Thứ Ba, 1 tháng 12, 2020

ĐẤU TRANH PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM

 

Cần phải thấy rõ rằng, sự chống phá của các thế lực cơ hội, thù địch là cuộc đấu tranh ý thức hệ, diễn ra lâu dài, với nhiều phương thức, thủ đoạn thâm độc. Cho dù trong thực tiễn, chúng ta làm tốt, chúng vẫn điên cuồng chống phá và không ngừng xuyên tạc.

Biện pháp phản bác hữu hiệu nhất là nỗ lực góp phần xây dựng đất nước ổn định, kinh tế phát triển, đời sống người dân không ngừng được nâng lên. Sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng cường, vị thế quốc gia ngày càng tăng trên trường quốc tế. Nhìn lại thực tiễn lịch sử nước ta, những thành tựu đất nước đã đạt được trong những năm qua, càng khẳng định tính đúng đắn, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, mô hình phát triển đất nước do Đảng, nhân dân ta lựa chọn là đúng đắn.

Thứ nhất, nhìn lại 75 năm ra đời nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam á, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dù phải trải qua nhiều khó khăn, gian khổ, sự chống phá của các thế lực cơ hội, thù địch, sự thoái trào của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nhưng đất nước Việt Nam thống nhất, phát triển và đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Trong quá trình đó, xét về bản chất, phải giải quyết nhiều vấn đề to lớn, trong đó có mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.

Khi thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, nhờ có giải quyết tốt mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, Việt Nam mới giành chiến thắng trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập trước các thế lực xâm lăng có sức mạnh hơn ta nhiều lần.

Khi đất nước đã thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng, từ một nước có điểm xuất phát thấp, bị tàn phá sau chiến tranh, sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, thực chất là một cuộc cách mạng mới, sâu sắc, toàn diện trong đó có đổi mới kinh tế, đồng thời với đổi mới chính trị với bước đi, hình thức phù hợp. Những thành tựu đạt được trên nhiều lĩnh vực của Việt Nam được thế giới ghi nhận, đất nước “chưa bao giờ có được cơ đồ như ngày nay”. Cho đến nay, ở Việt Nam, không có tổ chức chính trị nào có thể thay thế được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thứ hai, trong việc giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, trên thế giới, không có quốc gia nào không bị trả giá, bị sai lầm trong quá trình phát triển.

Chủ nghĩa tư bản có lịch sử ra đời và phát triển hàng trăm năm nay, làm giàu trên máu và nước mắt của biết bao quốc gia, dân tộc, và ngay người lao động trên đất nước của họ, nhưng với hơn 200 quốc gia trên thế giới, số nước giầu có, G7, G8 mới chỉ được vài nước. Hơn nữa, ngay trong những nước đó, sự bất công, phân biệt chủng tộc, kẻ reo rắc chiến tranh, phân hoá giầu nghèo rất lớn, đã có nhiều công trình nghiên cứu, công bố quốc tế ở chính ngay các nước tư bản chủ nghĩa nói lên điều này. Bởi vậy, những hạn chế, khuyết điểm của Việt Nam trong quá trình phát triển nói chung, trong giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị nói riêng là điều có thể lý giải; những vướng mắc, sai lầm đó cũng không làm mất đi tính chính nghĩa, tính đúng đắn của sự lựa chọn mô hình phát triển, của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, là xu thế phát triển của lịch sử loài người.

Thứ ba, quá trình giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam là quá trình thận trọng, chắc chắn, lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn của chân lý, được tổng kết từ thực tiễn để khái quát thành lý luận, vừa tránh giáo điều cũ, đồng thời không nóng vội, chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan; nhìn thẳng vào những sai lầm, khuyết điểm, không né tránh. Điều này được thực tiễn kiểm nghiệm trong quá trình phát triển ở Việt Nam.

Khi mắc sai lầm, trước hết xem xét từ trong nội bộ Đảng, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước để tìm biện pháp khắc phục, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa “xây và chống”, trong đó xây là cơ bản, lâu dài; chống là kiên quyết, triệt để.

Thứ tư, về phương pháp luận giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và  đổi mới chính trị, trước hết được xem xét trong tính chỉnh thể, hệ thống, đó là nền tảng tư tưởng- chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó, thấy rõ đâu là những nguyên lý còn nguyên giá trị nhưng các thế lực thù địch, cơ hội vẫn chống phá; đâu là những vấn đề cần bổ sung, phát triển và vấn đề nào thực tiễn cuộc sống đã vượt qua trong lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin. Đây là điều hết sức quan trọng để đảm bảo tính khoa học, cách mạng, hơi thở cuộc sống, tiếp thu tinh hoa của nhân loại trong nền tảng tư tưởng của Đảng; nhận thức rõ hơn âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, giúp chúng ta không bị mất phương hướng. Bên cạnh đó, cần phân loại đâu là những vấn đề sai lầm trong tổ chức thực hiện, những sai lầm khuyết điểm mắc phải do tác động của các yếu tố từ bên ngoài.

Thứ năm, những kết quả đạt được, tuy chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu của đất nước trong tình hình mới, nhưng cần khẳng định, đổi mới chính trị ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, trực tiếp là cơ sở để đất nước có được bước phát triển to lớn hiện nay.

Hệ thống lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng rõ hơn, nền tảng tư tưởng của Đảng tiếp tục được củng cố, bổ sung và phát triển, là cơ sở quan trọng để hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng một cách đúng đắn. Hệ thống tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tiếp tục được tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn; phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới và hoàn thiện: “Tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội tiếp tục được sắp xếp, kiện toàn theo yêu cầu nhiệm vụ mới. Chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định, điều chỉnh phù hợp hơn”(1), và “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị tiếp tục được đổi mới. Đã ban hành nhiều quy chế, quy định, quy trình công tác để thực hiện, bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị”(2); “Quốc hội có nhiều đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động. Hệ thống pháp luật tiếp tục được hoàn thiện”(3); “ Chính phủ và các bộ tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô và năng động giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng. Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng và bước đầu đạt kết quả tích cực” (4). Những kết quả tích cực đó tạo ra nhiều thay đổi lớn trong đời sống xã hội, dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy, mở rộng hơn, người dân được thông tin, giám sát hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị: “Quyền làm chủ của nhân dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực kinh tế và chính trị được phát huy tốt hơn”(5), hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách ngày càng thích ứng với thông lệ quốc tế, tính nghiêm minh trong thực hiện cao hơn. Nhờ đó, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu to lớn, được thế giới ghi nhận, nhân dân đồng tình ủng hộ.

Thứ sáu, những hạn chế, yếu kém, sai lầm, khuyết điểm được Đảng, Nhà nước thẳng thắn chỉ rõ và tìm cách khắc phục, như Đại hội XII đề cập: “Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ”(6).

Một số vấn đề trong đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị còn chưa đồng bộ, làm ảnh hưởng, thậm chí là điểm nghẽn của sự phát triển, đó là: “Hoàn thiện thể chế kinh tế còn chậm, thiếu kiên quyết; hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa hoàn chỉ và đồng bộ, chất lượng không cao, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu nền kinh tế, thực hiện ba đột phá”(7). Sự tác động trở lại của đổi mới chính trị đối với đổi mới kinh tế chưa tương xứng, nhiều khi còn chậm. Trong nhiều trường hợp, chủ trương, đường lối đúng nhưng vướng mắc trong tổ chức bộ máy, thể chế và tổ chức thực hiện dẫn đến hạn chế sự phát triển, như: “Quyền tự do kinh doanh chưa được tôn trọng đầy đủ; môi trường đầu tư, kinh doanh không thật sự thông thoáng, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp.Giá cả một số hàng hoá, dịch vụ thiết yếu chưa thật sự tuân theo nguyên tắc thị trường”(8). Một số hạn chế, vướng mắc chậm được giải quyết, thậm chí kéo dài trong một số nhiệm kỳ, làm cho vận hành của các tổ chức trong hệ thống chính trị trong một số trường hợp thiếu thống nhất, thông suốt, như công tác xây dựng Đảng còn nhiều yếu kém chậm được khắc phục; việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước; chưa chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp. Từ đó, nhiều tiềm năng, thế mạnh của đất nước chưa được phát huy, lực lượng sản xuất, sức sản xuất của xã hội chưa được giải phóng đầy đủ, môi trường dân chủ, sáng tạo chưa phát huy tốt: “Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ” (9).

Từ thực tiễn thành tựu và những hạn chế trong đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị tác động đến sự phát triển của đất nước cho thấy, những kết quả đạt được trong phát triển của đất nước là cơ bản, to lớn và có ý nghĩa lịch sử, càng khẳng định con đường, mô hình phát triển và những đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của Việt Nam là đúng hướng; những hạn chế, thiếu sót khuyết điểm không làm thay đổi bản chất, tính đúng đắn, ưu việt của chế độ chính trị, nền tảng tư tưởng và vai trò lãnh đạo của Đảng

CẢNH GIÁC VỚI THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

 


Dù cách thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt đến đâu thì những luận điệu xuyên tạc của các phần tử chống đối, thù địch cũng chỉ là những tiếng nói lạc long, đi ngược lại xu thế, dòng chảy chung. Với tinh thần thượng tôn pháp luật, thời gian qua Đảng, Nhà nước ta đã kiên quyết xử lý những cán bộ sai phạm, nhất là cán bộ cao cấp với quan điểm cán bộ cấp càng cao càng phải nêu gương. Qua đó làm trong sạch đội ngũ, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao uy tín và củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng.

Những phần tử chống đối thù địch lại đưa ra những luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật, cố tình hướng lái việc xử lý cán bộ sai phạm nhằm gây chia rẽ trong Đảng, làm suy giảm lòng tin của người dân đối với Đảng. Lịch sử 90 năm rèn luyện, phấn đấu, xây dựng và trưởng thành, Đảng ta luôn đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, trong đó công tác cán bộ là then chốt của then chốt. Công tác xây dựng Đảng được triển khai thực hiện thường xuyên, liên tục trên cả hai mặt xây và chống, trong đó xây trước, chống sau; xây là cơ bản, lâu dài, chống là quan trọng cấp bách, hai nhiệm vụ luôn song hành, kết hợp nhuần nhuyễn nhằm làm trong sạch đội ngũ, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới. Công tác đấu tranh, phòng chống tham nhũng, tiêu cực, việc kỷ luật, đưa ra xét xử các cán bộ, đảng viên vi phạm là một nhiệm vụ quan  trọng trong công tác xây dựng Đảng. Để ngăn chặn tình trạng suy thoái, tham nhũng, tiêu cực, Đảng, Nhà nước thể hiện rõ quan điểm và quyết tâm không bao che, dung túng những hành vi sai phạm; kiên quyết xử lý, loại trừ khỏi bộ máy những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng, vi phạm pháp luật của Nhà nước với tinh thần thượng tôn pháp luật, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kỳ cán bộ, đảng viên nào có sai phạm đều bị xử lý nghiêm minh, công bằng. Điều này được nhân dân đánh giá cao và đồng tình ủng hộ, bởi người dân nhận thức được việc Đảng tự chỉnh đốn, hoàn thiện mình để phục vụ nhân dân tốt hơn. Vậy nhưng, các thế lực thù địch luôn tìm cách chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân ta. Chúng cố tình làm sai lệch bản chất sự việc, phủ nhận sạch trơn vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên với âm mưu gây mơ hồ, hoài nghi, tác động vào niềm tin của nhân dân đối với Đảng; chia rẽ nội bộ, gây mất đoàn kết trong Đảng, trong dân, thâm độc hơn là nhằm gây bất ổn về chính trị, xã hội, lật đổ chế độ ta.

Dù cách thức, thủ đoạn của các thế lực thù địch có tinh vi, xảo quyệt đến đâu, thì đó cũng chỉ là những tiếng nói lạc lõng, đi ngược lại xu thế, dòng chảy chung. Những tiếng nói lạc lõng đó không thể làm lay chuyển quyết tâm chính trị của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực nhằm xây dựng và chỉnh đốn Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, phù hợp với mong muốn, nguyện vọng chung của toàn Đảng, toàn dân, vì lợi ích và sự phát triển trường tồn của dân tộc Việt Nam./.

CÁCH MẠNG MÀU

 


Cách mạng màu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng hàng loạt quốc gia rơi vào khủng hoảng chính trị. Những biểu hiện của nó cũng đang manh nha ở Việt Nam.Từ những năm cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, khái niệm cách mạng màu xuất hiện và bắt đầu được nhắc tới nhiều. Nhiều quốc gia ở Đông Âu thuộc Liên Xô (cũ) hay ở các quốc gia ở Trung Đông và Bắc Phi rơi vào tình trạng bất ổn chính trị và hệ quả của nó vẫn kéo dài đến tận bây giờ.

Cách mạng màu là những cuộc lật đổ chế độ hiện tại bằng phương thức bất bạo động. Có sự kết hợp giữa những kẻ chủ mưu bên trong với các thế lực thù địch bên ngoài. Những kẻ chủ mưu giương cao ngọn cờ dân chủ, lôi kéo người dân tham gia vào các cuộc biểu tình, tuần hành khiến cho các hoạt động của đời sống xã hội bị tê liệt. Chính phủ mất dần kiểm soát xã hội. Khi những cuộc tuần hành hay biểu tình tác động xấu đến đời sống xã hội và sự điều hành của chính phủ ở một mức độ nào đó sẽ xuất hiện các thế lực bên ngoài thông qua các tổ chức phi chính phủ thậm chí là chính phủ của một quốc gia khác lên tiếng ủng hộ người biểu tình. Từ đây xung đột giữa người dân và chính phủ càng được đẩy lên và gây ra hậu quả rất nặng nề".

Trên thực tế, mọi kịch bản của cách mạng màu đều gần như nhau. Những kẻ lợi dụng tự do, dân chủ khoét sâu vào những mâu thuẫn xã hội. Nó có thể là mâu thuẫn về lợi ích, mâu thuẫn về sắc tộc. Nó có thể là do hoàn cảnh kinh tế khó khăn dẫn đến khủng hoảng. Người dân mất dần niềm tin vào chính quyền. Tất cả những điều đó có thể chỉ là manh nha, chưa đến mức tạo ra xung đột nhưng nếu nó bị kích động sẽ dẫn đến những hậu quả vô cùng tai hại.

