Thứ Năm, 28 tháng 10, 2021

Vạch trần âm mưu thâm độc - vin vào tình trạng tham nhũng số ít để "vơ đũa cả nắm", xuyên tạc, phủ nhận con đường đi lên CNXH ở Việt Nam

 

Vạch trần âm mưu thâm độc - vin vào tình trạng tham nhũng số ít để "vơ đũa cả nắm", xuyên tạc, phủ nhận con đường đi lên CNXH ở Việt Nam

Gần đây, các thế lực thù địch, phản động lợi dụng không gian mạng và các phương tiện thông tin đại chúng luôn tìm mọi cách bịa đặt, xuyên tạc trắng trợn lịch sử và hiện tại, phủ nhận những giá trị tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hòng mưu đồ xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội

Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội được Đảng và nhân dân ta lựa chọn là đúng đắn, được kiên trì, kiên định triển khai thực hiện suốt từ năm 1930 đến nay, nhờ đó, cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành chính quyền về tay nhân dân, làm nên những thắng lợi vĩ đại trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, rồi thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Những điều đó đã được lịch sử dân tộc minh chứng rất rõ ràng.

Mục đích của những kẻ tung ra các luận điệu xuyên tạc, vô căn cứ trên là rất rõ ràng. Nếu chưa thể xóa bỏ được chủ nghĩa xã hội, lái nước ta đi theo con đường khác - con đường tư bản chủ nghĩa, thì cũng làm cho quần chúng nhân dân hoài nghi, bi quan, dao động, suy giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.

Một trong những thủ đoạn thâm độc khác cũng được các thế lực thù địch, phản động sử dụng là chúng đã vin vào tình trạng tham nhũng, lãng phí, vi phạm kỷ luật, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên rồi lu loa và vơ đũa cả nắm rằng: Người lãnh đạo trong chế độ xã hội chủ nghĩa chỉ chuyên đi ăn chặn của dân, chuyên tham nhũng để làm giàu cho bản thân, gia đình mình, mặc cho dân đói khổ.

 

 

Khủng bố “phiên bản 2.0”

 Giai đoạn sau năm 1989, Việt Tân tiếp tục tuyển mộ, huấn luyện, chỉ đạo thành viên xâm nhập về Việt Nam kích động biểu tình, phá rối an ninh, bạo loạn, thủ tiêu, bắt cóc con tin; đưa người ra nước ngoài đào tạo, huấn luyện, tổ chức các khóa đào tạo trực tuyến về phương thức, hoạt động khủng bố, phá hoại; tán phát lên mạng Internet hướng dẫn cách chế tạo bom xăng để phục vụ hoạt động khủng bố, phá hoại, ám sát…  Mặc dù năm 1987, Hoàng Cơ Minh bị thương và đã tự sát. Năm 1991, chiến dịch "Đông tiến 3"  cũng bị thất bại nhưng Việt Tân vẫn lừa dối nhiều người Việt Nam ở nước ngoài không công bố thông tin này để vận động quyên góp tiền cho “kháng chiến”, có thông tin cho biết số tiền lên đến hàng trăm triệu USD nhưng chủ yếu rơi vào tay các cá nhân cầm đầu tổ chức này.Năm 2001, “tổ chức Mặt Trận” chính thức công bố sự thật về cái chết của Hoàng Cơ Minh. Năm 2004, tại Đức, tổ chức Mặt Trận tuyên bố giải tán và công khai hóa Việt Nam Canh tân Cách mạng Đảng (gọi tắt là Việt Tân).

Tháng 8-2006, Việt Tân đã tổ chức nhóm “sang sông”, thực chất là chiến dịch “Đông tiến 7”, và nhóm “liên minh dân tộc” với ý đồ đưa người về nước tiến hành các hoạt động khủng bố. Để thực hiện âm mưu này, Việt Tân đã từng bước công khai hóa tổ chức. Từ tháng  3 đến tháng 11-2007, Nguyễn Kim - chủ tịch “Việt Tân” đã chỉ đạo Nguyễn Hải tên gọi khác là Khunmi Somsak, Nguyễn Quang Phục, Nguyễn Quốc Hải ở Thái Lan 4 lần về Việt Nam khảo sát, thiết lập tuyến đường bí mật xâm nhập vào Việt Nam, móc nối cơ sở, tán phát truyền đơn, thuê nhà tìm địa điểm ẩn náu cho đồng bọn.

