khi
Cách mạng Tháng Tám thành công, Đảng đã tuyên bố thành lập Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà (nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam), tiến hành
tổng tuyển cử và xây dựng Hiến pháp để thể chế hoá quyền lực của nhân dân lao
động. Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền nhằm khẳng định nguồn gốc của
chính quyền nhà nước là ở nhân dân, đề cao tính hợp hiến, hợp pháp trong tổ
chức và hoạt động của mình và bản thân Đảng cũng tồn tại và hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đảng Cộng sản Việt Nam còn khẳng định dân chủ
là quy luật hình thành và tự hoàn thiện của cả hệ thống chính trị xã hội chủ
nghĩa: "Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực chất của việc
đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị. Đây vừa là mục tiêu vừa là động lực
của công cuộc đổi mới".
Đảng Cộng sản
Việt Nam tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Một trong
những đặc trưng cơ bản của Đảng vô sản kiểu mới là thừa nhận và thực hiện triệt
để nguyên tắc tập trung dân chủ trong toàn bộ hoạt động của mình. Trung thành
với các nguyên lý xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác-Lênin, từ khi được thành lập
đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ
trong xây dựng, củng cố về tư tưởng, chính trị và tổ chức, phù hợp với từng
giai đoạn cách mạng.
Dù diễn đạt tập
trung dân chủ hay dân chủ tập trung thì đây là một nguyên tắc hoàn chỉnh và hai
khái niệm đó thống nhất với nhau cả về bản chất và nội dung. Ý nghĩa của nó,
như V.I.Lênin viết: "... chế độ tập trung, hiểu theo nghĩa thực sự dân
chủ, đã bao hàm khả năng - khả năng này do lịch sử tạo ra lần đầu tiên- phát
huy một cách đầy đủ và tự do không những các đặc điểm của địa phương mà cả
những sáng kiến của địa phương, tính chủ động của địa phương, tính chất muôn
hình muôn vẻ của các đường lối, của các phương pháp và phương tiện để đạt mục
đích chung". Trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu
ý: Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau và
Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách là dân chủ tập trung.
Trong khi khẳng
định mạnh mẽ và kiên định chế độ dân chủ do một Đảng Cộng sản cầm quyền, Đảng
ta không bao giờ quên lời di huấn của V.I. Lênin về các nguy cơ của một đảng
cầm quyền, trong đó, sâu xa nhất là nguy cơ mất dân chủ, vi phạm quyền làm chủ
chân chính của nhân dân. Thái độ tôn trọng dân chủ và năng lực thực hành dân
chủ trở thành một trong những tiêu chuẩn thiết yếu trong hoạt động của Đảng.
Trong công tác lãnh đạo và vận động quần chúng, Đảng Cộng sản cầm quyền phải
đặc biệt chú trọng giáo dục và rèn luyện cán bộ, đảng viên về văn hoá dân chủ.
Đây là vấn đề cốt lõi trong văn hoá chính trị của Đảng. Trình độ văn hoá dân
chủ và văn hoá chính trị là một trong những thước đo về trình độ trưởng thành
và bản lĩnh văn hoá của Đảng Cộng sản lãnh đạo và cầm quyền.
Tư tưởng Hồ Chí
Minh, đặc biệt là tư tưởng của Người về dân chủ là tài sản vô giá mà Đảng ta -
vào lúc này - cần đặc biệt chú trọng, khai thác. Theo Hồ Chí Minh, có phát huy
dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách
mạng tiến lên, thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng để giải quyết mọi
khó khăn. Giác ngộ và thực hiện dân chủ, xét trong chiều sâu văn hoá của nó,
lại là vấn đề tự do trong nhận thức quy luật và hành động đúng quy luật, thuận
theo chân lý và đạo lý. Chỉ dẫn sâu sắc của Hồ Chí Minh về điều này đáng để cho
mỗi chúng ta suy ngẫm và vận dụng. Người giải thích rằng: "Chế độ ta là
chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề,
mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một
quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý
kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do
phục tùng chân lý”. Trong nền chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa mà chúng
ta đang xây dựng, sự lãnh đạo của Đảng bằng phương thức dân chủ là nội dung cốt
lõi.
Nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa là nền dân chủ cho toàn thể quần chúng lao động, do đó, nó không
chấp nhận sự chia rẽ xã hội, không thể tạo ra những lực lượng đối lập, đối
kháng trong xã hội, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng và chính trị. Nhân danh các
chiêu bài "dân chủ”, "nhân quyền", "đa nguyên, đa
đảng" để kích động, gây chia rẽ, hận thù chỉ là thủ đoạn phục vụ mưu đồ
chống nhân dân và dân tộc, làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa của các lực lượng
thù địch muốn xoá bỏ Đảng Cộng sản và chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa, trong điều
kiện kinh tế- xã hội còn kém phát triển, dân trí còn thấp, các thiết chế còn
chưa hoàn thiện,...của Việt Nam hiện nay, nếu không có sự lãnh đạo tập trung của
Đảng Cộng sản thì dân chủ sẽ rất dễ bị vi phạm.