Từ thực tế từ các cuộc cách mạng màu ở một số quốc gia Đông Âu và Trung Đông, Bắc Phi trong thời gian qua, câu hỏi đặt ra là: Việt Nam chúng ta có phải đối diện với nguy cơ xảy ra cách mạng màu hay không? Theo các chuyên gia phân tích, cách mạng màu là một trong những thủ đoạn vô cùng nguy hiểm nằm trong âm mưu “Diễn biến hòa bình” mà các thế lực thù địch đã và đang thực hiện. 

Vì vậy, Việt Nam là một trong những mục tiêu mà chúng sẽ tấn công. Các vụ việc trong nhiều năm qua cho thấy rằng các thế lực thù địch luôn không ngừng sử dụng chiến lược diễn biến hòa bình nhằm xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam. Những biểu hiện của cái gọi là cách mạng màu vì thế cũng đã manh nha xuất hiện ở Việt Nam. Đó chính là các cuộc tụ tập đông người dưới nhiều lý do, trong đó có cả những cuộc tụ tập đập phá gây bất ổn xã hội.

Ai đứng đằng sau những cuộc tụ tập đông người này? Liệu tất cả những người xuống đường để bảo vệ môi trường, để bảo vệ cây, để phản đối luật đặc khu đều là những người muốn đem chính kiến của mình góp ý vào các chính sách của chính quyền? Liệu tất cả các hành động đập phá có phải là do bộc phát? Hay tất cả những hành động phạm pháp đó đều có bàn tay sắp đặt, kích động, giật giây thậm chí còn tung tiền để lôi kéo tụ tập? Bài học ở nhiều quốc gia trên thế giới đã cho thấy, nếu những mâu thuẫn xã hội ngày càng bị khoét sâu mà không có giải pháp nào giải quyết thì việc thổi bùng lên một ngọn lửa phản kháng là điều dễ xảy ra.

 

Âm mưu thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong tình hình mới

 

Trong chiến lược “DBHB” chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch coi Việt Nam là trọng điểm. Năm 1995, khi bình thường hoá quan hệ ngoại giao, Tổng thống Clin-tơn đã tuyên bố: “Đưa Việt Nam vào quỹ đạo mà Liên Xô đã đi”. Điều đó cho thấy “DBHB” chỉ là sự thay hình đổi dạng nhằm che đậy bản chất phản động, hiếu chiến xâm lược của CNĐQ gây mơ hồ, ảo tưởng trong những người cộng sản và nhân dân, từ đó gây dao động về mục tiêu, lý tưởng cách mạng để chúng tiến công chống phá CNXH. Để thực hiện chiến lược “DBHB”, kẻ thù rất xảo quyệt, chúng áp dụng phương thức thẩm thấu hoà bình, làm cho CNXH tự mục ruỗng từ bên trong, tự sụp đổ theo kiểu “không cần chiến tranh vẫn có chiến thắng”, đồng thời chúng sử dụng nhiều thủ đoạn tiến công chống phá trên nhiều lĩnh vực như : chính trị, tư tưởng, văn hoá, khoa học kỹ thuật, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại … Trong đó, lĩnh vực chính trị, tư tưởng được chúng coi là mũi đột phá. Vì vậy,  phòng chống chiến lược “DBHB” là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng nước ta, đó là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đối với quân đội, để hoàn thành chức năng, nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó thì một trong những vấn đề cơ bản là “phải làm thất bại chiến lược “DBHB”, vô hiệu hoá mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch tạo cớ để can thiệp vũ trang”, xây dựng  quân đội vững mạnh mọi mặt, trong đó lấy chất lượng chính trị làm cơ sở

Trong thời gian qua, toàn quân đã tích cực tham gia phong chống chiến lược “DBHB”, nhưng kết quả đạt được vẫn còn có những hạn chế nhất định, nhất là trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng. Một trong những nguyên nhân chính là lãnh đạo, chỉ huy các cấp và mỗi cán bộ, chiến sĩ nhận thức chưa đầy đủ về bản chất, nội dung của chiến lược “DBHB” trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng là gì; tại sao trong chiến lược “DBHB” kẻ thù xác định Việt nam là trọng điểm để chống phá của chúng …  Từ  những vấn đề đó đã dẫn đến quá trình tổ chức triển khai thực hiện các giải pháp phòng chống “DBHB” còn thiếu đồng bộ, hiệu quả còn hạn chế về nhiều mặt, trên nhiều lĩnh vực. Để khắc phục những hạn chế đó trước hết, phải nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm của “DBHB” trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng.

Thực tiễn cho thấy, trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng các thế lực thù địch sử dụng làm đòn đột phá khẩu bằng bốn mũi tiến công trên mặt trận chính trị, tư tưởng đó là kích động “dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc”. Tính chất nguy hiểm của âm mưu “DBHB” trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng CNĐQ và các thế lực thù địch nhằm phá vỡ niềm tin của quần chúng nhân dân đối với đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc … làm cho xã hội hỗn loạn về đời sống chính trị, tinh thần, tạo điều kiện tập hợp lực lượng phản động trong nước; kích động quần chúng đòi thay đổi chế độ XHCN bằng chiến thuật “viên đạn bọc đường”, với những luận điệu, lừa bịp để làm cho đối phương mất cảnh giác, mất phương hướng chính trị, không phân biệt được đúng sai để truyền bá tư tưởng tư sản, gây chia rẽ nội bộ ta, tạo điều kiện cho bạo loạn về chính trị và lật đổ chế độ. Bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt kẻ thù làm mê muội con người bằng các loại văn hoá phẩm độc hại, thúc đẩy lối sống, thực dụng, bàng quang với chính trị, xa rời mục tiêu lý tưởng để có điều kiện tập hợp lực lượng phản động gây áp lực chính trị tiến tới lật đổ chính quyền; thực hiện chính sách lôi kéo, thông qua các nước đồng minh, các tổ chức phi chính phủ, qua con đường giao lưu, hợp tác văn hoá, giáo dục, khoa học, nghệ thuật… để thu thập tin tức tình báo, mua chuộc cán bộ, cài cắm gián điệp, móc nối các phần tử cơ hội chính trị để chống phá ta. Ngoài ra chúng còn dùng hình thức tung tin đồn nhảm, lợi dụng vấn đề chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta hiện nay để tạo dư luận  “bảo vệ tự do dân chủ, nhân quyền”, gây ra tâm trạng mơ hồ, mất cảnh giác trong nhân dân, nhằm cô lập lực lượng trung kiên, lôi kéo kích động những phần tử bất mãn để gây bạo loạn lật đổ chính quyền.

Tính chất nguy hiểm của âm mưu “DBHB” trên mặt trận mặt trận chính trị, tư tưởng là chủ nghĩa đế quốc nhằm phá vỡ niềm tin, đánh từ trong nội bộ đối phương, làm cho “cộng sản tự diệt cộng sản”, với những thủ đoạn khác nhau để tạo cớ can thiệp vào nội bộ ta. Để thực hiện âm mưu “DBHB” trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, các thế lực thù địch thường sử dụng các lực lượng chủ yếu như: hình thành các trung tâm phá hoại tư tưởng để tuyên truyền các luận điệu thù địch, chúng dựng nên nhiều tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài; gia tăng các hoạt động chống phá từ bên ngoài và cấu kết với bọn bất mãn, cơ hội trong nước, dùng các thủ đoạn tuyên truyền lôi kéo, móc nối với một số học sinh, sinh viên, người lao động ở nước ngoài để khi về nước làm nhân chứng chống lại chế độ ta; chúng tìm nhiều cách nhằm chia rẽ nội bộ ta, cài cắm nội gián, tạo dựng “ngọn cờ” để chống đối từ trong nước, gây mất ổn định chính trị xã hội ở Việt Nam, thông qua viện trợ, mở rộng giao lưu hợp tác để xây dựng lực lượng phản động, ngoài ra chúng còn sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng ở hải ngoại để xuyên tạc, kích động đồng bào ta ở nước ngoài.

Các thế lực thù địch đã sử dụng nhiều thủ đoạn rất tinh vi, xảo quyệt như: tiến công phủ định nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt nam, phủ nhận hoàn toàn chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xuyên tạc quá khứ hào hùng của dân tộc, đánh vào những vấn đề có tính nguyên tắc sống còn của Đảng; chúng thực hiện thủ đoạn thâm nhập để lôi kéo, mua chuộc, khống chế hoặc móc nối với bọn cơ hội, bất mãn… nhằm từng bước chuyển hoá đội ngũ lãnh đạo “chệch hướng”; lợi dụng các diễn đàn tự do để tuyên truyền “dân chủ” kiểu tư sản, khuyến khích lối sống thực dụng, đòi “tự do” xuất bản báo chí để tạo chỗ đứng cho bọn phản động; lợi dụng hoạt động tôn giáo để truyền đạo trái pháp luật, lôi kéo người xấu trong tôn giáo chống chính quyền.

Qua một số vấn đề trên đây để chúng ta nhận thức rõ hơn tính chất nguy hiểm của âm mưu, thủ đoạn rất tinh vi, xảo quyệt mà các thế lực thù địch đã và đang sử dụng để chống phá cách mạng Việt Nam.

 

 

 Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Lê Đức Anh (01/12/1920 – 01/12/2020)