Đồng thời, cử Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Quốc Quân về nước bằng con đường bất hợp pháp; Nguyễn Thị Thanh Vân và Trương Leon về Việt Nam bằng con đường công khai, có nhiệm vụ chỉ đạo số đối tượng trong nước biểu tình, phá rối an ninh, bạo loạn nhằm gây hoang mang, uy hiếp tinh thần của một bộ phận người dân..., nhưng đã bị cơ quan an ninh điều tra của ta phát hiện và xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật. Nhóm đối tượng này đã được đồng bọn trong nước cung cấp tên 40 công ty và 7.000 địa chỉ người thân nhận thư, 1.000 USD để mua thiết bị máy in, usb, tem, bì thư... để tin 7.000 tờ truyền đơn. 

Một vụ việc khác tinh vi hơn đã được Báo An ninh Thế giới Online đưa tin là việc “Việt Tân” tổ chức cho Phạm Minh Hoàng, thành viên của “Việt Tân” tại Pháp về Việt Nam làm giảng viên hợp đồng của một trường Đại học tại TP Hồ Chí Minh. Dưới bút danh Phan Kiến Quốc, tên Hoàng đã viết nhiều bài. Trong đó, 33 bài viết có nội dung xuyên tạc chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam rồi gửi cho tổ chức khủng bố Việt Tân đăng tin, tán phát trên mạng internet nhằm mục đích kích động, lôi kéo người dân biểu tình. Tháng 8-2011, Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh đã đưa ra xét xử, tuyên bố Hoàng phạm tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”. Sau khi ra tù, Hoàng tiếp tục hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia nên đã bị Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tước quốc tịch, trục xuất về Pháp vào giữa năm 2017. 

Tiếp đó, từ tháng 8-2009 đến tháng 11-2011, “Việt Tân” tổ chức đưa 17 đối tượng là cơ sở trong nước nhiều lần sang Thái Lan, Campuchia, Lào, Philippines và Mỹ để các thành viên của “Việt Tân” huấn luyện phương thức hoạt động. Ngày 2-8-2011, khi các đối tượng nhập cảnh về Việt Nam thì bị cơ quan an ninh Bộ Công an phát hiện, bắt giữ và khởi tố 17 bị can; đề nghị truy tố 14 bị can, truy nã 3 bị can. Ngày 11-11-2019, Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm 6 bị cáo về các tội: "Khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân," "Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức." Trong vụ án này, 3 bị cáo: Châu Văn Khảm (sinh năm 1949, quốc tịch Việt Nam, Australia), Nguyễn Văn Viễn (sinh năm 1971, trú tại thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam), Trần Văn Quyền (sinh năm 1999, trú tại huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh) bị truy tố về tội "Khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân" theo quy định tại Điều 113, khoản 2, điểm a, Bộ luật Hình sự năm 2015. Ba bị cáo còn lại là Bùi Văn Kiên, Trần Thị Nhài và Nguyễn Thị Ánh bị truy tố về tội "Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức" do đã có hành vi làm giả nhiều chứng minh nhân dân, hồ sơ xin việc làm cho các đối tượng trong vụ án. Với những bằng chứng xác đáng, Hội đồng xét xử Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tuyên phạt Châu Văn Khảm 12 năm tù; Nguyễn Văn Viễn 11 năm tù và Trần Văn Quyền 10 năm tù (cả hai bị quản thúc 5 năm sau khi mãn hạn tù). Các bị cáo còn lại Bùi Văn Kiên bị kết án 4 năm tù, Nguyễn Thị Ánh 3 năm tù, Trần Thị Nhài 3 năm tù.