Với mục tiêu
phát huy đầy đủ quyền và năng lực làm chủ của nhân dân trong công cuộc xây dựng
xã hội xã hội chủ nghĩa, kiến tạo nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ưu việt hơn các
chế độ dân chủ đã có trong lịch sử, Đảng Cộng sản cầm quyền - trong điều kiện
chỉ có duy nhất một đảng Cộng sản hay có nhiều đảng, nhưng Đảng Cộng sản vẫn
là lực lượng duy nhất lãnh đạo - vừa thông qua bộ máy nhà nước của dân, do
dân, vì dân, vừa phải phát huy cao độ vai trò của Mặt trận với tính cách là cơ
sở chính trị của chính quyền nhân dân, là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn,
tham gia đắc lực vào việc xây dựng, tuyên truyền và vận động nhân dân thực hiện
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng,
thực hiện sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động, đạo đức, lối sống của cán
bộ, đảng viên, công chức nhà nước và các cơ quan nhà nước. Dân chủ, tập trung
dân chủ trong Đảng gắn chặt với dân chủ, tập trung dân chủ trong tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước ; dân chủ, nguyên tắc tập trung dân chủ trong
Đảng phải gắn với dân chủ, nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong hệ thống Mặt
trận.
Nếu tiến hành
tốt nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của mình, Mặt
trận không chỉ làm tốt vai trò tuyên truyền, vận động sâu rộng các tầng lớp
nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng, mà còn là lực lượng phản
biện xã hội góp phần đắc lực khắc phục nguy cơ quan liêu, chủ quan trong
việc hình thành đường lối, chủ trương của các cấp bộ đảng. Với tính cách là
phương thức tối cần thiết để phát huy rộng rãi trí tuệ, tinh thần xây dựng và
tính chiến đấu của toàn thể đội ngũ đảng viên, dân chủ trong Đảng phải là kiểu
mẫu, là lực đẩy dân chủ trong xã hội. Rất nhiều ý kiến đóng góp của nhân dân thông
qua kênh Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã được đưa vào văn kiện chính thức của
Đảng. Một sự khảo nghiệm, phản biện và đóng góp trí tuệ rộng rãi, cầu thị và
dân chủ như vậy đã được Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành. Điều tương tự chưa
từng diễn ra ở bất cứ nơi nào khác. Các đảng tư sản và thiết chế dân chủ tư
sản, trong lịch sử hàng trăm năm của mình, càng chưa bao giờ làm được như vậy.
Tất nhiên, khi
khẳng định các thành tựu dân chủ mà Việt Nam đạt được, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, chúng ta cũng phải nhìn nhận ra những nguy cơ và hạn chế, yếu
kém đã từng mắc phải. Nhà nước tư sản và nhà nước vô sản, tuy bản chất khác
nhau về cơ bản, song, đều mang trong mình khả năng bị quan liêu hoá và mất dân
chủ ở mức độ này hay mức độ khác. Những nguy cơ làm thoái hoá Đảng cầm quyền
luôn luôn được đặt ra trong bất cứ chế độ chính trị nào. Sự khủng hoảng triền
miên của các đảng chính trị phương Tây đang là một thực tế, khi mà ngay các
chính đảng đó bị lũng đoạn bởi một nhóm nhỏ dần dần trở thành một cơ thể riêng,
có những mục đích và quyền lợi riêng và tách dần ra khỏi giai cấp, hình thành
các nhóm tài phiệt. Và, trong thời đại ngày nay, đảng nào chỉ đại diện hạn hẹp
cho lợi ích của thiểu số giàu có, thì dù có thích ứng đến đâu cũng khó tồn tại
bền vững được.
Rõ ràng, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã vượt qua những thử thách của lịch sử, gắn bó máu thịt với
nhân dân, luôn luôn biết tự đổi mới, chứ không phải một lực lượng nào khác có
thể đề ra đường lối đáp ứng yêu cầu lịch sử, nguyện vọng và lợi ích của nhân
dân, phù hợp với quy luật khách quan của sự phát triển trong xã hội ngày nay.
Một đảng như thế đủ sức đảm đương vai trò là lãnh tụ chính trị của xã hội, của
dân chủ mà không cần có một lực lượng đối lập nào.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét