Thứ Năm, 1 tháng 8, 2024

“NẾU LÀ NGƯỜI HÃY LÀ NGƯỜI CỘNG SẢN”


Tôi vinh dự được tham gia đưa tin sự kiện Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhận Huy hiệu 55 năm tuổi Đảng (ngày 2-2-2023).
Tôi vẫn còn nhớ như tạc vào gan dạ những lời đầy tâm huyết, xúc động của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại buổi lễ: “Tôi xin nguyện suốt đời phấn đấu, hy sinh, tuyệt đối trung thành với lý tưởng, sự nghiệp cách mạng của Đảng, ra sức tu dưỡng, rèn luyện; cố gắng học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh để xứng đáng là một đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam, như lời của một bài hát: "Nếu là hoa hãy là hoa hướng dương; nếu là chim hãy là chim câu trắng; nếu là đá hãy là đá kim cương; nếu là người hãy là người cộng sản!"...
Cả hội trường im lặng và tôi quan sát có nhiều đồng chí rơm rớm nước mắt khi nghe Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng xúc động phát biểu.
“Nếu là người hãy là người cộng sản!”. Mong muốn ấy của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng như muốn gửi gắm đến toàn thể cán bộ, đảng viên, hãy là một người cộng sản trung với nước, hiếu với dân; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư...
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chính là một tấm gương sáng để cán bộ, đảng viên noi theo. Cả cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân; trong mọi hoàn cảnh luôn tỏ rõ bản lĩnh, trí tuệ của người cộng sản kiên cường; kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; giữ gìn, nêu cao và lan tỏa phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, tính tiền phong, gương mẫu, không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện.
Với tinh thần “tiền hô hậu ủng, nhất hô bá ứng, trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng tập thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua khó khăn, thách thức, làm cho cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước ngày càng cao, càng bền vững.
Đặc biệt, trên cương vị là Trưởng ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, với quyết tâm chính trị rất cao, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ đạo quyết liệt, kiên trì, đồng bộ, toàn diện, bài bản, đi vào chiều sâu, có bước đột phá. Nhờ vậy, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước ta những năm qua đạt được nhiều kết quả rất quan trọng, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị, tăng thêm niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta.
Vĩnh biệt Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng-Người chiến sĩ cộng sản kiên trung của Đảng! Chúng ta nguyện học tập ở đồng chí đức tính “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”; tác phong sâu sát cơ sở, gần gũi với đồng bào, đồng chí; tinh thần trách nhiệm cao, thái độ nghiêm túc, phương pháp làm việc khoa học, quyết đoán, giữ vững nguyên tắc, phát huy dân chủ, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong mọi công việc; không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, học tập trở thành người cộng sản kiên trung, trong sáng, theo tấm gương của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng./.
Tác giả: Duy Thành
Nguồn: Báo Quân đội nhân dân
Có thể là hình ảnh về 6 người và văn bản
Tất cả cảm xúc:
2

SUY NGẪM!

 

- Người nghèo nói: Có tiền là hạnh phúc
- Người tàn tật nói : Đi được là hạnh phúc
- Người mù nói : Nhìn được là hạnh phúc
- Người điếc nói : Nghe được là hạnh phúc
- Người bệnh nói : Mạnh khỏe là hạnh phúc
- Người chưa chồng nói: Có chồng sẽ hạnh phúc
- Người chưa vợ nói: Có vợ sẽ hạnh phúc
- Người chưa có con nói : Có con sẽ hạnh phúc
- Người lo lắng sợ hãi nói: Bình an là hạnh phúc
- Người xấu nghĩ mình xinh sẽ hạnh phúc
- Người lùn nghĩ mình cao sẽ hạnh phúc
- Dân đen nói : Làm quan sẽ hạnh phúc
- Người đang rất đói nói: Được bữa cơm là hạnh phúc
- Người đang buồn ngủ nói: Nếu được ngủ một giấc sẽ hạnh phúc
- Người không có quần áo đẹp nói: Nếu có bộ quần áo đẹp sẽ hạnh phúc
- Người không có xe nói: Có xe để đi sẽ hạnh phúc
- Người không có điện thoại nói: Nếu có chiếc điện thoại sẽ hạnh phúc...
Thực ra con người họ thấy thiếu cái gì thì họ nghĩ rằng có nó sẽ hạnh phúc. Nhưng khi có rồi họ lại muốn cái khác và nhiều hơn nữa. Thành ra mãi mãi không bao giờ họ thấy hạnh phúc vì ham muốn là vô cùng. Vậy thì bạn làm sao đủ sức để thỏa mãn ham muốn đây!
“BIẾT ĐỦ” và hài lòng với những gì mình có chính là hạnh phúc.
Hay nói cách khác, hạnh phúc không phải là có tất cả những gì bạn muốn, mà là trân trọng những gì bạn đang có.