Không dừng lại ở đó, trong năm 2019, số cầm đầu “Việt Tân” tại Mỹ còn chỉ đạo số đối tượng tại TP Hồ Chí Minh tính toán khả năng thực hiện một số hoạt động phá hoại ở Việt Nam vào các dịp lễ lớn. Ban đầu, Việt Tân chủ trương tiến hành đặt bom phá hoại một số tượng đài ở TP Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, sau đó, các đối tượng đã thay đổi kế hoạch nhằm vào TP Hà Nội theo 3 hướng. Hướng thứ nhất là đặt bom trong thùng rác công cộng ở một số địa điểm quan trọng, tập trung là khu vực trung tâm của Hà Nội. Phương án hai là kích động một số đối tượng cực đoan, quá khích tập trung gây “náo loạn” trước khu vực trung tâm chính trị nhằm tạo điểm nóng, thu hút sự chú ý của lực lượng an ninh để các đối tượng khác tiến hành đánh bom theo kế hoạch. Sau đó, bố trí ghi hình, tung lên mạng xã hội tất cả các hoạt động nhằm gây tiếng vang, vu cáo chính quyền Việt Nam “đàn áp khủng bố” các nhà “hoạt động dân chủ”, “bất đồng chính kiến”.

Đầu tháng 8-2019, trên cơ sở khuyến nghị của lực lượng đặc nhiệm tài chính (FATF) về chống rửa tiền và tài trợ khủng bố và đề nghị của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Bộ Công an đã công bố danh sách tổ chức, cá nhân liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố.

Ngoài danh sách tổ chức, cá nhân liên quan đến khủng bố, tài trợ khủng bố do Việt Nam chỉ định đã công bố là “Tổ chức khủng bố Việt Tân” và “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời”, Bộ Công an bổ sung thêm Danh sách tổ chức, cá nhân liên quan đến khủng bố và tài trợ khủng bố do Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc chỉ định. Danh sách những tổ chức, các nhân này đã được thông báo công khai trên trang web của Bộ Công an.

Vạch trần âm mưu thâm độc, xuyên tạc về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam

 

Vạch trần âm mưu thâm độc, xuyên tạc về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam

Các thế lực thù địch, phản động luôn tìm mọi cách bịa đặt, xuyên tạc trắng trợn lịch sử và hiện tại, phủ nhận những giá trị tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Mưu đồ xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội

Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội được Đảng và nhân dân ta lựa chọn là đúng đắn, được kiên trì, kiên định triển khai thực hiện suốt từ năm 1930 đến nay, nhờ đó, cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành chính quyền về tay nhân dân, làm nên những thắng lợi vĩ đại trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, rồi thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Những điều đó đã được lịch sử dân tộc minh chứng rất rõ ràng.

Ấy vậy mà hiện nay vẫn có những giọng điệu lạc lõng của các thế lực thù địch, phản động đòi Đảng ta, nhân dân ta phải từ bỏ mục tiêu, con đường đã chọn và đi theo con đường khác, vì họ cho rằng đó là "con đường sai lầm, dẫn dân tộc đến đường cùng, ngõ cụt". Họ cũng rêu rao rằng: "Kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội", kiên định với "chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh" là "lạc nhịp", "lỗi thời".

Thủ đoạn họ thường dùng là tạo dựng, xuyên tạc bản chất, nền tảng tư tưởng của Đảng, thông tin sai sự thật, "lập lờ đánh lận con đen" về tình hình đất nước, rồi tung lên các nền tảng mạng xã hội và một số website, tờ báo nước ngoài có tư tưởng chống phá Việt Nam.

Danlambao là một trang mạng chuyên đăng tải bài viết của các thế lực thù địch,phản động chống lại sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hồi tháng 5/2020, trang này có đưa bài của Nguyễn Dân - một kẻ luôn đưa ra những nhận thức ấu trĩ, thiếu khách quan, cố tình bóp méo sự thật tình hình đất nước. Với những lời lẽ bịa đặt, thông tin thì cắt ghép khiên cưỡng, bài viết này đã bôi nhọ về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.

Kẻ này xuyên tạc rằng: "Đảng cộng sản dốc tâm lo xây dựng chủ nghĩa xã hội để nắm giữ lợi quyền. Để độc quyền cai trị. Để có cơ nhũng lạm, cướp bóc, làm giàu cho cá nhân, phe nhóm, vinh sang cho một đảng trị vì khiến đất nước cứ mãi lạc hậu đói nghèo". Tất nhiên, sẽ không một ai tin vào những lời lẽ vô lối, hằn học này.

Đây là một bài viết trên kênh VOA Tiếng Việt hồi tháng 11 năm ngoái. Bài này đã bịa đặt, xuyên tạc lố bịch, thổi phồng về tình hình nhân quyền ở Việt Nam, rêu rao rằng ai đấu tranh cho tự do dân chủ và nhân quyền đều bị trấn áp, bắt bớ, bỏ tù với những bản án hết sức nặng nề. Trong khi thực tế thì đó là những công dân vi phạm pháp luật.

