Chủ Nhật, 28 tháng 11, 2021
'Nuốt cá lớn'
Sống lâu hay sống sâu
Căn tính của dân tộc
Đại học dạy gì?
Lối áp đặt lỗi thời
Những thành tựu nổi bật mà đất nước và nhân dân Việt Nam đã đạt được trong hơn 90 năm qua đã chứng minh cho sự lãnh đạo và vai trò lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đạo đức cách mạng trong giai đoạn mới
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi đạo đức cách mạng là tiêu chí hàng đầu, là “gốc” của người cán bộ, đảng viên. Nâng cao đạo đức có nghĩa là củng cố vững chắc hơn phẩm chất và tư cách của người cán bộ, đảng viên vì lợi ích chung của Đảng và của dân tộc. Đạo đức cách mạng là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc.
Chặng đường đổi mới đất nước đặt ra nhiều thách thức mới từ vị trí cầm quyền của Đảng và những trách nhiệm lớn lao của mỗi cán bộ đảng viên, đặc biệt với lãnh đạo càng giữ chức vụ lãnh đạo cao, càng phải có quyết tâm mới để vượt qua hoàn cảnh và vượt qua chính mình trước những cám dỗ vật chất, lợi ích cá nhân và tham vọng quyền lực.
Nhiều đồng chí đã giữ vững truyền thống đạo đức cách mạng của Đảng, hết lòng vì sự phát triển của đất nước, vì hạnh phúc của nhân dân. Nhưng cũng có một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp đã thiếu sự tu dưỡng, rèn luyện, học tập dẫn tới sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Theo tổng kết của Ban chỉ đạo Trung ương phòng chống tham nhũng từ năm 2013 tới nay, đã có hơn 110 cán bộ cấp cao suy thoái về đạo đức. Trong đó, có tới 27 ủy viên, nguyên ủy viên Trung ương Đảng; 4 ủy viên, nguyên ủy viên Bộ Chính trị; hơn 30 sỹ quan cấp tướng bị kỷ luật, có những người bị khởi tố hầu tòa và nhận các bản án nhiều chục năm do tham ô, tham nhũng để lại những hệ lụy nghiêm trọng, làm thất thoát tài sản của Nhà nước, làm mất lòng tin của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên.
Với sự phát triển kinh tế - xã hội và sự hội nhập quốc tế ngày càng cao của đất nước, để nâng cao đạo đức cách mạng, mỗi cán bộ đảng viên cần phải tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định lý tưởng mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, luôn phấn đấu rèn luyện không ngừng vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh; không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi nâng cao trình độ, năng lực công tác; nghiêm túc thực hành phê bình và tự phê bình; kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm sai trái thù địch; tích cực tham gia đấu tranh, ngăn chặn những hành vi tham nhũng, lãng phí tài sản của Nhà nước và xã hội; gương mẫu thực hiện vai trò, trọng trách của mình trong công việc, đặt quyền lợi của nhân dân lên trên hết, cố gắng học hỏi, rèn luyện tu dưỡng đạo đức để xứng đáng đứng trong hàng ngũ của Đảng.
XT st
Bỏ 'Tiên học lễ...' trong giáo dục có khác gì chưa trồng cây đã chặt hết gốc rễ?
Bối cảnh thời đại mới, 'Lễ' vừa là nền tảng đạo đức, văn hóa giao tiếp, là kỹ năng tư duy… Nếu hiểu được như thế, đâu nhất thiết cần phải bỏ 'Lễ' mới phát triển giáo dục, khai phóng tư duy con người.
Mấy ngày nay dư luận xã hội, đặc biệt là những người quan tâm đến giáo dục lại được dịp xôn xao xung quanh quan điểm đề xuất bỏ khẩu hiệu "Tiên học lễ, hậu học văn" của GS.TSKH Trần Ngọc Thêm tại Hội thảo giáo dục 2021 với chủ đề "Văn hóa học đường trong bối cảnh đổi mới giáo dục và đào tạo".
Theo lập luận của GS. Thêm, khẩu hiệu này là sản phẩm của nền giáo dục Nho giáo, phục vụ cho mục tiêu đào tạo người thừa hành, coi việc đòi hỏi người dưới phải giữ lễ và phục tùng với người trên là yêu cầu số một. Vì vậy cần phải chấm dứt khẩu hiệu này để khai mở tư duy phản biện, giải phóng sức sáng tạo…
Hai quan điểm cách tư duy khác nhau về "Lễ"
Nhìn lại lịch sử các quan điểm, ý kiến tranh luận, đối thoại về việc cần xây dựng một tôn chỉ, một triết lý đúng đắn cho giáo dục Việt Nam thì thấy không phải đến bây giờ, khi GS.TSKH Trần Ngọc Thêm lên tiếng, chủ đề bỏ khẩu hiệu "Tiên học lễ, hậu học Văn" mới được đề cập.
Trên tạp chí Văn hóa nghệ thuật (số 31, tháng 7/1973), GS. Nguyễn Lân đã băn khoăn: "Có nên vận dụng phương châm: 'Tiên học lễ, hậu học văn' trong việc giáo dục thế hệ trẻ của ta ngày nay không?".
Từ đó cho đến nay, sau hơn 30 năm với nhiều thay đổi, biến động trong đời sống kinh tế-chính trị-xã hội, chủ đề giữ hay bỏ khẩu hiệu quen thuộc này lại được những nhà nghiên cứu văn hóa, những người làm công tác giáodục có uy tín, trách nhiệm đặc biệt quan tâm.
Gần đây nhất, tại hội thảo "Xây dựng môi trường văn hóa trường học" do Bộ Giáo dục & Đào tạo (ngày 12/10/2016), các đại biểu cũng có những bàn luận sôi nổi xung quanh chủ đề sử dụng khẩu hiệu ở các trường học, trong đó có vấn đề cần xem xét lại tính đúng đắn và phù hợp của khẩu hiệu "Tiên học lễ, hậu học văn".