TƯ LỆNH BINH ĐOÀN CÁNH TÂY NAM TRONG CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH LỊCH SỬ
Đại tướng Lê Đức Anh là nhà chính trị, nhà quân sự xuất sắc. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, ông trải qua nhiều chức vụ. Ở cương vị nào, với tư chất thông minh, lối tư duy sắc bén, biện chứng, lại mẫn cảm về chính trị và quân sự, ông đều nhận thức chính xác tình hình, chủ động đề xuất chủ trương và tổ chức thực hiện thành công nhiều nhiệm vụ đặc biệt khó khăn.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, Phó tư lệnh-Tham mưu trưởng Quân Giải phóng miền Nam Lê Đức Anh là Phó tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh kiêm Tư lệnh Binh đoàn cánh Tây Nam-binh đoàn chủ lực tiến công từ phía Tây Nam vào thành phố Sài Gòn.
TỪ ĐOÀN 232 ĐẾN BINH ĐOÀN CÁNH TÂY NAM
Sau Chiến dịch Đường 14-Phước Long, cuối tháng 1-1975, Trung ương Cục miền Nam khẳng định: Lực lượng vũ trang B2 có đủ khả năng tự giải phóng các địa phương trên địa bàn nên đã thông qua bước 2 kế hoạch mùa khô 1974-1975 do Phó tư lệnh-Tham mưu trưởng Miền Lê Đức Anh đề xuất, gồm 3 điểm: 1. Giải phóng đại bộ phận nông thôn đồng bằng, mở thông hành lang từ Tây Ninh xuống Quân khu 8, Quân khu 9, chia cắt tuyến Quốc lộ 4 nối Sài Gòn với Đồng bằng sông Cửu Long; 2. Hoàn thành một bước quan trọng ý định chiến lược chuẩn bị cho đòn quyết chiến chiến lược đánh vào thành phố Sài Gòn; 3. Đánh địch vừa tạo thế trận vừa nhằm tiêu diệt sinh lực của chúng.
Để thực hiện kế hoạch nêu trên, Bộ tư lệnh Miền quyết định thành lập một đơn vị chủ lực có quy mô cấp quân đoàn. Để giữ bí mật, đơn vị lấy phiên hiệu Đoàn 232, tương tự phiên hiệu các đoàn hậu cần khu vực được thành lập trước đó trên chiến trường B2. Đoàn 232 thành lập đầu tháng 2-1975, biên chế ban đầu gồm: Sư đoàn 5, Sư đoàn 3, Trung đoàn 16, các đơn vị pháo binh, xe tăng, thông tin, công binh và cơ quan đoàn bộ. Bộ chỉ huy Đoàn 232 gồm Thiếu tướng Nguyễn Minh Châu (Năm Ngà, tư lệnh), Đại tá Trần Văn Phác (Tám Trần, chính ủy), Đại tá Bùi Thanh Vân (Út Liêm, phó tư lệnh), Đại tá Trần Văn Nghiêm (phó tư lệnh). Ngay sau khi thành lập, Đoàn 232 khẩn trương thực hiện nhiệm vụ mở hành lang trên hướng tây nam Sài Gòn, đánh địch từ Tây Ninh xuống Kiến Tường, làm chủ vùng phía tây sông Vàm Cỏ Đông, đánh chiếm chi khu Dầu Tiếng, tiến công các căn cứ Suối Ông Hùng, Cầu Khởi Bến Cầu, Mộc Bài, Đức Hòa Tuyên Nhơn, Bình Thành, mở thông hành lang từ Tây Ninh xuống Kiến Tường.
Đầu tháng 4-1975, trên cơ sở ý kiến đề xuất của Bộ tư lệnh Miền, Bộ Chính trị hoàn chỉnh kế hoạch đánh chiếm Sài Gòn, ngày 8-4-1975, công bố quyết định thành lập Bộ chỉ huy Chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định (từ ngày 14-4-1975 mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh). Thực hiện kế hoạch trên, Đoàn 232 đổi tên thành Binh đoàn cánh Tây Nam. Bộ tư lệnh Binh đoàn gồm: Trung tướng Lê Đức Anh (Sáu Nam, tư lệnh), Thiếu tướng Lê Văn Tưởng (Hai Chân, chính ủy), Đại tá Lê Quốc Sản (Tám Phương, phó tư lệnh), Đại tá Trần Văn Nghiêm (tham mưu trưởng). Binh đoàn được bổ sung Sư đoàn 9, Trung đoàn 271B, 2 trung đoàn chủ lực của Quân khu 8 (24, 88), 1 tiểu đoàn xe tăng T54, 1 tiểu đoàn pháo 130mm, 6 khẩu pháo cao xạ và một số đơn vị binh chủng kỹ thuật khác.
Địa bàn tác chiến của Binh đoàn cánh Tây Nam chủ yếu là đồng nước, sình lầy, sông rạch chằng chịt, không thích hợp với cách đánh sử dụng đội hình lớn, tập trung và đặc biệt khó khăn trong tổ chức hành quân cơ động lực lượng. Tư lệnh Lê Đức Anh chủ trương tổ chức đội hình tiến công gồm cả các đơn vị binh chủng nặng như xe tăng, đại bác. Ông chỉ đạo các đơn vị pháo binh tháo rời các bộ phận của pháo đưa xuống thuyền, xuồng ba lá vượt Đồng Tháp Mười; chỉ đạo đơn vị xe tăng bịt kín các chi tiết hở trên xe để vừa hành quân trên bờ kênh vừa xuôi theo sông Vàm Cỏ đến vị trí tập kết. Bằng cách cơ động nói trên, đến ngày 9-4-1975, các đơn vị của binh đoàn nổ súng tiến công chi khu Mộc Hóa, áp sát Thủ Thừa và Tân An. Sư đoàn 5 tiến công hệ thống đồn bốt địch ở phía bắc Quốc lộ 4, giải phóng một vùng rộng lớn dọc bờ sông Vàm Cỏ Tây và kênh Bo Bo. Sư đoàn 9 và Trung đoàn 16 đưa toàn bộ binh khí kỹ thuật đến đầu cầu phía tây sông Vàm Cỏ Đông. Sư đoàn 3 áp sát Đức Hòa-Hậu Nghĩa, hoàn thành nhiệm vụ chia cắt chiến lược trên hướng tây nam thành phố Sài Gòn.
MỘT TRONG 5 BINH ĐOÀN TIẾN CÔNG GIẢI PHÓNG SÀI GÒN
Ngày 26-4-1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh mở màn. Theo kế hoạch, lực lượng tiến công giải phóng Sài Gòn được tổ chức trên 5 hướng: Đông Nam, Đông, Bắc, Tây Bắc và Tây-Tây Nam. Tiến công trên hướng Tây và Tây Nam, Tư lệnh Lê Đức Anh chỉ huy Binh đoàn cánh Tây Nam cùng các đơn vị phối thuộc và lực lượng vũ trang địa phương chiến đấu chặn cắt Quốc lộ 4, tiến công thị xã Hậu Nghĩa, chi khu Đức Hòa, chi khu Đức Huệ, thị xã Tân An, chi khu Thủ Thừa.
Ngày 28-4, các đơn vị của binh đoàn tiến công vào tuyến phòng thủ trực tiếp thành phố Sài Gòn, đánh chiếm một số mục tiêu, cắt mọi đường giao thông thủy, bộ, triệt để cô lập Sài Gòn. Sư đoàn 3 đánh chiếm đầu cầu khu vực An Ninh-Lộc Giang, tổ chức vượt sông Vàm Cỏ. Sư đoàn 5 cắt đứt hoàn toàn Quốc lộ 4 đoạn từ Bến Lức đến Long An. Sư đoàn 9 vượt sông Vàm Cỏ Đông vào vị trí tập kết tại Mỹ Hạnh, Đức Hòa. Các trung đoàn 24 và 88 đánh chiếm các căn cứ mở rộng khu vực đứng chân phía bắc Cần Giuộc và làm chủ đường số 5.
Ngày 29-4, binh đoàn đồng loạt tiến công chặn và tiêu diệt các tập đoàn chủ yếu của địch ở vòng ngoài. Sư đoàn 3 đánh chiếm thị xã Hậu Nghĩa, chi khu Đức Hòa, chi khu Đức Huệ và căn cứ Trà Cú, mở bến vượt sông Vàm Cỏ Đông. Sư đoàn 5 tiếp tục giữ vững Quốc lộ 4, đánh lui nhiều đợt phản kích của địch. Sư đoàn 9 vượt qua Mỹ Hạnh, Vĩnh Lộc, tiến vào hướng Bà Quẹo, Bà Hom.
Ngày 30-4, các đơn vị của Binh đoàn cánh Tây Nam đồng loạt tổng công kích vào nội thành. Sư đoàn 3 đánh chiếm khu vực Hậu Nghĩa, hai bên sông Vàm Cỏ. Sư đoàn 5 đánh chiếm thị xã Tân An, chi khu Thủ Thừa. Sư đoàn 9 đánh chiếm biệt khu thủ đô, trung tâm ra-đa Phú Lâm, Trường đua Phú Thọ. Trung đoàn 16 đánh chiếm khu Xa cảng miền Tây, An Lạc, Bình Điền. Trung đoàn 24 đánh chiếm bốt cảnh sát quận 8, cầu Nhị Thiên Đường, cầu Chữ Y, bộ tư lệnh cảnh sát quốc gia. Trung đoàn 88 đánh chiếm Đa Phước, Ông Thìn, khu Nhà Bè. Đến 11 giờ ngày 30-4, các đơn vị của Binh đoàn cánh Tây Nam đã cắm cờ giải phóng trên nóc nhà biệt khu thủ đô, tổng nha cảnh sát, dinh tỉnh trưởng Long An và các căn cứ khác. Một số mũi thọc sâu của binh đoàn đã phát triển hợp điểm với các cánh quân khác tại Dinh Độc Lập.
“PHẢI THẤY RÕ CẢ 5 CÁNH QUÂN TỪ 5 HƯỚNG”
Binh đoàn cánh Tây Nam hình thành trên cơ sở phát triển Đoàn 232, một đơn vị chủ lực Quân Giải phóng cấp quân đoàn ra đời trong quá trình phát triển của cách mạng miền Nam ở vào thời đoạn cuối, khởi từ kết quả của Chiến dịch Đường 14-Phước Long. Nó là bước phát triển tất yếu của lực lượng vũ trang cách mạng trước đòi hỏi của thực tiễn. Từ Đoàn 232 đến Binh đoàn cánh Tây Nam lại là bước phát triển tiếp nhằm thực hiện thắng lợi quyết tâm của Bộ Chính trị ngày 31-3-1975 “nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất”.
Dưới sự chỉ huy trực tiếp của Trung tướng Lê Đức Anh, hoạt động của Binh đoàn cánh Tây Nam trong Chiến dịch Hồ Chí Minh đã góp phần quyết định chia cắt hành lang chiến lược nối Sài Gòn (biệt khu thủ đô) với miền Tây Nam Bộ (vùng IV chiến thuật); thực hiện một đòn tiến công hiểm, từ phía sau vào hệ thống phòng thủ của quân đội Sài Gòn. Hoạt động của Binh đoàn cánh Tây Nam mang dấu ấn rõ nét tư duy và phong cách chỉ huy của Tư lệnh Lê Đức Anh. Đó là sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo đường lối chính trị, đường lối quân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng lực lượng vũ trang, về cách thức tổ chức đơn vị chủ lực cấp quân đoàn với trang bị khí tài hiện đại tại vùng đồng bằng sông nước, về nghệ thuật tác chiến hiệp đồng quân binh chủng giữa các đơn vị chủ lực với hoạt động tác chiến phối hợp tạo thế của lực lượng vũ trang địa phương, sự nổi dậy giải phóng quê hương của quần chúng trong thế trận chiến tranh nhân dân ở địa bàn đặc thù Nam Bộ.
Hoạt động của Binh đoàn cánh Tây Nam còn thể hiện tư duy quân sự hệ thống của đồng chí Lê Đức Anh. Ông từng nói: “Nếu nói tới Chiến thắng 30-4 mà chỉ nói nhiều đến đơn vị xe tăng của Quân đoàn 2 tiến vào Dinh Độc Lập thôi thì không đủ. Mà phải thấy rõ cả 5 cánh quân từ 5 hướng, lực lượng vũ trang và lực lượng quần chúng tại chỗ trong nội đô cùng nổi dậy và tiến công đồng loạt vào sào huyệt cuối cùng của quân địch với một quyết tâm và nỗ lực rất cao, trong đó kết quả tác chiến của đơn vị này đã mở ra điều kiện thuận lợi, thậm chí rất thuận lợi cho đơn vị kia”. Chúng ta không tuyệt đối hóa vai trò của Binh đoàn cánh Tây Nam nhưng cũng thể không nhắc đến những đóng góp của binh đoàn này trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử trong đó có vai trò của đồng chí Lê Đức Anh!