Họ còn tung ra những cáo buộc vô căn cứ như là: các giá trị đạo đức, văn hóa, những dân chủ nhân quyền chỉ là lời có cánh, nói xong là bay chứ không có trong hiện thực cuộc sống. Trong một tâm địa xấu xa, những kẻ này quả thực có trí "tưởng tượng" phi thường.

Phải có kỷ cương, kỷ luật thì mới đảm bảo được dân chủ một cách thực chất. Nếu không sẽ dẫn đến lợi dụng nhân quyền, lợi dụng dân chủ để chống phá hoặc vì các mưu đồ cá nhân.

Thời gian qua, các thế lực thù địch dùng mọi biện pháp để đánh vào nền tảng tư tưởng của Đảng ta, hòng gây hoang mang dao động về hệ tư tưởng, về lý tưởng xã hội chủ nghĩa.

Họ tung ra những quan điểm như là "Chủ nghĩa xã hội chỉ là phương tiện cứu nước, giành độc lập dân tộc, và khi giành độc lập rồi thì cần phải thay đổi phương tiện". Hay là "chế độ xã hội chủ nghĩa của Việt Nam hoàn toàn không có bình đẳng xã hội, không có an sinh, phúc lợi xã hội gì cả, mọi thứ đều phải trả tiền".

Đây thực chất là những luận điệu phi lịch sử, phản khoa học và phản động.

Tìm mọi cách bịa đặt, xuyên tạc trắng trợn lịch sử và hiện tại, phủ nhận những giá trị tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội đang hiện hữu ở Việt Nam... - mưu đồ trước mắt và lâu dài không thay đổi của các thế lực thù địch, phản động là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội.

Nhưng đáng buồn là trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội. Thậm chí, có người còn phụ họa với các luận điệu thù địch, công kích, bài bác chủ nghĩa xã hội, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản.

Những người phụ họa với các luận điệu thù địch, công kích, bài bác chủ nghĩa xã hội, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản

Xuyên tạc, bóp méo về mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Một trong những nội dung thường xuyên bị các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc, phê phán, bóp méo đó là mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Họ cho rằng, không có cái gọi là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế thị trường là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản.

Họ còn cao giọng rằng, kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa là những yếu tố đối lập nhau, loại trừ nhau; Gán ghép định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường là chủ quan, duy ý chí, không có cơ sở khoa học, không thuyết phục.

Nhưng thực tế thì sao? Những thành quả phát triển kinh tế trong 35 năm qua của một đất nước đã phải trải qua 3 thập kỷ bị chiến tranh tàn phá, gần 1 thế kỷ bị thực dân đô hộ rõ ràng là minh chứng thuyết phục nhất để bác lại những nhận định bóp méo sự thật trên.

Các chuyên gia cũng đã nhiều lần khẳng định: đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới.

Thực tiễn 35 năm đổi mới, Đảng ta đã ban hành nhiều Nghị quyết khẳng định vai trò và vị thế của kinh tế tư nhân.

Nghị quyết số 10, Hội nghị Trung ương 5 Khóa XII đã xác định "kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế".

Và mới đây, Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: Phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân cả về số lượng, chất lượng, hiệu quả, thực sự trở thành một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế.

Trong những năm qua, khu vực kinh tế tư nhân đã tạo ra khoảng 40% GDP, 30% ngân sách Nhà nước và thu hút khoảng 85% lực lượng lao động. Những thay đổi trong chủ trương, chính sách đã tạo ra những thành tựu to lớn trong sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta.

Thế nhưng trong một bài viết mới đây, trang VOA tiếng Việt, vẫn hàm hồ bình luận rằng, việc lựa chọn nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là bóp nghẹt kinh tế tư nhân, và không có tự do cạnh tranh.

Tất cả các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta vừa hợp tác với nhau, vừa cạnh tranh với nhau bình đẳng, lành mạnh. Không có chuyện hạn chế cạnh tranh, hạn chế sự phát triển của kinh tế tư nhân.