NGOẠI GIAO CÂY TRE

 

Tờ The Washington Post Sunday số ra hôm 21/07/2024 vừa rồi có bài viết về ông Nguyễn Phú Trọng, trong đó có đoạn như sau:
“On the world stage, Mr. Trong was seen as an artful practitioner of Vietnam’s “bamboo diplomacy” — called so for bending in different directions — as the country navigated ties with its most important economic partners, China and the United States, while also building bonds with nations such as India and Russia.
His hold within Vietnam was less finessed. His anti-corruption drive attempted to burnish public trust in the Communist Party and its stewardship of Vietnam’s economy, one of the most dynamic in the region, with sectors that include a growing start-up culture.”
“Trên trường quốc tế, ông Trọng được coi là một nhà ngoại giao điệu nghệ với đường lối "ngoại giao cây tre" của Việt Nam - được gọi như vậy vì sự linh hoạt đa phương - khi đất nước này điều hướng mối quan hệ chặt chẽ với các đối tác kinh tế quan trọng nhất của mình, Trung Quốc và Hoa Kỳ, đồng thời xây dựng tình hữu hảo với các quốc gia như Ấn Độ và Nga.
Chính sách đối nội của ông ở Việt Nam lại ít mềm mại hơn ngoại giao. Chiến dịch chống tham nhũng của ông nhằm cố gắng củng cố niềm tin của công chúng vào Đảng Cộng sản và sự lãnh đạo của Đảng đối với nền kinh tế Việt Nam, một trong những nền kinh tế năng động nhất trong khu vực, với nhiều lĩnh vực mà trong đó bao gồm cả một văn hoá khởi nghiệp.”
***
Nhắc đến ngoại giao của Việt Nam, những năm gần đây chúng ta quá quen với thuật ngữ “ngoại giao cây tre”. Và không ít kẻ lấy cái tính chất mềm dẻo của cây tre ấy ra để giễu nhại, theo kiểu ám chỉ sự ba phải, không chính kiến vân vân và vân vân… Những kẻ ấy, may thay cho quốc gia, ngoài chém gió, chửi đểu, không được nhận bất kỳ trọng trách nào bởi nếu điều đó xảy ra, chúng có thể đưa cả nước vào biển lửa.
Hãy tưởng tượng thế này, nếu bạn mở một công ty truyền thông quảng cáo, chuyên chạy các chiến dịch cho những nhãn hàng và bạn có khách hàng quen thuộc (thậm chí thân thiết) là Pepsi chẳng hạn, thì Coca có sẵn lòng làm việc với bạn không?
Câu trả lời rất nhiều khả năng là KHÔNG.
Để là một công ty truyền thông quảng cáo có thể hợp tác với các đối thủ cạnh tranh lẫn nhau, công ty đó phải là xuất sắc nhất ở tầm vóc toàn cầu, công ty đó phải là nơi nhãn hàng tìm đến vì nhận thấy có thể nhận được lợi ích chứ không phải chỉ là loại “có kinh nghiệm, có tiềm lực, có sáng tạo” nhưng thực tế thì dễ lẫn vào đám đông cả ngàn công ty khác cùng nghề truyền thông quảng cáo.
Các quốc gia lớn như Mỹ, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ… đều có những lãnh đạo lọc lõi, khôn ngoan và đủ già dặn để biết cách “chơi” của một đối tác khác với mình là như thế nào. Họ biết Việt Nam chọn làm cây tre mà họ vẫn chơi, điều đó cho thấy Việt Nam phải có cái gì đó thu hút họ đúng nghĩa. Làm cây tre không hề dễ, nhất là khi đối tác nhận biết luôn thái độ điều hướng uyển chuyển của mình.
Chỉ nói riêng Mỹ thôi, họ đẻ ra Project 88 chuyên để soi Việt Nam xoay quanh chuyện nhân quyền, nhằm dùng cái đó mà ép Việt Nam suốt năm này qua năm kia. Trong tình thế ấy, để thực hiện được ngoại giao cây tre, phải thừa nhận là quá tài.
Việt Nam là nước nhỏ mà có thể chơi được với tất cả các nước lớn và nhận được sự tôn trọng trong thế không phải quỳ gối như một chư hầu, đó chính là điều chúng ta nên suy nghĩ kỹ trước khi có nhận xét này nọ. Chúng ta có bạn bè cá nhân. Đối đãi với bạn bè cá nhân đã cực khó. Đằng này, điều hành một quốc gia và tìm ra phương cách ứng biến với các quốc gia lớn lúc nào cũng nhăm nhe chỉ muốn biến mình thành chư hầu trong tình hình thế giới phân cực rõ rệt lại còn khó hơn triệu lần.
Bởi thế, phải thừa nhận, ngoại giao cây tre là một chính sách đã được thực thi một cách phi thường. Không phi thường thì báo chí của phe Project 88 như kể trên không ghi nhận bằng những lời như vậy đâu.
Làm tre thật ra không dễ.