Lược thuật các cuộc trao đổi, tranh luận xoay quanh chủ đề nói trên để thấy được câu chuyện đi tìm kiếm một triết lý giáo dục phù hợp với từng bối cảnh lịch sử luôn là điều cần thiết và là trăn trở rất đáng quý của những người có tâm huyết với giáo dục nước nhà.
Trở lại với vấn đề: nên chấm dứt hoặc cần xem lại khẩu hiệu "Tiên học lễ, hậu học văn" hay giữ gìn và phát huy tinh thần của khẩu hiệu ấy trong bối cảnh giáo dục hiện nay, có thể thấy vẫn tồn tại hai chiều hướng ý kiến xuất phát từ những điểm nhìn, cách tư duy khác nhau.
Chiều hướng đề xuất chấm dứt hay xem lại khẩu hiệu trên chủ yếu xuất phát từ quan điểm cần loại bỏ dần những tư tưởng lỗi thời của giáo dục Nho giáo trong bối cảnh thời đại mới, cần đề cao việc phát huy tính dân chủ và tư duy phản biện tích cực trong giáo dục, không nên duy trì những khẩu hiệu cũ kỹ, giáo điều gây cản trở sự vận động không ngừng của giáo dục nói riêng cũng như sự phát triển của văn hóa xã hội nói chung.
Chiều hướng đề xuất phải duy trì và phát huy tinh thần của khẩu hiệu "Tiên học lễ, hậu học văn" thì bảo vệ quan điểm phải lấy giáo dục đạo đức làm gốc, đi đến hiện đại không nhất thiết phải chối bỏ truyền thống, duy trì việc học "Lễ" không ảnh hưởng gì đến việc khai mở tư duy và giải phóng sức sáng tạo của người học…
"Lễ" đâu chỉ là những nguyên tắc cứng nhắc
Với tư cách là người học và cũng là người dạy, là một thầy giáo dạy môn Ngữ văn ở bậc Trung học phổ thông, người viết bài này, dù có tâm thế tranh luận và tự thấy chưa đủ kiến thức lý luận để tham gia vào những cuộc tranh luận nói trên, nhưng cũng không khỏi băn khoăn, trăn trở trước đề xuất cần chấm dứt khẩu hiệu "Tiên học lễ, hậu học văn"…
Thử hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu như trồng một cái cây mà không chăm gốc rễ, giáo dục một con người mà không chú trọng vào đạo đức, nhân cách, ứng xử…? Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người".
Từ lời dạy của Người khiến ta không khỏi có những liên tưởng và suy ngẫm: "trồng người" cũng như "trồng cây", đó không phải quá trình ngày một ngày hai, không thể dùng biện pháp "bứng", "chiết" hay "đốt cháy giai đoạn".
Để thu hoạch, khai thác được một cái cây có thể ta chỉ cần năm năm, mười năm, nhưng để đánh giá được thành quả giáo dục đối với một con người, rộng ra là một xã hội, một đất nước thì quá trình đó kéo dài cả trăm năm và đôi khi phải trải qua nhiều thế hệ mới nhìn thấy rõ.
Có khi nào trước nhu cầu phát triển và đổi mới bức thiết, những người có tâm huyết và nhiệt tình đã vội vàng chấp nhận đánh đổi các giá trị nền tảng để với mong muốn xây nhanh những giá trị mới với kết cấu ngược chiềucủa một tòa kim tự tháp.
Đành rằng không phải cái gì tồn tại cả nghìn năm cũng là hiển nhiên đúng, điều đó đồng nghĩa với việc khẩu hiệu "Tiên học lễ, hậu học văn" không phải là nhất thành bất biến. Nhưng chắc chắn, khi một tư tưởng, một hệ giá trị mới được xác lập, nó cần có sự bảo chứng của thời gian. Và nên chăng, trong lúc chờ sự bảo chứng của thời gian cho những giá trị mới, ta đừng vội phá dỡ ngay những nền móng cũ.
Xét đến cùng cái vỏ ngôn từ cũng chỉ có vai trò như một chiếc áo, nội hàm ý nghĩa của nó là do con người cấp cho. Mỗi người cần một kích cỡ áo khác nhau, mỗi thời đại cần có một cách hiểu linh hoạt về các khái niệm.
"Lễ" đâu chỉ là những nguyên tắc cứng nhắc, là sự cúi đầu, thuần phục. Gắn với bối cảnh thời đại mới, "Lễ" vừa là nền tảng đạo đức, nhân cách, là văn hóa giao tiếp, ứng xử, là kĩ năng tư duy… Nếu hiểu được như thế thì đâu nhất thiết cần phải bỏ "Lễ" mới phát triển được giáo dục, khai phóng được tư duy con người.
Nói như vậy để thấy chấm dứt hay gìn giữ, phát huy, lỗi thời, cũ kỹ hay vẫn còn là tinh hoa, giá trị âu cũng một phần do cách nhìn, do quan niệm của mỗi người. Còn với những người đang hàng ngày gánh vác sứ mệnh cao quý-sứ mệnh "trồng người" bằng một công việc bình dị là dạy học như chúng tôi thì thiển nghĩ: Không thể trồng một cái cây mà lại chặt hết gốc rễ. Không thể giáo dục con người nếu xem nhẹ hoặc bỏ qua những yêu cầu về chuẩn mực đạo đức, tác phong.
XT st
KỶ NIỆM 201 NĂM NGÀY SINH FRIEDRICH ENGELS (28/11/1820-28/112021)
LÝ LUẬN MARXIST VỀ CHIẾN TRANH VÀ QUÂN ĐỘI - CỐNG HIẾN VĨ ĐẠI CỦA ENGELS
201 năm đã trôi qua, kể từ ngày Friedrich Engels chào đời, sau đó trở thành nhà bác học, người thầy vĩ đại của giai cấp vô sản, người cùng với Karl Marx sáng lập Chủ nghĩa Marx-hệ tư tưởng của giai cấp công nhân.