Nhiều phần tử xấu cũng xuyên tạc về mô hình mà Việt Nam lựa chọn để phát triển. Cho rằng đây là một khái niệm mơ hồ, không có trong thực tế. Nhất là vào thời điểm chuẩn bị diễn ra Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, các thế lực thù địch đã bình luận rằng: Kinh tế thị trường và xã hội chủ nghĩa khác nhau như nước với lửa; Không có nền kinh tế thị trường nào lại có thể kết hợp cùng xã hội chủ nghĩa.

Đây là một sự gán ghép khiên cưỡng, kìm hãm thể chế thị trường và kìm hãm cải cách. Tất cả nhằm mục đích làm giảm lòng tin của nhân dân vào con đường phát triển kinh tế mà Đảng đã lựa chọn.

 

Kế hoạch ngông cuồng

 Hoàng Cơ Minh và đồng bọn xác định: Hướng xâm nhập, xây dựng "mật cứ" trong nội địa là các tỉnh miền Trung - Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Chúng hy vọng sẽ móc nối với các tổ chức phản động ở trong nước, đưa người vào rừng huấn luyện rồi tung trở lại thực hiện phương châm "Trong nổi dậy, ngoài đánh vào".
Tư liệu của Bộ Công an cho biết, từ năm 1982 - 1989, "Việt Tân" đã tổ chức nhiều đợt đưa người và vũ khí xâm nhập vào lãnh thổ Việt Nam; tiến hành các chiến dịch "Đông tiến 1", "Đông tiến 2", "Đông tiến 3"… qua đất Lào, Campuchia. Mặc dù Hoàng Cơ Minh cùng những kẻ cầm đầu "Việt Tân" xây dựng kế hoạch công phu, tổ chức xâm nhập với điều kiện, trang bị hoàn hảo, nhưng toán "Kháng quản" là toán xâm nhập mở đường, chưa kịp lập "mật cứ", thì đã bị cơ quan an ninh Việt Nam tóm gọn.
Tiếp đó, chiến dịch "Đông tiến 1" do Dương Văn Tư cầm đầu gồm 51 tên xâm nhập ngày 15-5-1986. Mục đích của chuyến đi mở đường là lập một “mật khu” khô tại Gia Lai-Kon Tum, móc nối với những tên làm việc cho chế độ Mỹ-ngụy chưa chịu cải tạo, tổ chức ám sát cán bộ, đánh phá các đồn biên phòng, các nông, lâm trường, chặn đánh xe vận tải trên các tuyến đường cao nguyên. Tuy nhiên, mọi chuyển động và những hành tung của toán biệt kích này không thoát khỏi tai mắt nhân dân trên đường xâm nhập Việt Nam. Trong suốt hơn 4 tháng hành quân, bọn chúng đi được không quá 300 cây số đường rừng và liên tục bị các lực lượng vũ trang Việt Nam, Lào và Campuchia truy đuổi, bao vây. Một số tên bị tiêu diệt, số còn lại đã giết lẫn nhau để đoạt tiền, vàng rồi bỏ trốn khỏi đội hình.Đám tàn quân được phái đi nhiều tên bị diệt, một số bị bắt, những tên ngoan cố bỏ chạy cũng bị truy kích và phải đầu hàng, nhưng Hoàng Cơ Minh vẫn hò hét “Đông Tiến” giải phóng Việt Nam để tiếp tục lòe bịp dư luận và bà con kiều bào sống xa quê hương. Ngày 7-7-1987, Hoàng Cơ Minh đích thân chỉ huy toàn bộ lực lược gần 150 tên thực hiện chiến dịch "Đông tiến 2", xâm nhập vào Tây Nguyên để xây dựng "mật cứ". Nhưng khi mới vào đất Lào, chúng bị lực lượng vũ trang Lào phối hợp với bộ đội Việt Nam chặn đánh. Trong trận đánh cuối cùng ngày 28-8-1987, Hoàng Cơ Minh đã phải phơi xác cùng đám tàn quân. Kết cục, "Đông tiến 2" hoàn toàn thất bại với 60 tên bị tiêu diệt, 67 tên bị bắt sống…
Ngày 1-12-1987, Tòa án nhân dân tối cao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mở phiên tòa sơ thẩm đồng thời là chung thẩm xét xử công khai vụ án Hoàng Cơ Minh, với tội danh phản bội tổ quốc và hoạt động phỉ. Hàng ngàn người, trong đó có đoàn đại biểu Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân hai nước bạn Lào, Campuchia cũng có mặt theo dõi phiên tòa.
Mặc dù Hoàng Cơ Minh đã bị tiêu diệt, nhưng ảo vọng “lật đổ và giành chính quyền” vẫn được nhóm tàn quân của Việt Tân nhen nhóm thực hiện bằng chiến dịch "Đông tiến 3", do Trần Quang Đô chỉ huy. Ngày 22-8-1989 Trần Quang Đô cùng 68 tên khác âm mưu xâm nhập Quảng Trị - Quảng Nam - Đà Nẵng - Gia Lai - Kon Tum xây dựng căn cứ, sau đó phát triển lực lượng xuống đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, khi chúng vừa vào đất Lào thì bị quân và dân Lào truy quét quyết liệt phải chịu kết cục bi thảm với 30 tên ngoan cố bị tiêu diệt, 38 tên còn lại bị bắt sống.