Chủ thể quyền lực xã hội là nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.

 


Toàn bộ các hoạt động của đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa và các tổ chức chính trị - xã hội đều hướng đến vấn đề trung tâm là bảo đảm quyền và lợi ích của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. Hệ thống các quyền, lợi ích thụ hưởng của nhân dân được bảo đảm bằng pháp luật, cơ chế, chính sách, quy chế, quy định của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Các tổ chức chính trị - xã hội tập hợp, lôi cuốn nhân dân lao động tham gia vào việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội là biểu hiện đầy đủ nhất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Ý chí, quyền lực của nhà nước và mục đích hoạt động của các cơ quan đại diện các giai cấp, tầng lớp xã hội là ý chí, nguyện vọng của nhân dân, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân; đồng thời tạo điều kiện, cơ hội để người dân cống hiến và phát triển toàn diện theo mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Nước ta là nước dân chủ, mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Dân là chủ và dân làm chủ[1]. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi) năm 2013 quy định: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”[2].



[1] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 6, “Dân vận” (1949), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr 232.

[2] Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp (sửa đổi năm 2013), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013, tr.1.

GIỮ VỮNG QUAN ĐIỂM KHÁCH QUAN, TOÀN DIỆN, LỊCH SỬ CỤ THỂ VÀ PHÁT TRIỂN TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY


Mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua đều bắt nguồn từ việc Đảng ta luôn kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng.
Đó là sự kiên định và sáng tạo trên cơ sở tính khoa học, tính cách mạng, tính nhân văn, phù hợp với điều kiện của Việt Nam và thời đại. Đặc biệt, Đảng, Nhà nước ta luôn vận dụng nhuần nhuyễn, sáng tạo quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể của Chủ nghĩa Mác-Lênin trong thực tiễn, góp phần xây dựng cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của đất nước như ngày nay.
Một công cụ sắc bén để phân tích các vấn đề xã hội
Quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển là một công cụ sắc bén để phân tích các vấn đề xã hội và tìm ra những giải pháp thích hợp cho từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó cũng là công cụ nhận thức quan trọng để Đảng ta kiên định, vận dụng sáng tạo và phát triển trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử.
Quan điểm khách quan yêu cầu trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải phản ánh trung thực sự vật, hiện tượng với tất cả bản chất, những mối quan hệ vốn có của nó; nắm vững và tôn trọng những quy luật khách quan của hiện thực; đồng thời, không rơi vào chủ quan duy ý chí; không được lấy ý chí chủ quan, ý muốn chủ quan, nguyện vọng, tình cảm cá nhân để áp đặt cho thực tế.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi phải xem xét toàn diện các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng và mối liên hệ giữa các yếu tố, bộ phận cấu thành và những mắt khâu trung gian, gián tiếp của chúng; cả hiện tại, quá khứ và xu hướng phát triển trong tương lai; phải đồng bộ, không cục bộ, phiến diện. Song trong mối liên hệ cụ thể, từng giai đoạn phải nắm đúng trọng tâm, then chốt, phù hợp với nhu cầu thực tiễn, tránh dàn trải, không viển vông, ảo tưởng. Trong quá trình xem xét toàn bộ mối liên hệ, bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng, phải dự báo được khả năng vận động, phát triển; chống mọi biểu hiện trì trệ, bảo thủ.
Quan điểm lịch sử, cụ thể chỉ rõ trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải xem xét đúng các quá trình, các giai đoạn phát triển của các sự vật, hiện tượng; nhận thức được những thuộc tính, những mối liên hệ tất yếu, bản chất vốn có của sự vật, hiện tượng trong các hoàn cảnh, điều kiện cụ thể. Chỉ ra được mối liên hệ, quy luật khách quan; vị trí, vai trò của từng mối liên hệ quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Đồng thời, cần phải đấu tranh chống mọi biểu hiện xa rời thực tiễn với những điều kiện, hoàn cảnh riêng.
Quan điểm phát triển đòi hỏi phải nắm được khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng; phải khái quát và làm sáng rõ được xu hướng vận động, phát triển chủ đạo trong cả tự nhiên, xã hội và mỗi con người. Sự phát triển là quá trình biện chứng, có tính chất quanh co, phức tạp, thậm chí có những bước tụt lùi tạm thời, nhưng tất yếu cái mới sẽ ra đời. Do đó, cần phải có niềm tin vào sự tất thắng của cái mới, đấu tranh, loại bỏ mọi lực cản ảnh hưởng sự phát triển của tự nhiên, xã hội và mỗi con người.
Giữ vững quan điểm trong lãnh đạo, quản lý
Giữ vững quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là trong gần 40 năm đổi mới đất nước, Đảng ta luôn kiên định: Đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đảng đề ra chiến lược phát triển tổng thể là: Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế-xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.
Đảng ta luôn vận dụng sáng tạo bài học tôn trọng thực tiễn khách quan, quán triệt sâu sắc nguyên tắc kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, giữa kiên định và đổi mới, giữa kế thừa và phát triển để đưa ra những quyết sách sáng suốt, đúng đắn, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, có hiệu quả công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển trong giai đoạn mới; quyết tâm khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; thể hiện tầm nhìn và định hướng phát triển đất nước với những bước đi, lộ trình cụ thể đến năm 2025, 2030 và 2045, để phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Đặc biệt, trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng, với phương châm “Tiền hô hậu ủng”, “Nhất hô bá ứng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông suốt”, Đảng, Nhà nước đã quán triệt sâu sắc, lãnh đạo, chỉ đạo, nắm vững và xử lý tốt 4 kiên định, 12 định hướng, 10 mối quan hệ, 3 đột phá chiến lược, 6 nhiệm vụ trọng tâm; phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; hình thành đồng bộ thể chế phát triển nhanh và bền vững đất nước dựa trên các trụ cột: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và nền dân chủ XHCN Việt Nam.
Cùng với lãnh đạo phát triển tổng thể các mặt, các lĩnh vực trong tính chỉnh thể, Đảng ta còn đánh giá vị trí, vai trò của từng lĩnh vực, yếu tố làm cơ sở để xác định, xây dựng từng bước đi, lộ trình và giải pháp phù hợp với điều kiện đất nước và xu thế phát triển của thời đại. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững đất nước, hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thúc đẩy c.h.u.y.ể.n đ.ổ i s.ố, tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, chú trọng phát triển những ngành, lĩnh vực là thế mạnh của đất nước và của từng vùng, ngành, địa phương.
Thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và năng lực nội sinh của nền kinh tế. Tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế, chính sách; khơi thông các nguồn lực cho phát triển. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án chiến lược trọng điểm, quan trọng quốc gia; chú trọng đầu tư phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, tập trung cho vùng “lõi nghèo”, đặc biệt khó khăn, tránh dàn trải, lãng phí.
Phát triển con người toàn diện, con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của phát triển. Phát huy dân chủ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân; thực hiện quan điểm “dân là gốc”, “dân là trung tâm” và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Tạo môi trường sống an toàn, thân thiện, lành mạnh để phát triển trẻ em toàn diện, thực hiện tốt công tác người cao tuổi, thanh niên, bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ. Tập trung cải thiện đời sống của đồng bào dân tộc, người dân vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, vùng khó khăn.
Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa-xã hội, phát triển văn hóa-xã hội ngang tầm với phát triển kinh tế. Phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc với tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế. Thực hiện hiệu quả Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục-đào tạo và nâng cao hơn nữa vai trò của khoa học-công nghệ, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, gắn với nền kinh tế tri thức, kinh tế số, đô thị thông minh.
Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh, gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Thực hiện tốt các chính sách khuyến khích và bảo vệ cán bộ “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”. Nâng cao hiệu quả công tác dân vận, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức chính trị-xã hội, doanh nghiệp và người dân, góp phần tạo đồng thuận xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Chủ động, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại; giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Củng cố, tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc; xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong mọi tình huống. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, chất lượng ngày càng cao; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh và rộng khắp, coi trọng lực lượng dân quân tự vệ biển và dân quân tự vệ ở các địa phương trọng điểm.
Tích cực phòng ngừa, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và các loại tội phạm; giữ vững thế chủ động chiến lược, bảo đảm an ninh, trật tự, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống, không để hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nước. Chủ động đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”, âm mưu “phi chính trị hóa” LLVT; phòng ngừa, ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; bảo đảm an ninh kinh tế, an ninh thông tin, truyền thông, an ninh mạng và an ninh xã hội. Tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh; chủ động phối hợp với các quốc gia bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc; xử lý các vấn đề an ninh phi truyền thống, có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến.
Vận dụng đúng đắn, linh hoạt quan điểm đối tác, đối tượng; triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi trong quan hệ quốc tế. Kiên trì thực hiện chính sách cân bằng trong quan hệ với các nước lớn; coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng; đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và đối tác quan trọng khác, tạo lợi ích thực chất giữa Việt Nam và các nước; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và tạo điều kiện thuận lợi, thu hút các nguồn lực để phục vụ phát triển đất nước, củng cố và nâng cao uy tín, vị thế quốc tế của Việt Nam./. #NB