Engels là người đầu tiên nghiên cứu, trình bày một cách hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản về chiến tranh và quân đội, để lại những cống hiến đặc biệt xuất sắc trong kho tàng lý luận của Chủ nghĩa Marx-Lenin, nhất là việc luận giải sâu sắc về nguồn gốc, bản chất, tính chất, nguyên nhân của chiến tranh, phân loại và khái quát các quy luật của chiến tranh; sự hình thành, phát triển của quân đội, khởi nghĩa vũ trang và đấu tranh cách mạng; khẳng định chiến tranh và quân đội là một hiện tượng chính trị-xã hội, mang tính lịch sử.
Theo Engels, nhận thức các vấn đề lý luận về chiến tranh và quân đội phải xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể; phải dựa vào cơ sở kinh tế, xã hội; xem các yếu tố ấy là nền “gốc” chi phối các mối quan hệ giai cấp và nhà nước, chiến tranh và quân đội; giữa các vấn đề ấy với các hiện tượng khác để xác định tính chất, bản chất của chiến tranh và cách mạng xã hội; xác định vai trò của quân đội với tư cách là công cụ bạo lực của giai cấp, nhà nước đã sinh ra, nuôi dưỡng và sử dụng nó.
Với phương pháp luận chiến sắc sảo, Engels đã bác bỏ các quan điểm sai trái về bạo lực của chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo phản động và chủ nghĩa duy vật siêu hình. Qua đó, trình bày một cách đầy đủ, sâu sắc, hệ thống lý luận Marxist về bạo lực, khởi nghĩa vũ trang, đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội; mối quan hệ giữa bạo lực với phương thức sử dụng bạo lực trong đấu tranh giai cấp, chiến tranh và cách mạng xã hội.
Phân tích nguồn gốc, bản chất của chiến tranh và của quân đội, Engels chỉ ra sai lầm của các nhà lý luận tư sản là “theo đuôi chủ nghĩa duy tâm”, “vào hùa với tôn giáo phản động”.
Theo Engels, việc xuất hiện xung đột vũ trang giữa các bộ lạc nguyên thủy là sự kế tục và là một bộ phận tất yếu trong cuộc đấu tranh chung của người nguyên thủy nhằm bảo vệ sự sống, xác lập các điều kiện sinh tồn và thỏa mãn các nhu cầu về kinh tế mà bản thân họ mưu cầu, muốn có, cần nó để tồn tại. Các xung đột vũ trang xuất hiện thời ấy đều mang tính chất ngẫu nhiên.
Engels khẳng định, chiến tranh chỉ xuất hiện khi các điều kiện sản sinh ra nó đã chín muồi, được hình thành với ý nghĩa là tiền đề tất yếu khách quan. Chiến tranh lần đầu tiên xuất hiện trong chế độ chiếm hữu nô lệ, khi chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất đã hình thành, ở đó quan hệ giai cấp và nhà nước gắn chặt với nhau, cùng với nó là quân đội hình thành, tạo nên bộ máy đàn áp giai cấp.
Chiến tranh là “người bạn đường” của các giai cấp bóc lột, là kết quả phát triển chín muồi của các quá trình kinh tế, xã hội diễn ra trong lòng xã hội bóc lột. Engels khẳng định: Chừng nào chế độ xã hội còn dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, còn có người áp bức, bóc lột người thì chừng ấy, chiến tranh vẫn còn diễn ra.
Nguyên nhân xảy ra chiến tranh là do phương thức sản xuất bóc lột với các quan hệ kinh tế-xã hội sản sinh ra bạo lực vũ trang của giai cấp này chống lại bạo lực của giai cấp khác. Chiến tranh là “biện pháp” thực hiện mục tiêu chính trị của giai cấp, phương thức giải quyết các mâu thuẫn vốn có trong lòng xã hội có giai cấp đối kháng và mâu thuẫn về lợi ích kinh tế không thể điều hòa được.
Engels nhấn mạnh bản chất của chiến tranh là sự tiếp tục của chính trị bằng bạo lực vũ trang; là sự phản ánh chính sách đối nội mà trước đó giai cấp cầm quyền đã thực thi các biện pháp tiến hành chiến tranh để bảo vệ quyền lực chính trị và lợi ích kinh tế của nó. Như vậy, bản chất của chiến tranh gồm hai yếu tố cơ bản quy định: Đó là, mục tiêu của đường lối chính trị và sự tiếp tục đường lối chính trị bằng bạo lực vũ trang.
Chính trị quyết định chiến tranh về mọi mặt, trước hết là quyết định về nguồn gốc xuất hiện, bản chất, tính chất, tiến trình và kết cục của chiến tranh. Chính trị định ra mục đích, phương hướng và tác động đến tiến trình của chiến tranh bằng việc điều chỉnh các mục tiêu chiến lược; thông qua chiến lược, các kế hoạch và quy định những nội dung, hình thức, phương thức cụ thể của đấu tranh vũ trang.
Mục tiêu, đường lối chính trị do một cơ quan lãnh đạo chính trị cao nhất trong nhà nước nắm giữ; đồng thời là cơ quan lãnh đạo tối cao về quân sự. Chiến tranh được quy định bởi mục tiêu chính trị, do chính trị chi phối, quyết định về mọi mặt; song, chiến tranh cũng tác động trở lại đối với chính trị.
Engels đã chỉ ra sự phụ thuộc của chính trị vào chiến tranh, nhất là khi các hoạt động quân sự diễn biến không phù hợp với mục tiêu, kế hoạch và lợi ích mà chính trị đã xác định. Vì lẽ đó, các lực lượng chủ mưu tiến hành chiến tranh buộc phải điều chỉnh mục tiêu, xác định lại phương hướng, đề xuất nhiệm vụ mới cho phù hợp. Chiến tranh có thể làm thay đổi đường lối chính trị và cả ban lãnh đạo chính trị.
Vì lẽ đó, Engels nhấn mạnh: Chiến tranh là sự tiếp tục của chính trị bằng phương thức bạo lực vũ trang. Bạo lực vũ trang là phương tiện và là dấu hiệu đặc trưng của chiến tranh. Trong đó, đấu tranh vũ trang được coi là hình thức cơ bản nhất; không có đấu tranh vũ trang thì không thể gọi là chiến tranh với đúng nghĩa của nó.