Nhận diện một số quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin hiện nay

 

Nhận diện một số quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin hiện nay

Để chống phá chủ nghĩa Mác - Lê-nin, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị tung ra rất nhiều quan điểm, luận điệu khác nhau, bằng nhiều phương thức, thủ đoạn khác nhau. Sau đây xin nêu lên một số quan điểm đó:

Một là, có quan điểm vin vào yếu tố thời đại để phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Quan điểm đó cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lê-nin chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, hoặc cùng lắm là đầu thế kỷ XX, nó chỉ thích hợp với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và lần thứ hai, chỉ thích hợp với văn minh cơ khí, còn bây giờ nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI - là thời đại của cách mạng khoa học - công nghệ, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, văn minh tin học, kinh tế tri thức, kinh tế số, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế nên không còn thích hợp nữa, chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã bị lỗi thời (!).

Đúng là thời đại mà chúng ta đang sống khác rất nhiều so với thời đại của Mác - Ăng-ghen - Lê-nin, đã có nhiều biến đổi to lớn, sâu sắc về kinh tế, xã hội, nhất là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ. Không nhận thức được những biến đổi to lớn của thời đại sẽ không hiểu đúng bản chất của thời đại. Tuy nhiên, những biến đổi đó không vượt ra ngoài những quy luật, những nguyên lý chung nhất mà C. Mác đã khám phá ra. Chẳng hạn, đó là những quy luật phổ biến của phép biện chứng duy vật, những quy luật phổ biến của sự phát triển xã hội loài người, như quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, kinh tế xét đến cùng quyết định chính trị, quy luật đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp, quy luật giá trị thặng dư, những nguyên lý khoa học về nhà nước, cách mạng xã hội, về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân...

Đứng trên quan điểm khách quan, có một số luận điểm cụ thể của Mác, Ăng-ghen, Lê-nin không còn phù hợp với điều kiện lịch sử mới, đã bị thực tiễn lịch sử vượt qua, song những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác  - Lê-nin, bản chất khoa học và cách mạng vẫn giữ nguyên giá trị cần phải bảo vệ. Hoàn cảnh lịch sử cụ thể luôn luôn thay đổi, song những quy luật phát triển cơ bản, phổ biến của lịch sử loài người mà chủ nghĩa Mác - Lê-nin nêu lên là không thay đổi, có giá trị trường tồn. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn là lý luận và phương pháp luận khoa học cho sự nhận thức xã hội, nhận thức thời đại mà không một học thuyết nào có thể thực hiện được vai trò đó.

Đảng ta đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (Trong ảnh: Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc thăm hỏi tình hình sản xuất và đời sống của công nhân Khu công nghiệp VSIP Bắc Ninh) _Nguồn: baochinhphu.vn

Hai là, có quan điểm cho rằng chủ nghĩa Mác - Lê-nin không phải là sản phẩm của Việt Nam, nó là “ngoại lai”, “ngoại nhập” từ phương Tây, không phù hợp với Việt Nam là một xã hội phương Đông, kinh tế lạc hậu; thậm chí có ý kiến nói “du nhập chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử”, do đó “cần phải từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin”(?).