Quyền lợi và nghĩa vụ, quyền hạn và trách nhiệm, cống hiến và hưởng thụ gắn bó chặt chẽ với nhau.

 


 Mọi công dân có quyền bình đẳng trong hưởng thụ các giá trị vật chất và tinh thần của xã hội, đồng thời có nghĩa vụ, có sự bình đẳng trong đóng góp sức mình vào việc tạo ra các giá trị đó; có quyền được hưởng cuộc sống hòa bình, an toàn và có trách nhiệm làm tròn nghĩa vụ công dân mà mình đảm nhiệm; có nghĩa vụ tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, lực lượng vũ trang nhân dân; có quyền tham gia quản lý nhà nước, xã hội, đồng thời cũng có trách nhiệm và nghĩa vụ bảo đảm cho sự quản lý đó được thực hiện một cách hiệu quả. Quyền công dân được đảm bảo bằng kinh tế, chính trị, bằng hệ thống tổ chức và pháp luật, trong đó đảm bảo bằng kinh tế là quan trọng nhất. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, chế độ công hữu về tư liệu sản xuất quy định mục đích của các tổ chức, các hình thức hoạt động của các bộ phận trong kiến trúc thượng tầng, nhằm bảo đảm quyền tự do, bình đẳng của nhân dân dân lao động.

Dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng mở rộng, hoàn thiện và tiến tới tự tiêu vong.


Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một bước tiến lịch sử so với chuyên chế phong kiến, chế độ quân chủ và nền dân chủ tư sản. Con đường mở rộng dân chủ là sự phủ định biện chứng chế độ dân chủ tư sản; kế thừa và phát triển giá trị truyền thống văn hóa dân chủ của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại. Những nhân tố về quản lý nhà nước trong lịch sử được đúc rút, phát huy và bổ sung bằng các nhân tố mới, bằng thành quả đấu tranh, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đó là nền dân chủ mà: “trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và cá nhân, mới bắt đầu có một sự tiến lên mau chóng, thật sự, thực sự có tính chất quần chúng, lúc đầu được đa số dân cư tham gia, rồi về sau được toàn thể dân cư tham gia”[1]. Mở rộng dân chủ với nhân dân gắn liền với hoàn thiện nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nó ngày càng được hoàn thiện trong quá trình đất nước tiến dần lên chủ nghĩa cộng sản. Nhưng càng hoàn thiện bao nhiêu, nó càng tự tiêu vong bấy nhiêu. Như V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới có thể đưa lại một chế độ dân chủ thật sự hoàn bị, và nó càng hoàn bị bao nhiêu thì lại càng mau trở nên thừa và tự tiêu vong bấy nhiêu”[2].

Thực chất của sự tiêu vong này theo V.I.Lênin, đó là tính chính trị của dân chủ sẽ mất đi trên cơ sở không ngừng mở rộng dân chủ đối với nhân dân, xác lập địa vị chủ thể quyền lực của nhân dân, tạo điều kiện để họ tham gia ngày càng đông đảo và ngày càng có ý nghĩa quyết định vào sự quản lý nhà nước, quản lý xã hội (xã hội tự quản). Quá trình đó làm cho dân chủ trở thành một thói quen, một tập quán trong sinh hoạt xã hội... để đến lúc nó không còn tồn tại như một thể chế nhà nước, một chế độ, tức là mất đi tính chính trị của nó. Xã hội lúc đó, là một xã hội: “Sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Đó là quá trình phát triển lâu dài từ “vương quốc tất yếu” sang “vương quốc tự do”.