Cả xã hội lại bị ảnh hưởng chỉ vì ý thức kém của một cá nhân

Bệnh nhân 1.342, nam tiếp viên hàng không Vietnam Airlines, đã vi phạm các quy định phòng dịch khi thực hiện cách ly tập trung cũng như không tuân thủ quy định phòng dịch khi cách ly tại nhà khiến mình mắc Covid-19 và làm lây lan thêm cho người khác. BN này đã tiếp xúc với người bệnh trong khu cách ly dẫn đến lây nhiễm cho bản thân, khi tự cách ly tại nhà lại gọi bạn đến ở cùng – BN 1.347, phát tán dịch ra cộng đồng. BN 1.347 là giáo viên tiếng Anh đã nhiễm bệnh trong thời gian tiếp xúc với BN 1.342, thì lại đi hoạt động giảng dạy, giao tiếp, tiếp xúc trực tiếp khắp nơi tại TP.HCM.

- Giáo viên mắc Covid-19 tiếp xúc 500 người, mức độ lây nhiễm "trầm trọng" (https://dantri.com.vn/suc-khoe/giao-vien-mac-covid-19-tiep-xuc-500-nguoi-muc-do-lay-nhiem-tram-trong-20201201174629570.htm);

- Cách ly nam sinh người Quảng Ninh tiếp xúc với thầy giáo tiếng Anh mắc Covid-19 (https://thanhnien.vn/thoi-su/cach-ly-nam-sinh-nguoi-quang-ninh-tiep-xuc-voi-thay-giao-tieng-anh-mac-covid-19-1311685.html);

- Có thể phải giãn cách xã hội 3 quận để chống Covid-19 (https://dantri.com.vn/xa-hoi/co-the-phai-gian-cach-xa-hoi-3-quan-de-chong-covid-19-20201201211905404.htm);

- Nhiều trường tại TP.HCM cho nghỉ học vì dịch Covid-19 (https://thanhnien.vn/giao-duc/nhieu-truong-tai-tphcm-cho-nghi-hoc-vi-dich-covid-19-1311512.html)

- Liên quan đến giáo viên nhiễm Covid-19, 2.000 học sinh tiếp tục nghỉ học (https://thanhnien.vn/giao-duc/lien-quan-den-giao-vien-nhiem-covid-19-2000-hoc-sinh-tiep-tuc-nghi-hoc-1311655.html)

……

Rõ ràng, công tác phòng chống dịch Covid-19 đã không còn quá xa lạ, với những qui định cụ thể rõ ràng về cách ly tập trung hay cách ly tại nhà. Thế nhưng, trong thực tế triển khai, vẫn có cá nhân ý thức kém gây hậu quả nghiêm trọng, chỉ vì từ ý thức kém của một cá nhân giờ đây cả xã hội lại phải gồng mình chạy đua khoanh vùng dập dịch, tốn kém không biết bao nhiêu công sức, tiền của, mất công mất việc ảnh hưởng đến bao nhiêu con người khác. Nói rộng ra, việc trông chờ vào ý thức của 100% cá nhân trong xã hội tuyệt đối chấp hành các qui định chống dịch Covid-19 nói riêng (cũng như các qui định pháp luật khác) rất khó thực hiện nếu không có những chế tài răn đe, xử phạt thật nghiêm khắc các trường hợp vi phạm.

Có ca nhiễm từ lỗ hổng cách ly tập trung, đề nghị dừng chuyến bay thương mại

Với Việt Nam, đã phát hiện ca nhiễm trên cộng đồng có tiền sử tiếp xúc với bệnh nhân dương tính là tiếp viên hàng không. "Nguy cơ lây nhiễm COVID-19 vào Việt Nam là hiện hữu. Bộ Y tế đã cảnh báo việc rò rỉ lây nhiễm ra cộng đồng là có và TP.HCM là điển hình, nên cần phải nêu cao tinh thần không lơ là, chủ quan, mất cảnh giác và không tự mãn kết quả. Do đó, cần tăng cường tất cả các biện pháp phòng chống dịch, đặc biệt thời gian tới có nhiều sự kiện chính trị quan trọng" - ông Nguyễn Thanh Long, bộ trưởng Bộ Y tế, nói đồng thời đề nghị dừng tổ chức các chuyến bay thương mại vì số ca lây nhiễm ngày càng tăng như đang "chở bệnh" về nước.

Cần có chủ trương nhất quán nơi công cộng, biện pháp mạnh hơn

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc yêu cầu kiểm soát chặt chẽ tình hình dịch bệnh với các biện pháp mạnh mẽ hơn, không hoang mang dao động khi có ca nhiễm trong cộng đồng, gắn với xử lý trách nhiệm khi để xảy ra việc lây nhiễm.

Thủ tướng chỉ đạo tình hình dịch COVID-19 không phải quá xa lạ nên không nên hoang mang, dao động. Biện pháp quản lý, theo Thủ tướng, chủ trương nhất quán là nơi công cộng, khu vực đông người phải thực hiện nghiêm một số khâu. Lúc này cần có chủ trương mạnh hơn ở nơi công cộng như siêu thị, cửa hàng ăn, nhà hàng, bệnh viện. Đến nay với ca lây nhiễm ra cộng đồng, cần tìm ra nguyên nhân để xử lý, có biện pháp thúc đẩy mạnh mẽ kiểm soát dịch, không để dịch bệnh ảnh hưởng các sự kiện chính trị lớn của đất nước.

 CHÚNG TA ĐÃ CÓ RẤT NHIỀU BÀI HỌC LỚN VÌ HAI CHỮ "CHỦ QUAN".