Quan điểm trên đây là sai lầm vì không hiểu được sức mạnh của sự trừu tượng hóa, khái quát hóa của lý luận Mác - Lê-nin. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là lý luận khoa học nên cũng giống như các khoa học khác (kể cả khoa học tự nhiên) có giá trị phổ quát, vượt biên giới quốc gia - dân tộc, còn khi áp dụng nó đương nhiên phải chú ý đến điều kiện lịch sử cụ thể của từng quốc gia - dân tộc để tránh giáo điều, máy móc. Mặc dù chủ nghĩa Mác có nguồn gốc lý luận trực tiếp từ các nước phương Tây, như Đức (về triết học), Anh (về kinh tế chính trị), Pháp (về lý luận chủ nghĩa xã hội), nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”, không thể cấm bổ sung chủ nghĩa Mác bằng dân tộc học phương Đông. Nhưng khi nói vậy, Người vẫn khẳng định “chủ nghĩa Mác sẽ còn đúng cả ở đó”(2)  - tức ở phương Đông. Những quy luật của chủ nghĩa Mác vạch ra không chỉ đúng với các nước phát triển mà còn đúng cả với các nước kém phát triển. Vì, về mặt phương pháp luận như C.  Mác đã từng chỉ ra, trong cái phát triển cao chứa đựng cái phát triển ở trình độ thấp hơn dưới dạng lọc bỏ.

Mặt khác, nếu thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý thì những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam từ khi chủ nghĩa Mác  - Lê-nin được truyền bá vào Việt Nam - một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, lạc hậu, kém phát triển nhưng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo, đưa đến thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thắng lợi của kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, tiến hành đổi mới mạnh mẽ, toàn diện đất nước.

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam có nhiều đổi mới về tư duy lý luận, đã nhận thức lại chủ nghĩa Mác - Lê-nin theo tinh thần khẳng định sức sống, giá trị bền vững của những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đồng thời loại bỏ những nhận thức không đúng, ấu trĩ, giáo điều về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, về chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới trên một loạt vấn đề, như mục tiêu, đặc trưng và phương hướng cơ bản của xây dựng chủ nghĩa xã hội, vấn đề phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,... đó là những vấn đề không có sẵn trong di sản kinh điển mác-xít. Không có sự vận dụng, phát triển sáng tạo đó thì không có được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà nhân dân Việt Nam đạt được trong gần 35 năm đổi mới.

Ba là, có quan điểm sai lầm đem đối lập chủ nghĩa Mác với chủ nghĩa Lê-nin, đối lập C. Mác với V.I. Lê-nin để phủ nhận cả chủ nghĩa Mác lẫn chủ nghĩa Lê-nin, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin nói chung. Họ viện dẫn ra sự “đối lập” là C. Mác và Ph.  Ăng-ghen cho rằng, cách mạng vô sản phải nổ ra đồng thời trong các nước tư bản, ít ra là trong các nước tư bản phát triển, còn V.I. Lê-nin lại cho rằng cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể nổ ra và thành công ở một số nước, thậm chí ở một nước riêng lẻ, còn lạc hậu, còn nhiều tàn tích của chế độ nông nô như nước Nga.

Thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã chứng minh tính đúng đắn của quan điểm và phương pháp của V.I. Lê-nin. Sự đối lập giữa C. Mác với V.I.  Lê-nin mà họ dựng lên là giả tạo, bịa đặt. V.I. Lê-nin là người mác-xít, ông đã tự nhận mình là học trò của Mác: Chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa Lê-nin thống nhất với nhau về bản chất. Chủ nghĩa Lê-nin là chủ nghĩa Mác trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản. C.  Mác và V.I. Lê-nin sống ở hai thời đại khác nhau, C. Mác sống ở thời kỳ chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn tự do cạnh tranh, còn đến V.I. Lê-nin chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, khi đó cách mạng vô sản, phong trào giải phóng dân tộc nổi lên, mỗi ông phải giải quyết những nhiệm vụ do thời đại của mình đặt ra. V.I. Lê-nin không thể máy móc, giáo điều ngồi chờ cho cách mạng vô sản nổ ra đồng thời ở các nước tư bản phát triển được, mà phải chủ động nhận thức thời cơ, tình thế cách mạng và tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga. V.I. Lê-nin trung thành với chủ nghĩa Mác trong bản chất cách mạng, khoa học, biện chứng, chứ không phải trung thành một cách máy móc bởi vì học thuyết của các ông không phải giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động.

Bốn là, có quan điểm đem đối lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin với tư tưởng Hồ Chí Minh để phủ nhận cả chủ nghĩa Mác - Lê-nin lẫn tư tưởng Hồ Chí Minh.