[1] V.I.Lênin toàn tập, Tập 33, “Nhà nước và cách mạng” (1918), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr.123.

[2] V.I.Lênin toàn tập, Tập 33, “Nhà nước và cách mạng” (1918), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr.110. 

Dân chủ đi đối với chuyên chính.

 


 Dân chủ gắn liền và được bảo đảm bằng pháp luật, kỷ luật, kỷ cương xã hội. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một chế độ mà quyền lực thuộc về nhân dân, không ngừng mở rộng quyền tự do dân chủ cho nhân dân, đồng thời chuyên chính với các loại kẻ thù của nhân dân. Dân chủ vô sản và chuyên chính vô sản là hai quá trình đồng thời, thống nhất và bổ sung cho nhau; trong đó, chuyên chính vô sản là “hòn đá thử vàng” phân biệt người mácxít và kẻ cơ hội. Đặc điểm của nền dân chủ mới được Hồ Chí Minh chỉ rõ là: “Dưới sự lãnh đạo của Đảng và giai cấp công nhân, nhân dân đánh đổ đế quốc và phong kiến. Trên nền tảng công nông liên minh, nhân dân lao động làm chủ nước nhà, xây dựng nhân dân dân chủ chuyên chính, nghĩa là dân chủ với nhân dân, chuyên chính (trừng trị) bọn phản động”[1].



[1] Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 8, “Thường thức chính trị” (1953), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.293.

Thứ Tư, 31 tháng 7, 2024

BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ - YẾU TỐ CĂN CỐT TRONG NHÂN CÁCH BỘ ĐỘI CỤ HỒ

 Bản lĩnh chính trị là yếu tố quan trọng góp phần làm nên nhân cách Bộ đội Cụ Hồ. Bản lĩnh chính trị đã góp phần tạo nên sức mạnh để Quân đội ta kiên cường vượt qua những khó khăn, thử thách, chấp nhận hy sinh, đúng như lúc sinh thời, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương đã khẳng định: “Càng trong khó khăn phức tạp, hình ảnh và phẩm chất cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ càng được giữ vững, phát huy và tỏa sáng”.