Engels chỉ ra rằng, mọi cuộc chiến tranh dù đa dạng, phức tạp đến đâu thì nó vẫn phải tuân theo những quy luật khách quan. Quy luật của chiến tranh, một mặt giống các quy luật xã hội, mặt khác, có những đặc trưng riêng chỉ chiến tranh mới có. Nó gắn liền với quân đội, quân sự, vũ khí, trang bị, bạo lực vũ trang, v.v..
Quan điểm của Engels về chiến tranh và quân đội là những hiện tượng chính trị-xã hội mang tính lịch sử có ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận sâu sắc. Vladimir Ilyich Lenin khẳng định: Chính Engels và Marx đã đặt nền móng cho lý luận Marxist về chiến tranh và quân đội; nhờ đó, đã chấm dứt sự lũng đoạn trong giải thích sai lầm của chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo về vai trò của Thượng đế, của Chúa trời trong chiến tranh, sức mạnh của quân đội.
Trong đó, những cống hiến đặc biệt xuất sắc của Engels là hoàn thiện lý luận Marxist về chiến tranh, quân đội, đến nay nó vẫn còn nguyên giá trị, nhất là việc nhận thức và luận giải bản chất, tính chất các cuộc chiến tranh hiện đại. Nhờ Engels, chủ nghĩa Marx hoàn bị hơn, sâu sắc hơn, trở thành công cụ nhận thức vĩ đại để giai cấp vô sản nhận thức và cải tạo thế giới. Đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, nhận thức và vận dụng sáng tạo những chỉ dẫn của Marx và Engels về chiến tranh và quân đội vào sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc và bảo vệ Tổ quốc là thành tựu to lớn, cần phát huy hơn nữa trong giai đoạn mới./.
Yêu nước ST.
Cảnh giác với kiểu suy diễn, chụp mũ nguy hiểm
Trong khi Đảng, Nhà nước, Quân đội ta và người dân, các tổ chức, địa phương trong cả nước đang hướng về miền Trung bằng những việc làm thiết thực với quyết tâm không để đồng bào phải chịu cảnh đói rét, đặc biệt là tập trung cứu hộ, cứu nạn, nỗ lực khắc phục hậu quả bão lũ, sạt lở đất, giúp nhân dân sớm ổn định cuộc sống, thì có những đối tượng thông qua mạng xã hội lại lợi dụng việc làm từ thiện của một số người nổi tiếng để trách chính quyền, các tổ chức chính trị-xã hội.
Có kẻ đã cố tình suy diễn, quy chụp nhằm hạ thấp vai trò của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị-xã hội trong công tác cứu trợ người dân vùng thiên tai với mục đích kích động nhân dân không tin vào các tổ chức, cơ quan Nhà nước, hướng tới mục đích sâu xa vô cùng nham hiểm...
Kiểu suy diễn nguy hiểm
Người Việt Nam ta vốn có phẩm chất, truyền thống "thương người như thể thương thân", sẵn sàng tương thân tương ái, "lá lành đùm lá rách". Thế nên mỗi khi vùng, miền nào bị thiên tai, hoạn nạn là cả nước lại hướng về, cùng tương trợ, giúp đỡ đồng bào vượt qua gian khó. Lần này cũng vậy, khi bão lũ, sạt lở đất gây thiệt hại nặng nề về người và của ở miền Trung, không chỉ Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang và cấp ủy, chính quyền các địa phương, các tổ chức chính trị-xã hội đều nỗ lực vào cuộc, khẩn trương ứng cứu nhân dân, mà đồng bào cả nước cũng tích cực giúp đỡ nhân dân miền Trung bằng những việc làm thiết thực, ý nghĩa. Những ngày này, rất nhiều tổ chức, cá nhân đứng ra quyên góp, ủng hộ bà con vùng bão lũ, từ các cụ già tới em nhỏ đều tích cực hưởng ứng, tham gia. Trong đó, một số người nổi tiếng mà điển hình là ca sĩ Thủy Tiên đã quyên góp được số tiền lớn để giúp đỡ người dân vùng lũ. Đây là một việc làm rất đáng trân trọng, hoan nghênh, được dư luận ghi nhận, đánh giá cao
Có lẽ bản thân những "người của công chúng" khi đứng ra quyên góp làm việc thiện cũng xuất phát từ tấm lòng nhân ái. Họ phát huy lợi thế được nhiều công chúng mến mộ để kêu gọi cộng đồng ủng hộ nhằm giúp đỡ đồng bào vùng thiên tai, chứ không phải để "cạnh tranh" với trách nhiệm của chính quyền và các cơ quan chức năng, bởi mỗi tổ chức, cá nhân có những chức năng, nhiệm vụ khác nhau và mọi sự so sánh đều khập khiễng. Thế nhưng đáng tiếc là từ hành động của ca sĩ Thủy Tiên và một số người khác, trên mạng xã hội đã xuất hiện những ý kiến, bình luận mang tính so sánh thiếu khách quan. Đáng báo động là một số đối tượng cố tình lợi dụng sự việc này để suy diễn, xuyên tạc nhằm chống phá Đảng, Nhà nước bằng những luận điệu nguy hiểm, như: Một mình ca sĩ Thủy Tiên làm việc thiện hiệu quả hơn tất cả các cơ quan Nhà nước; cần giải tán các cơ quan làm công tác cứu trợ; thậm chí còn kích động "Đảng, Nhà nước rất thờ ơ"; đừng tin vào cán bộ, đảng viên (!)...