Quan điểm trên đây là sai lầm cả về lịch sử và lô-gic. Về mặt lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh có cội nguồn và được hình thành từ việc tiếp thu các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin chính là nguồn gốc lý luận quan trọng nhất, là cơ sở chủ yếu nhất để hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Thông qua hoạt động trí tuệ và thực tiễn sáng tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lê-nin để nghiên cứu thực tiễn và tìm ra con đường cách mạng Việt Nam, vượt lên trước những nhà yêu nước đương thời, khắc phục được sự khủng hoảng về con đường tiến lên của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng sáng tạo, phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong điều kiện lịch sử mới. Như vậy, về mặt lô-gic, về bản chất, tư tưởng Hồ Chí Minh thống nhất với chủ nghĩa Mác - Lê-nin chứ không có sự đối lập như một số người tưởng tượng ra. Và do đó cũng không có cái gọi là “cuộc nội chiến về tư tưởng giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lê-nin” từ năm 1930 đến nay ở Việt Nam như có người nhận định. Một số người nhân danh đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh để hạ thấp, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Họ nói tư tưởng Hồ Chí Minh mới là sản phẩm của Việt Nam, có nguồn gốc Việt Nam, còn chủ nghĩa Mác - Lê-nin là “ngoại lai”, “ngoại nhập”, không phù hợp với Việt Nam, thậm chí có người muốn đưa chủ nghĩa Mác - Lê-nin ra khỏi nền tảng tư tưởng của Đảng ta, chỉ giữ lại tư tưởng Hồ Chí Minh (!). Quan điểm đó nhân danh đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, song thực chất, trực tiếp và gián tiếp chính là nhằm phủ nhận cả tư tưởng Hồ Chí Minh, bởi trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã có chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Đảng ta xác định nền tảng tư tưởng của Đảng gồm chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là rất đúng đắn, phù hợp, thể hiện mối quan hệ biện chứng, thống nhất, gắn bó giữa hai bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng.

Năm là, có quan điểm đem quy sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là do sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, “sai lầm từ gốc, từ bản chất của học thuyết” (!).

Chúng ta thấy rằng, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội  - mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung, quan liêu, bao cấp, hành chính, mệnh lệnh, xa rời quần chúng nhân dân với nhiều khuyết tật, chứ không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung. Sự sụp đổ ấy có nguyên nhân khách quan và chủ quan, bên trong và bên ngoài, sâu xa và trực tiếp. Chính những khuyết tật của mô hình chủ nghĩa xã hội đó không được phát hiện và khắc phục kịp thời, tồn tại kéo dài, tích tụ lại đã đẩy xã hội Xô-viết đến sự sụp đổ. Sự sai lầm về đường lối cải tổ của lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô trước đây - cả đường lối kinh tế, chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ và đối ngoại, sự phản bội lại lý tưởng xã hội chủ nghĩa của một số lãnh đạo cao nhất trong Đảng cùng với âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc, sự chống phá của các thế lực thù địch là những nguyên nhân trực tiếp. Không thể quy sự sụp đổ của Liên Xô vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Chính sự nhận thức sai, vận dụng sai, sự phản bội lại chủ nghĩa Mác - Lê-nin của một số người cao nhất trong ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô là nguyên nhân chủ yếu. Vì vậy, quyết không được đồng nhất những sai lầm đó với bản thân chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Tại sao công cuộc cải cách, mở cửa của Trung Quốc, công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế của Việt Nam lại đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng? Cải tổ sẽ không thất bại nếu Đảng Cộng sản Liên Xô có đường lối cải tổ đúng đắn, trung thành và sáng tạo trong vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa, có bản lĩnh chính trị vững vàng, cảnh giác với âm mưu và hoạt động chống phá chủ nghĩa xã hội của các thế lực đế quốc thù địch, nếu xây dựng Đảng và Nhà nước vững mạnh, trong sạch, gắn bó mật thiết với nhân dân, chống được quan liêu, tham nhũng... Bài học về sự sụp đổ của Liên Xô nay đã trải qua 30 năm song vẫn là lời cảnh báo thường xuyên đối với các đảng cộng sản đang cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa để tránh đi vào “vết xe đổ” của Liên Xô.