Yếu tố nền tảng làm nên phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ
Nghị quyết số 847-NQ/QUTW ngày 28/12/2021 của Quân ủy Trung ương đã khái quát 5 đặc trưng cơ bản của phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới; trong đó, bản lĩnh chính trị được đặt lên hàng đầu, là yếu tố cơ bản, căn cốt, bao trùm để bồi đắp, giữ vững và lan tỏa phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ.
Phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ là kết tinh những giá trị, chuẩn mực nhân cách người quân nhân cách mạng, được xây đắp từ truyền thống văn hóa dân tộc, quá trình giáo dục, rèn luyện của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự tin tưởng, giúp đỡ của nhân dân và từ những cống hiến, hy sinh của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ; được lưu giữ, kế thừa và phát triển qua thực tiễn chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta.
Bản lĩnh chính trị thể hiện ở mục tiêu lý tưởng chiến đấu của Quân đội và mỗi cán bộ, chiến sĩ; biểu hiện ở nhận thức chính trị, lập trường, quan điểm, thái độ chính trị; là ý chí và niềm tin vào giai cấp, chế độ và sức mạnh của dân tộc. Bản lĩnh chính trị của cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta trước hết thể hiện ở lời thề thứ nhất trong 10 lời thề danh dự của quân nhân: “Hy sinh tất cả vì Tổ quốc Việt Nam; dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phấn đấu thực hiện một nước Việt Nam hòa bình, độc lập và xã hội chủ nghĩa, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”.
Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục, mang bản chất của giai cấp công nhân, có tính dân tộc và tính nhân dân sâu sắc, giữ vững lý tưởng cách mạng, mục tiêu chiến đấu, bản lĩnh chính trị, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Bản lĩnh chính trị được các thế hệ cán bộ, chiến sĩ rèn luyện, củng cố và kiên định trong suốt 80 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội ta.
Bản lĩnh chính trị vững vàng giúp Quân đội ta luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng, giữ vững trận địa tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, lối sống trung thực, khiêm tốn, giản dị, lạc quan; luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc, của tập thể lên trên hết, trước hết. Bản lĩnh chính trị còn là ý chí, sức mạnh để mọi quân nhân luôn tích cực huấn luyện, học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ mọi mặt và kiến thức chuyên môn; rèn luyện phương pháp, tác phong công tác khoa học, nghiêm túc, trách nhiệm cao để nâng cao sức mạnh tổng hợp chiến đấu của Quân đội.
Tiếp tục giữ vững và phát huy bản lĩnh chính trị Bộ đội Cụ Hồ
Trải qua 80 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, Quân đội ta luôn tỏ rõ bản lĩnh của một đội quân cách mạng, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu; là lực lượng chính trị đặc biệt, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ đã nối tiếp lập nên những chiến công hiển hách, xây đắp nên truyền thống vẻ vang, xứng đáng với lời khen ngợi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Bản lĩnh chính trị là sức mạnh để Quân đội ta kiên cường vượt qua những khó khăn, thử thách, chấp nhận hy sinh, đúng như lúc sinh thời, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương đã khẳng định: “Càng trong khó khăn phức tạp, hình ảnh và phẩm chất cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ càng được giữ vững, phát huy và tỏa sáng”.
Xác định đúng và luôn kiên định với mục tiêu, lý tưởng chiến đấu đã làm nên sức mạnh phi thường để cán bộ, chiến sĩ Quân đội “quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, dù phải “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt/ Máu trộn bùn non” nhưng “Gan không núng/ Chí không mòn” để làm nên một Điện Biên Phủ chấn động địa cầu và “thiên sử vàng” của dân tộc. Cũng nhờ bản lĩnh chính trị, những người chiến sĩ “Vẫn đôi dép lội chiến trường/ Vẫn vành mũ lá coi thường hiểm nguy”, “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai”, họ luôn động viên, nhắc nhở nhau “nhằm thẳng quân thù mà bắn”.
Với những bước chân “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng phút, từng giờ, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng” để “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” làm nên Đại thắng mùa Xuân năm 1975 “mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ 20, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
Bản lĩnh chính trị trong nhân cách Bộ đội Cụ Hồ cũng là sức mạnh để cán bộ, chiến sĩ Quân đội luôn giữ vững lời thề “Sống bám đá đánh giặc/ Chết hóa đá bất tử”, “Không được lùi bước trước quân thù. Phải để máu của mình tô thắm lá cờ và truyền thống vinh quang”, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay, bản lĩnh chính trị càng đóng vai trò quan trọng để giữ vững và phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới. Các thế lực thù địch, phản động vẫn đẩy mạnh các hoạt động “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội càng đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ phải luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
Xây dựng bản lĩnh chính vững vàng cho mỗi cán bộ, chiến sĩ là yêu cầu đặc biệt quan trọng để xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh” và phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới. Mặt khác, trau dồi bản lĩnh chính trị cũng có ý nghĩa quyết định để xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội theo tinh thần “7 dám”: Dám nghĩ; dám nói; dám làm; dám chịu trách nhiệm; dám đổi mới, sáng tạo; dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung.
Để cán bộ, chiến sĩ luôn kiên định bản lĩnh chính trị cần giữ vững nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội; nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác Đảng, công tác chính trị; xây dựng tổ chức đảng các cấp trong Đảng bộ Quân đội vững mạnh về tư tưởng, chính trị, đạo đức, tổ chức và cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội có phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ trí tuệ và năng lực tổ chức thực tiễn; giải quyết tốt các mối quan hệ, phát huy dân chủ, tăng cường kỷ luật, củng cố sự đoàn kết thống nhất nội bộ.
Đây vừa là nguyên tắc để giữ vững bản lĩnh chính trị của Quân đội và cũng là giải pháp căn cơ để giữ vững, phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới, xứng đáng với niềm tin của Đảng, Nhà nước và Nhân dân dành cho Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng./.
ST

BỘ QUỐC PHÒNG: SỬA CHÍNH SÁCH, NGĂN HÀNH VI LỢI DỤNG HÌNH XĂM, CHỮ XĂM ĐỂ TRỐN TRÁNH NGHĨA VỤ QUÂN SỰ

 Bộ Quốc phòng tiếp tục nghiên cứu, đánh giá đầy đủ các chính sách, đề xuất sửa đổi, bổ sung các nghị định, thông tư vào thời điểm phù hợp, bảo đảm khoa học, khả thi để pháp luật nghĩa vụ quân sự được thực hiện hiệu quả, thiết thực và nghiêm minh.