Những đối tượng này cố tình đưa lên mạng xã hội một số vụ việc cán bộ cơ sở có cách làm chưa hợp lý hoặc phạm sai lầm khi lạm dụng quyền hạn để sử dụng tiền, hàng cứu trợ sai mục đích từ nhiều năm trước để minh chứng cho nhận định đó. Từ đó, họ cho rằng, các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội đã làm nhân dân mất niềm tin và cần phải giải thể để trao nhiệm vụ tiếp nhận tiền, hàng cứu trợ cho các tổ chức xã hội dân sự. Mục đích cuối cùng của những đối tượng này không gì khác là thúc đẩy sự phát triển của các tổ chức xã hội dân sự ở Việt Nam, phủ nhận vai trò lãnh đạo, quản lý xã hội của Đảng, Nhà nước ta. Trong thực tế, một số cán bộ, công chức có hành vi đáng lên án ấy chỉ là hiện tượng "con sâu làm rầu nồi canh" và các cơ quan chức năng đã rất kiên quyết xử lý các vi phạm theo đúng quy định của pháp luật. Từ sự việc trên có thể thấy, trên mạng xã hội hiện đang xuất hiện một số người có tư tưởng cực đoan, họ đang lợi dụng vào các sự kiện, sự việc để cố tình bôi nhọ, hòng phủ nhận sạch trơn sự quan tâm, chăm lo, cùng với những thành tựu to lớn trong công tác xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội và đời sống nhân dân, cũng như công tác phòng, chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn của Đảng, Nhà nước, Quân đội ta suốt những năm qua và trong đợt lũ lụt lịch sử vừa xảy ra ở miền Trung.
Sự thật không thể phủ nhận
Có một thực tế hiển nhiên mà phần lớn người dân cả nước, bạn bè quốc tế đã biết, đó là công tác phòng, chống thiên tai, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân luôn được Đảng, Nhà nước, quân đội đặc biệt quan tâm, không chỉ khi thiên tai xảy ra mà từ việc chủ động phòng ngừa. Chúng ta đã sớm ban hành các chủ trương, chính sách, đề án, chiến lược về phòng, chống thiên tai và chống biến đổi khí hậu; đầu tư rất lớn cho nhiệm vụ này. Chính phủ, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống thiên tai, các bộ, ngành, địa phương đều có những phương án, kịch bản để phòng, chống với mọi tình huống thiên tai, sự cố. Chúng ta đã tổ chức Ban Chỉ huy phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn ở tất cả các cấp chính quyền, các địa phương, luôn chủ động chuẩn bị theo phương châm “4 tại chỗ” (chỉ huy tại chỗ; lực lượng tại chỗ; vật tư, phương tiện và kinh phí tại chỗ; hậu cần tại chỗ) đồng thời thường xuyên tổ chức luyện tập, diễn tập để sẵn sàng ứng phó hiệu quả với mọi tình huống thiên tai. Việc khắc phục hậu quả thiên tai, sự cố cũng luôn được triển khai bài bản, đồng bộ.
Từ nhiều năm nay, mỗi khi có các vụ thiên tai lớn, nhỏ xảy ra ở các địa phương trong cả nước, trước khi nhân dân chung tay cứu trợ thì Nhà nước và các cơ quan, tổ chức chính trị-xã hội, đặc biệt là các đơn vị quân đội, lực lượng vũ trang đã kịp thời có mặt để cứu giúp nhân dân vượt qua hoạn nạn. Cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang cùng cán bộ, chính quyền các cấp không chỉ xông pha vào những vùng bão, lũ, sự cố hiểm nguy nhất, thậm chí sẵn sàng chấp nhận hy sinh thân mình để bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, mà còn nỗ lực giúp nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai, tổng dọn vệ sinh môi trường, tái thiết cuộc sống... Giá trị của những việc làm ấy không thể đong đếm được và càng không thể bị phủ nhận, so sánh bằng tiền. Chưa kể, chính những con người vượt qua mọi nguy hiểm để cứu giúp nhân dân, trực tiếp nhường cơm sẻ áo cho người dân trong hoạn nạn ấy, lại tiếp tục tự nguyện trích một phần tiền lương của mình để ủng hộ, giúp đỡ đồng bào sớm vượt qua khó khăn, hoạn nạn. Ngay ca sĩ Thủy Tiên cũng viết trên facebook cá nhân rằng, không thể so sánh việc làm của cô với các cơ quan chức năng của Nhà nước, bởi Nhà nước làm những công việc rất lớn mà khi ra hiện trường thực tế cô đã thấy rõ điều đó và rất trân trọng; còn việc làm của cô chỉ là rất nhỏ với mong muốn giúp được người dân chút nào hay chút đó với tinh thần "lá lành đùm lá rách" mà thôi.
Để đất nước có được sự phát triển như hôm nay, song song với việc ban hành các cơ chế, chính sách, thực hiện chiến lược quốc gia về xóa đói giảm nghèo, Nhà nước đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, đầu tư rất lớn để người dân các địa phương, nhất là vùng sâu, vùng xa, những nơi thường xảy ra thiên tai tập trung phát triển kinh tế-xã hội và vươn lên làm giàu. Việc xây dựng đường sá ngày càng to, đẹp đến các địa phương hẻo lánh; xây dựng các công trình chống lũ, thoát lũ; quy hoạch và di dân ra khỏi những nơi có nguy cơ cao để phòng tránh thiên tai... là minh chứng cho thấy Đảng, Nhà nước đã rất coi trọng làm việc này từ xa và từ sớm.
Một việc nữa mà chúng ta đều thấy rất rõ là, trước khi thiên tai xảy ra, ngoài việc các cơ quan chức năng đưa ra cảnh báo, khuyến cáo người dân; cử lực lượng giúp dân sơ tán, chằng chống nhà cửa, bảo vệ tính mạng và tài sản, thì các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội và các địa phương cũng đi thị sát, kiểm tra và chỉ đạo quyết liệt công tác phòng, chống thiên tai để giảm nhẹ thiệt hại; triển khai ngay các phương án ứng cứu, hỗ trợ nhân dân khắc phục hậu quả, sớm ổn định cuộc sống. Thậm chí có không ít cán bộ, công chức trong và ngoài quân đội, cả cán bộ cấp cao đã anh dũng hy sinh ngay trong lúc ứng cứu nhân dân. Thế nên việc ai đó so sánh công lao của một vài cá nhân trong huy động tiền cứu trợ với những việc mà Đảng, Nhà nước, cơ quan chức năng, các tổ chức chính trị-xã hội đã, đang và sẽ làm trong công tác phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai, để rồi quy chụp theo dụng ý xấu xa của cá nhân, không chỉ thể hiện sự thiển cận, mà còn là sự phản động khi cố tình phủ nhận công sức, vai trò của Đảng, Nhà nước, quân đội và các tổ chức chính trị-xã hội, nhằm hướng dư luận xã hội đi theo quán tính, phục vụ cho mục đích xấu xa của họ, đó là kích động, chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá đất nước.