Lâu lắm rồi, chúng ta mới trải qua thứ cảm giác này. Thứ cảm giác lo sợ đã đeo bám không chỉ Việt Nam mà toàn thế giới trong suốt 1 năm qua.
Lâu lắm rồi, chúng ta không còn nhận những thông báo khẩn, những lịch trình dày đặc để rồi phải cố nhớ lại xem mình đã từng đặt chân qua những địa điểm đó bao giờ..
Chúng ta đã hơn 1 lần tuyên bố chiến thắng đại dịch và cùng hơn 1 lần thấp thỏm, lo âu vì những cá nhân là mầm mống cho việc lây nhiễm cộng đồng.
Không ai muốn mình mắc bệnh cả và các bệnh nhân cũng không phải đối tượng để truy cứu, đổ lỗi. Nhưng điều đáng nói là có vẻ như chúng ta đã quá chủ quan với thứ Virus đã và đang còn khiến nhiều đất nước phát triển hơn chúng ta cả chục lần, đi trước chúng ta cả trăm năm phải lao đao, vật lộn.
Việt Nam hết dịch - không đồng nghĩa với việc cứ về đến Việt Nam là bạn sẽ có 1 lớp bảo vệ vô hình nào đó mà virus phải tự khắc triệt tiêu. Lớp bảo vệ đó được hình thành từ sự nỗ lực của các ban ngành, bô y tế và chính ý thức của hơn 90 triệu người.
Nhiều người đặt ra câu hỏi, tại sao Việt Nam không thể kiểm soát triệt để đại dịch dù đã 2 lần gần như chúng ta đã chiến thắng vẻ vang? Nhưng họ lại không tự hỏi bản thân đã thực hiện tốt và đầy đủ những yêu cầu phòng dịch đã được đề ra từ những ngày đầu cuộc chiến.
Giờ ra đường, cửa hiệu, nhà hàng đông đúc. Khác với đợt cách ly. Giờ ra đường, người ta cũng không đeo khẩu trang, không rửa tay cẩn thận như trước nữa. Khác với đợt cách ly.
Vậy thay bằng chờ đợi 1 loại vacxin được bán đại trà trên thế giới sao không tự nâng cao ý thức của mình? Vì chẳng liều thuốc nào mạnh hơn "ý thức" cả. Một xã hội khỏe mạnh luôn được hình thành từ những cá nhân mạnh khỏe. Và 1 cá nhân mạnh khỏe chính là khi chúng ta biết cách tự bảo vệ bản thân mình.
Mọi người đừng hoang mang, lo lắng quá!!! Tất cả vẫn còn nằm trong tầm kiểm soát. Hãy làm tốt việc của bản thân mình: Rửa tay, đeo khẩu trang,... đầy đủ.
Hình ảnh có thể có: một hoặc nhiều người và văn bản

 TẠM DỪNG CÁC CHUYẾN BAY THƯƠNG MAI VÀ CÁC HOẠT ĐỘNG KHÔNG CẦN THIẾT....

Chiều nay (1/12), Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nêu rõ, các chuyến bay thương mại quốc tế tạm dừng, chỉ thực hiện các chuyến bay giải cứu (đối với các trường hợp khó khăn, thực sự cần thiết)....
Đặc biệt, người đứng đầu Chính phủ chỉ đạo, tiếp tục dừng các hoạt động không cần thiết, các hoạt động tập trung đông người phải thực hiện nghiêm các biên pháp phòng chống dịch...
Thực hiện giãn cách xã hội với khu vực có nguy cơ cao và có chủ trương khoanh vùng hợp lý, không giãn cách xã hội tràn lan, ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất kinh doanh" Thủ tướng nhấn mạnh....!

 

TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO TUYỆT ĐỐI, MỌI MẶT

 CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI QUÂN ĐỘI 

Sáng 30/11, Quân ủy TW tổ chức hội nghị thông qua báo cáo tổng kết công tác quân sự, quốc phòng năm 2020; ra Nghị quyết lãnh đạo nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và xây dựng Đảng bộ Quân đội năm 2021.

Dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, báo cáo trung tâm và các ý kiến phát biểu tại hội nghị đều thống nhất khẳng định: Toàn quân đã phấn đấu hoàn thành toàn diện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng năm 2020. Trong đó, có nhiều nhiệm vụ hoàn thành tốt, nhiều nhiệm vụ hoàn thành xuất sắc.

Nổi bật là nắm, đánh giá, dự báo đúng tình hình, kịp thời tham mưu với Đảng, Nhà nước có chủ trương, đối sách, xử lý hiệu quả các tình huống, không để bị động, bất ngờ, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước. Toàn quân duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu (SSCĐ), tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương, phát huy tốt vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh.

Đặc biệt, đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phòng, chống đại dịch Covid-19, khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ, cứu hộ, cứu nạn, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân. Trong mọi tình huống gian khổ, hiểm nguy, cán bộ, chiến sĩ luôn có mặt kịp thời, sẵn sàng hy sinh quên mình, giúp dân vượt qua khó khăn, hoạn nạn, được Đảng, Nhà nước, nhân dân ghi nhận, đánh giá cao.

Quyết liệt chỉ đạo điều chỉnh tổ chức lực lượng theo hướng “tinh, gọn, mạnh"; chất lượng huấn luyện, giáo dục và đào tạo, xây dựng chính quy, chấp hành kỷ luật có chuyển biến tiến bộ; xây dựng, hoàn thiện hệ thống luật, văn bản quy phạm pháp luật về quân sự, quốc phòng đạt kết quả tốt.

Công tác hậu cần, kỹ thuật, công nghiệp quốc phòng và các mặt công tác khác đạt kết quả tích cực, góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh, trình độ và khả năng SSCĐ của Quân đội.

Hoàn thành tốt các hoạt động đối ngoại quốc phòng trong năm Việt Nam là Chủ tịch ASEAN và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, góp phần nâng cao vị thế, uy tín, hình ảnh của đất nước và QĐND Việt Nam trên trường quốc tế.

Tổ chức tốt Đại hội Thi đua Quyết thắng toàn quân lần thứ X, giai đoạn 2015 - 2020. Triển khai thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp xây dựng Đảng bộ Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Đi đầu trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, phản động, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tập trung lãnh đạo, tổ chức đại hội Đảng các cấp và Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI chặt chẽ, đúng nguyên tắc, thực sự mẫu mực, tiêu biểu, thành công tốt đẹp.

Năm 2021, toàn quân tiếp tục tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch vững mạnh mẫu mực, tiêu biểu, lãnh đạo thực hiện tốt phương hướng, mục tiêu và chương trình hành động. Nâng cao năng lực, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng, phát huy vai trò tiên phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng. Đổi mới phương pháp, phong cách lãnh đạo theo hướng tập trung, sâu sát, đồng bộ, quyết liệt, nói đi đôi với làm, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội.

Tại hội nghị, Quân ủy Trung ương thống nhất cao với các nhóm nhiệm vụ, giải pháp nêu trong báo cáo của Bộ Quốc phòng, đồng thời yêu cầu cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, cơ quan, đơn vị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ tham mưu với Đảng, Nhà nước về công tác quân sự, quốc phòng. Tiếp tục thực hiện hiệu quả các chiến lược, nghị quyết, kết luận, đề án, luật đã ban hành; triển khai thực hiện tốt Luật Biên phòng Việt Nam, Nghị quyết của Quốc hội về tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc...

Nâng cao chất lượng xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của toàn quân. Thực hiện có hiệu quả, thực chất ba khâu đột phá.

Bảo đảm tốt hậu cần cho nhiệm vụ huấn luyện, SSCĐ, phòng chống thiên tai, dịch bệnh, đảm bảo đầy đủ, kịp thời, đồng bộ vũ khí trang bị kỹ thuật cho các nhiệm vụ.

Nâng cao chất lượng huấn luyện, khai thác, làm chủ vũ khí trang bị kỹ thuật mới, công nghệ cao; đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự. Tập trung phát triển Công nghiệp quốc phòng đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội trong tình hình mới.