Ban Dân nguyện thuộc Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã chuyển kiến nghị của cử tri tỉnh Tây Ninh gửi Bộ Quốc phòng về việc tuyển chọn công dân vào phục vụ trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Cử tri viện dẫn Thông tư liên tịch số 50 của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an, quy định tiêu chuẩn chính trị tuyển chọn công dân vào phục vụ trong Quân đội nhân dân Việt Nam, trong đó có quy định về việc công dân có hình xăm, chữ xăm trên cơ thể thì không được gọi nhập ngũ; dẫn đến thực tế nhiều trường hợp thanh niên lợi dụng, cố tình xăm hình tại những bộ phận trên cơ thể để không phải đi nghĩa vụ quân sự.
Từ đó, cử tri kiến nghị Bộ Quốc phòng có giải pháp chống lợi dụng việc xăm hình để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ quân sự, bảo đảm công bằng xã hội, đồng thời bảo đảm nguồn chất lượng công dân nhập ngũ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc”.
Trả lời kiến nghị của cử tri, Bộ Quốc phòng cho biết, Quy định về hình xăm, chữ xăm khi xét duyệt tiêu chuẩn tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ vào phục vụ trong Quân đội được quy định tại Thông tư liên tịch số 50 ngày 15/4/2016 của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an quy định tiêu chuẩn chính trị tuyển chọn công dân vào phục vụ trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Theo đó, tại khoản 9, Điều 5 quy định không tuyển chọn vào phục vụ trong Quân đội những trường hợp: Trên cơ thể có hình xăm, chữ xăm có nội dung chống đối chế độ, chia rẽ dân tộc, mang tính kinh dị, kỳ quái, kích động tình dục, bạo lực. Hình xăm, chữ xăm gây phản cảm ở vị trí lộ diện, như: Mặt, đầu, cổ; từ 1/2 cánh tay trên trở xuống, từ 1/3 dưới đùi trở xuống. Hình xăm, chữ xăm chiếm diện tích từ 1/2 lưng, ngực, bụng trở lên.
Như vậy, quy định về hình xăm, chữ xăm trên cơ thể là một trong những nội dung thuộc tiêu chuẩn về chính trị, đạo đức trong tuyển chọn công dân nhập ngũ. Vì vậy, quá trình tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ, không để những công dân có hình xăm, chữ xăm với nội dung nêu trên nhập ngũ vào Quân đội, gây phản cảm, ảnh hưởng đến hình ảnh, lễ tiết tác phong của người quân nhân cách mạng, xây dựng môi trường văn hóa trong Quân đội.
“Những công dân trên cơ thể có hình xăm, chữ xăm không thuộc các quy định trên hoặc có thể tẩy xóa thì vẫn được xem xét, gọi nhập ngũ”, Bộ Quốc phòng nêu rõ.
Tuy nhiên, theo Bộ Quốc phòng, thực tế hiện nay, một số công dân đã lợi dụng quy định này cố tình xăm hình, xăm chữ lên cơ thể trước thời điểm khám tuyển, hoặc sau khi sơ tuyển biết đủ tiêu chuẩn gọi nhập ngũ để nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ quân sự, gây dư luận bất bình trong nhân dân.
Để kịp thời góp phần ngăn chặn các hành vi lợi dụng, trốn tránh thực hiện nghĩa vụ quân sự, Bộ Quốc phòng đã có Công văn số 4142 về việc tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ năm 2020; hằng năm chỉ đạo Cục Bảo vệ an ninh Quân đội hướng dẫn chi tiết cụ thể về hình xăm, chữ xăm khi tuyển chọn và gọi công dân nhập ngũ, góp phần hạn chế hành vi công dân lợi dụng hình xăm, chữ xăm trên cơ thể để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ quân sự.
Tiếp thu ý kiến của cử tri, Bộ Quốc phòng khẳng định, tiếp tục nghiên cứu, đánh giá đầy đủ các chính sách và tác động liên quan, báo cáo, đề xuất sửa đổi, bổ sung Nghị định số 27 của Chính phủ; phối hợp các bộ liên quan sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 50 vào thời điểm phù hợp khi có đầy đủ cơ sở chính trị, pháp lý, thực tiễn, bảo đảm khoa học, khả thi để pháp luật nghĩa vụ quân sự được thực hiện hiệu quả, thiết thực và nghiêm minh./.
St