Nhà nước ta luôn tôn trọng quyền tự do ngôn luận. Nhưng những phát ngôn không đúng pháp luật với âm mưu chia rẽ đoàn kết dân tộc, phá hoại đất nước thì cần phải kiên quyết đấu tranh, xử lý theo đúng quy định của pháp luật. Đó cũng là mong muốn của đại đa số người dân, nhất là trong lúc rất cần tăng cường sự đoàn kết, chung tay góp sức của toàn xã hội để giúp nhân dân miền Trung sớm vượt qua thiên tai, gian khó.
XT st
VÌ SAO CÓ THỂ SUY DIỄN NHƯ VẬY?
Quy định số 37-QĐ/TƯ của Trung ương “Về những điều đảng viên không được làm” được ban hành ngày 25-10-2021 thay thế Quy định số 47-QĐ/TƯ trước đây cũng về nội dung này. Sau khi được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, một số tổ chức và cá nhân tập trung xuyên tạc với sự suy diễn để quy kết, chỉ trích, lên án vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ chính trị ở Việt Nam hiện nay. Vậy cần nhìn nhận vấn đề này như thế nào cho khách quan và thỏa đáng ?
Họ xuyên tạc rằng Đảng ban hành quy định mới chứng tỏ sự mục nát, là “vá những lỗ thủng quá nhiều của chế độ”. Từ đó họ giải thích “ gốc rễ của tham nhũng là do lỗi của thể chế chính trị, lỗi hệ thống tạo ra” để lớn tiếng khẳng định các biện pháp mà Đảng đưa ra là không có hiệu quả mà phải thay đổi chế độ chính trị thì mới chống tham nhũng được. Rồi họ vu khống “ Đảng đứng trên pháp luật” nên mới cho ra đời những văn bản như vậy. Trên các đài BBC, VOA, RFA cũng phát đi nhiều bài với nội dung xuyên tạc Quy định số 37. Có ý kiến phát trên RFA đã suy diễn xuyên tạc: “Mục đích duy nhất hiện nay chỉ vì lợi ích vật chất và địa vị, đã qua rồi cái thời mà người ta tham gia vào Đảng Cộng sản chỉ vì những lý tưởng thơ ngây”. Lại có ý kiến cho rằng : “ Chắc chắn là không thể kiểm soát được, những quy định cấm đảng viên người ta đưa ra chỉ là những chiêu bài chứ nó không có hiệu quả trong thực tế . Rồi họ vu cáo quy định này cũng như một số quy định khác là “ vi phạm hiến pháp”…
Chỉ cần đọc thoáng qua thôi thì người ta cũng thấy rõ rằng đây là những ý kiến nhằm mục đích hòng hạ thấp ý nghĩa của quy định mới dựa trên quy định cũ nhưng đã được bổ sung cho cập nhật với tình hình. Mục đích của họ muốn tạo ra những làn sóng diễn biến về tư tưởng trong nội bộ Đảng và lan rộng sang các tầng lớp nhân dân để làm giảm niềm tin đối với công tác xây dựng Đảng và tiến tới phủ nhận những kết quả tích cực của việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Chúng ta thấy rằng các quy định của Đảng là việc làm cần thiết và có tác dụng thiết thực nhằm cụ thể hóa các nghị quyết của Đảng cầm quyền về công tác xây dựng Đảng. Đó là cơ sở, căn cứ để ngăn chặn có hiệu quả sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay. Không phải ngẫu nhiên mà Đảng xác định “ xây dựng Đảng là then chốt” vì nó liên quan đến sự tồn vong của đảng cầm quyền và của chế độ chính trị của nước ta. Không phải đến thời điểm này mà từ khi mới thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh – người sáng lập và rèn luyện Đảng đã yêu cầu từng tổ chức Đảng phải duy trì chặt chẽ kỷ luật, kỷ cương làm cho Đảng ngày càng xứng đáng là đảng cầm quyền lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Điều đó được Đảng luôn thực hiện thường xuyên trong hơn 90 năm qua và dù bất cứ ở hoàn cảnh nào Đảng cũng chú trọng đảm bảo việc giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương trong Đảng, nhất là thực hiện hai nguyên tắc : tập trung dân chủ và tự phê bình và phê bình trong đảng không được lơi lỏng!
Đứng trước đòi hỏi của thực tiễn, trong những năm qua Đảng đã tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đã đạt được những kết quả tích cực. Qua đó đã thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức, xử lý nghiêm các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm kỷ luật, đáng chú ý nhất là khởi tố và xử lý hình sự một số lượng không ít cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật. Đồng thời, qua đó cũng cảnh tỉnh giúp đội ngũ cán bộ, đảng viên tiến bộ. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Giữ nghiêm kỷ cương phép nước để cảnh tỉnh, cảnh báo, giáo dục, răn đe người khác tránh xa vết xe đổ của đồng chí mình”. Do vậy, việc ban hành quy định mới là khẳng định quyết tâm chính trị cao của Trung ương đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới.
Thiết nghĩ, việc một số tổ chức và cá nhân cố tình xuyên tạc quy định mới bằng cách suy diễn không có căn cứ, không có thiện chí và đi ngược lại công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đang được triển khai thực hiện có kết quả là việc làm rất đáng bị lên án. Bởi lẽ, những sự xuyên tạc đó không thể tạo ra những làn song diễn biến tiêu cực trong Đảng và xã hội!
Môi Trường ST.