Đẩy mạnh công tác đối ngoại quốc phòng theo phương châm “tích cực, chủ động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả", mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế; duy trì tốt các hoạt động giao lưu hữu nghị biên giới./.

 

Hội thảo khoa học “Đồng chí Lê Đức Anh với cách mạng Việt Nam và quê hương Thừa Thiên - Huế”

 

 Sáng 30-11, tại Thừa Thiên - Huế, Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Văn phòng Chủ tịch nước và Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế tổ chức Hội thảo khoa học (HTKH) cấp quốc gia “Đồng chí Lê Đức Anh với cách mạng Việt Nam và quê hương Thừa Thiên - Huế”. 

Đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương dự và phát biểu chỉ đạo. Trung tướng Nguyễn Tân Cương, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (BQP), Trưởng ban chỉ đạo HTKH chủ trì hội thảo. 

Dự hội thảo có các đồng chí nguyên Ủy viên Bộ Chính trị: Đại tướng Phạm Văn Trà, nguyên Phó bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), nguyên Bộ trưởng BQP; Nguyễn Khoa Điềm, nguyên Trưởng ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương. Cùng dự có Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; đại biểu Ban Tuyên giáo Trung ương, Văn phòng Chủ tịch nước và Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế; các đồng chí cán bộ lão thành cách mạng, các nhà khoa học, các tướng lĩnh, sĩ quan và đại diện gia đình Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh. 

Phát biểu khai mạc hội thảo, Trung tướng Nguyễn Tân Cương khái quát về cuộc đời và sự nghiệp cách mạnh của đồng chí Lê Đức Anh: Sinh ra và lớn lên trên quê hương giàu truyền thống yêu nước và đấu tranh cách mạng, chứng kiến sự nghèo đói, lam lũ của người dân lao động cùng khổ dưới ách thống trị của thực dân, phong kiến, đồng chí Lê Đức Anh đã sớm giác ngộ và tham gia hoạt động cách mạng từ năm 17 tuổi (năm 1937), trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) khi mới 18 tuổi (năm 1938).

Hơn 80 năm hoạt động cách mạng, đồng chí Lê Đức Anh vượt qua bao cam go, thử thách khốc liệt trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dù trên cương vị công tác và trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, đồng chí Lê Đức Anh cũng luôn giữ vững ý chí, phẩm chất của người chiến sĩ cộng sản, “hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”; bản lĩnh và sáng tạo, sắc sảo, quyết đoán và hành động quyết liệt trong mọi công việc, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Đề dẫn hội thảo do Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa trình bày đã nhấn mạnh những mốc son trong cuộc đời hoạt động đầy oanh liệt, vinh quang của của đồng chí Lê Đức Anh với những đóng góp quan trọng trong cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm 1945 và công lao lớn trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Phẩm chất và tài năng của đồng chí Lê Đức Anh không ngừng tỏa sáng, phát huy trên các cương vị được Đảng, Nhà nước, Nhân dân và Quân đội giao phó; luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân; là người chỉ huy, vị tướng tài ba, nhà lãnh đạo xuất sắc, trung kiên và có uy tín của Đảng và Nhà nước ta.

Đặc biệt, trên cương vị Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Lê Đức Anh cùng tập thể Thường vụ, Đảng ủy Quân sự Trung ương, Thủ trưởng Bộ Quốc phòng tham mưu với Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, phát huy sức mạnh toàn dân trong sự nghiệp củng cố quốc phòng; lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ, nhất là tầm nhìn chiến lược về phòng thủ, bảo vệ chủ quyền biển đảo, xây dựng quân đội “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, quan tâm đời sống cán bộ, chiến sĩ, thực hiện chính sách hậu phương quân đội.

Với cương vị Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh đã cùng tập thể Bộ Chính trị khởi xướng và đề xuất nhiều quyết sách quan trọng chỉ đạo toàn dân, toàn quân thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và tình trạng bị bao vây, cấm vận; cùng Trung ương Đảng, Quốc hội xây dựng hệ thống luật pháp, bổ sung, sửa đổi Hiến pháp phù hợp với tình hình, nhiệm vụ của cách mạng, bảo đảm cho công cuộc đổi mới đi đúng hướng. Những cống hiến của đồng chí Lê Đức Anh rất to lớn, nổi bật trên cả lĩnh vực đối nội cũng như đối ngoại.

Phát biểu chỉ đạo hội thảo, đồng chí Võ Văn Thưởng nhấn mạnh: HTKH là một trong những hoạt động lớn, trọng tâm, có ý nghĩa thiết thực trong chuỗi các sự kiện kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của đồng chí Lê Đức Anh. Những tham luận và ý kiến được trình bày tại hội thảo sẽ góp phần bổ sung những thông tin, tư liệu để khẳng định sâu sắc cuộc đời, sự nghiệp cách mạng sôi nổi, phong phú của đồng chí Lê Đức Anh; tôn vinh và tri ân công lao, cống hiến to lớn của đồng chí đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta; qua đó, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo; giáo dục lý tưởng cách mạng, truyền thống yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc; khích lệ các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ noi gương đồng chí Lê Đức Anh và các đồng chí lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng, cách mạng Việt Nam, ra sức học tập, lao động, cống hiến sức lực, trí tuệ để xây dựng quê hương đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh. 

Để hội thảo đạt được ý nghĩa, mục đích đã xác định, đồng chí Võ Văn Thưởng đề nghị các đại biểu, các nhà khoa học cần tập trung thảo luận, khẳng định cuộc đời, sự nghiệp cách mạng gian khổ nhưng vẻ vang của đồng chí Lê Đức Anh gắn liền với sự nghiệp đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Làm rõ công lao, cống hiến to lớn của đồng chí Lê Đức Anh đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, đặc biệt là đối với thắng lợi vĩ đại trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; thắng lợi trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc, cùng quân dân Campuchia chiến thắng chế độ diệt chủng Pôn Pốt. Phân tích và làm sâu sắc hơn những quan điểm, tư tưởng của đồng chí Lê Đức Anh về những vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, phát triển khoa học, nghệ thuật quân sự Việt Nam; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là Quân đội nhân dân vững mạnh toàn diện; củng cố quốc phòng; mở rộng quan hệ đối ngoại của đất nước. 

Đồng thời HTKH phải khẳng định những giá trị tinh thần, bài học kinh nghiệm từ cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi, phong phú và cuộc sống bình dị của đồng chí Lê Đức Anh, góp phần giáo dục, bồi dưỡng tinh thần yêu nước, hun đúc niềm tự hào dân tộc, truyền thống cách mạng của quê hương Thừa Thiên - Huế cho các thế hệ người Việt Nam, vận dụng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Thông qua kết quả hội thảo, cần đẩy mạnh tuyên truyền về cuộc đời, sự nghiệp cách mạng cũng như tấm gương học tập, phấn đấu, rèn luyện, cống hiến của đồng chí Lê Đức Anh cho đất nước, cho dân tộc; đồng thời tổ chức thêm các hoạt động thiết thực để mọi tầng lớp nhân dân hiểu thêm, hiểu rõ và tự hào về người lãnh đạo xuất sắc của cách mạng Việt Nam.   

Tin, ảnh ST