Nhận diện những luận điệu xuyên tạc về đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta
Thủ đoạn của các thế lực là gia tăng cường độ, tần suất và diện bao phủ của các thông tin xuyên tạc về đối ngoại, tập trung vào những nội dung:
1- Thông tin sai lệch việc triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng của Đảng, Nhà nước ta. Các thế lực thù địch xuyên tạc rằng, nền ngoại giao của Việt Nam còn lạc hậu, đường lối bị động, một mặt, hội nhập do thiếu bản sắc nên bị hòa tan, mặt khác, lại cục bộ, “chọn bên” nên chưa có sức ảnh hưởng, thiếu cả độ rộng lẫn chiều sâu, nên đối ngoại chưa đủ sức giữ vị trí tiên phong để bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc (?!).
2- Các thế lực thù địch tìm cách cản trở Việt Nam mở rộng quan hệ quốc tế, mặt khác, tác động, lôi kéo, mua chuộc các đối tác từ bên ngoài để gây sức ép, tác động vào bên trong đất nước; quốc tế hóa những vấn đề nội bộ của Việt Nam.
3- Lợi dụng các vấn đề đối ngoại để xuyên tạc các lĩnh vực có liên quan, âm mưu “một mũi tên trúng nhiều đích”, nhất là xuyên tạc các vấn đề nhạy cảm về chủ quyền, kinh tế, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo… Đơn cử, các thế lực thù địch bóp méo thông tin liên quan các vấn đề đối ngoại về chủ quyền, nhất là trong mối quan hệ với các nước lớn của ta, lợi dụng lòng yêu nước, tinh thần dân tộc để kích động người dân tạo nên các “phong trào” “bài”, “thoát” hay “thân”, “đồng minh”… với các nước lớn; trong quá trình đàm phán ký kết các hiệp định thương mại song phương, đa phương của ta, các thế lực thù địch thường xuyên thông tin sai lệch tác động lên các đối tác của ta, gây sức ép để quá trình đàm phán bất lợi, hòng đan cài những vấn đề chính trị trong các nội dung kinh tế…
4- Chống phá trước, trong và sau các hội nghị ngoại giao lớn do Việt Nam tổ chức. Trước khi các hội nghị ngoại giao lớn diễn ra, các thế lực thù địch tung các thông tin sai lệch về tình hình đất nước, về công tác chuẩn bị, về đường lối ngoại giao của ta… gây nhiễu, rối thông tin, làm bất lợi việc tổ chức, kêu gọi “tẩy chay” sự kiện; trong hội nghị tiếp tục gửi các “thư ngỏ”, “kiến nghị” đến các đoàn, cơ quan ngoại giao nước ngoài yêu cầu can thiệp các vấn đề nhân quyền, dân tộc, tôn giáo…; sau hội nghị đưa ra các đánh giá hạ thấp, bôi đen, phủ định thành công của sự kiện, hạ thấp vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
Trước những sự chống phá trên, công tác đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch về đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế là yêu cầu cấp thiết, thực hiện bằng nhiều biện pháp, trong đó có việc đăng cai và tổ chức thành công những sự kiện, diễn đàn, hội nghị ngoại giao lớn. Thực tiễn cho thấy, thời gian qua, việc tổ chức thành công những sự kiện ngoại giao lớn đã góp phần quan trọng nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài để củng cố, bồi đắp, gia tăng sức mạnh nội lực, tiềm lực đất nước…, qua đó tự nó là minh chứng sinh động, bằng chứng thuyết phục để bẻ gãy những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch về đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế của Đảng, Nhà nước ta.
MNM
Văn hóa chính trị - ngọn đuốc thắp sáng tương lai dân tộc
Văn hóa chính trị - ngọn đuốc thắp sáng tương lai dân tộc
Văn hóa là những giá trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo. Từ khi xã hội có giai cấp, phát sinh áp bức bóc lột thì văn hóa chính trị là công cụ đấu tranh tinh thần nhằm xóa bỏ bất công, giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột, mang lại cuộc sống tự do, bình đẳng, bác ái, hạnh phúc. Trong tiến trình hướng tới mô hình chủ nghĩa xã hội khoa học hiện thực thì văn hóa là sự hướng đạo các giá trị phổ quát giàu tính nhân bản, theo dự báo tiên đoán chính trị được chủ nghĩa Mác - Lênin soi rọi. Và trong dòng chảy nghìn năm của văn hóa Việt Nam, văn hóa chính trị hiện đại vượt lên tiên phong, dẫn hướng cho tương lai dân tộc.
Ở Việt Nam, văn hóa chính trị thời hiện đại được kế thừa, tiếp biến trên nền tảng truyền thống yêu nước, thương nòi, tự lực, tự cường, cần cù, sáng tạo trong tiến trình dựng nước và giữ nước. Danh nhân văn hóa thế giới Hồ Chí Minh là nhịp cầu nối giữa văn hóa chính trị truyền thống với văn hóa chính trị hiện đại, định hướng và mở ra chân trời tương lai tươi sáng cho dân tộc Việt Nam.
Vào đầu những năm 20 của thế kỷ XX, một nhà báo Xô viết khi tiếp xúc với Nguyễn Ái Quốc đã dự báo từ Nguyễn Ái Quốc toát lên những giá trị văn hóa tương lai. Chủ nghĩa yêu nước chân chính kết nối với chủ nghĩa quốc tế vô sản đã hình thành trong nhân cách văn hóa chính trị Hồ Chí Minh lòng nhân ái bao la, đức khiêm nhường và tinh thần đấu tranh không nhân nhượng với thực dân, đế quốc. Tổ quốc và nhân dân là lẽ sống của Nguyễn Ái Quốc, đó là lý tưởng cộng sản cao đẹp, bất diệt đủ sức lan tỏa, là ngọn đuốc cách mạng đưa dân tộc Việt Nam “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”. Nguyễn Ái Quốc cũng chính là người định hình văn hóa chính trị trong lòng nhân dân Việt Nam, trước tiên xác định sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam là lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng dân tộc, dân chủ rồi tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Như vậy, ngay khi ra đời, Đảng ta thực sự là ngọn đuốc soi sáng tương lai, đã tiên phong mở lối đi cho lịch sử nước nhà, là người khơi nguồn dòng chảy lịch sử cho hiện tại và tương lai. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được Đảng nhận thức và hành động nhất quán, kiên định.
Giá trị văn hóa chính trị tiếp theo mà Nguyễn Ái Quốc xác định như một hòn đá tảng giữ cho Đảng trường tồn là bản chất giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, làm "kim chỉ nam" cho đường lối cách mạng đúng đắn. Tư tưởng tiên phong thời đại gắn liền với đạo đức chuẩn mực giống như đôi cánh chim ưng, nâng cao tầm vóc lịch sử của Đảng. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã dành một dung lượng xứng tầm để nói về tư cách đạo đức của người kách mệnh (cách mạng). Sự trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, đức hy sinh vì lý tưởng cộng sản, đó chính là những giá trị văn hóa chính trị trong nhân cách và phẩm giá của người đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo những chuẩn mực đạo đức cốt lõi nêu trên, thực tiễn đấu tranh cách mạng Việt Nam đã sản sinh nhiều thế hệ chiến sĩ cộng sản có khí tiết kiên trung bất khuất, là những hạt giống đỏ gieo vào phong trào đấu tranh cách mạng, tụ nghĩa được muôn dân.
Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, văn hóa chính trị đã được Đảng ta, đứng đầu là Hồ Chí Minh cùng với toàn dân khắc họa thành công: Một dân tộc tràn trề khát vọng độc lập, tự do đã nhất tề vùng lên giành quyền sống. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Đảng và Hồ Chủ tịch đã cho thấy diện mạo văn hóa chính trị Việt Nam thời đại mới là xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Linh hồn văn hóa chính trị ấy đã khơi dậy ý chí tự lực, tự cường, sẵn sàng hy sinh tất cả để bảo vệ nền độc lập vừa giành được. “Thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Cuộc kháng chiến chống hai đế quốc to là Pháp và Mỹ tiếp tục hoàn thiện và nâng tầm văn hóa chính trị ở Việt Nam. Một Đảng có đủ tầm tư duy chiến lược, biết phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc và thời đại, cùng chung một mục tiêu chiến đấu hy sinh cho chân lý bất tử “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, dân tộc đó tất thắng.
Trong bối cảnh cách mạng thế giới lâm vào khủng hoảng trầm trọng, khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa sụp đổ, những kẻ phản động hí hửng thúc đẩy chống Cộng và đợi chờ Việt Nam sụp đổ. Chính giữa lúc phong ba bão táp thời đại, ý Đảng lòng dân cùng hòa quyện, tạo nên dòng thác đổi mới, cuốn phăng đi thách thức lịch sử, đạp bằng trở ngại, lập nên những thành tựu có tính lịch sử, mang lại cơ đồ Việt Nam tươi mới, rạng rỡ. Trên tiền đề đó, dân tộc Việt Nam đang khát vọng hướng tới mục tiêu phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, là nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa (vào giữa thế kỷ XXI).
Trong tiến trình hướng tới mục tiêu chiến lược có tính dẫn hướng thời đại, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh đặt con người vào trung tâm phát triển, coi văn hóa là nguồn lực nội sinh, động lực tinh thần, khơi dậy ý chí tự lực, tự cường của con người Việt Nam. Đồng thời tăng cường xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Điều kiện tiên quyết để hiện thực hóa khát vọng dân tộc là đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm trong sạch Đảng và nâng cao tính phụng sự nhân dân của hệ thống chính trị, giữ được mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân.
Như vậy, từ nền tảng truyền thống yêu nước thương nòi, tự lực, tự cường, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã khắc họa tầm vóc văn hóa chính trị của Việt Nam trong thời hiện đại, như một tòa tháp hải đăng. Tầng thứ nhất, là văn hóa cứu nước theo con đường cách mạng vô sản. Tầng thứ hai, là văn hóa vùng lên giành độc lập. Tầng thứ ba, là văn hóa bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc. Tầng thứ tư, là văn hóa quyết đoán tìm ra con đường đổi mới, tư duy định hình cấu trúc chế độ xã hội chủ nghĩa phù hợp hoàn cảnh lịch sử và thực tiễn cách mạng Việt Nam: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Tầng thứ năm, là văn hóa khát vọng "dân tộc Việt Nam có thể sánh vai với các cường quốc năm châu”, đóng góp đáng kể vào tiến trình lịch sử nhân loại hướng tới hiện đại, văn minh, hòa bình, hạnh phúc, nhân ái, không còn áp bức, bất công.
Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 là khởi đầu tầm tư duy chiến lược văn hóa dân tộc Việt Nam thời hiện đại, được Đảng nêu ra như một tuyên ngôn văn hóa chính trị, đặt nền tảng cho văn hóa chính trị Việt Nam. Nghị quyết số 03-NQ/TƯ, ngày 16-7-1998, của Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và Nghị quyết số 33-NQ/TƯ, ngày 9-6-2014, của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, là những cột mốc mới về tư duy văn hóa chính trị của Đảng.
Tháng 11-1946, Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất, có giá trị như “Hội nghị Diên Hồng” về nghị lực và ý chí xây dựng một nền văn hóa Việt Nam thời độc lập, tự chủ, hướng tới chủ nghĩa xã hội. Tại hội nghị này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Và thực sự văn hóa chính trị là ngọn đuốc soi sáng chế độ mới ở nước ta.
Tháng 11-2021, Hội nghị Văn hóa toàn quốc là sự tái hiện “Hội nghị Diên Hồng” trên mặt trận văn hóa, bồi đắp thêm trí tuệ, nhiệt huyết và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, chung sức đồng lòng xây dựng văn hóa, con người mang bản sắc truyền thống yêu nước, thương nòi, khát vọng hòa bình, độc lập, tự lực, tự cường; gia cố cho văn hóa chính trị thời đại Hồ Chí Minh tiếp tục thật sự là động lực tinh thần, sức mạnh nội sinh cho Đảng bất diệt và dân tộc trường tồn.