Các mối quan hệ lớn là những vấn đề lý luận cốt lõi, phản ánh những quy luật mang tính biện chứng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là những mối liên hệ bản chất, tất yếu; những vấn đề lớn, hệ trọng, được đúc kết ở chiều sâu nhận thức lý luận, mang tính dẫn dắt đối với cách mạng nước ta, vận dụng trong tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội, ảnh hưởng ở phạm vi rộng lớn. Mười mối quan hệ lớn được Đảng ta nhận thức, khái quát hóa thành lý luận có giá trị và ý nghĩa to lớn, quan trọng, gắn với hệ mục tiêu tổng quát của chủ nghĩa xã hội, các đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa, các phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội, tạo thành hệ thống quan điểm căn cốt nhất về lý luận đổi mới Việt Nam, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mang bản sắc, đặc trưng Việt Nam.
Việc nhận diện các mối quan hệ lớn ngày càng sáng rõ, đầy đủ, bao quát hơn, từ chỉnh thể hệ thống đến bộ phận cấu thành
Công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là cuộc cải biến cách mạng vĩ đại, toàn diện, sâu sắc, từ kinh tế đến chính trị - xã hội, từ lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất, từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng..., song điều này chưa có tiền lệ trong lịch sử, lại trong bối cảnh đi lên từ lực lượng sản xuất rất thấp..., nên chúng ta phải tự tìm con đường cho phù hợp với thực tiễn đất nước và phù hợp với xu thế chung của thời đại. Đây là cuộc trường chinh đầy khó khăn, gian khổ, phức tạp, lâu dài, vừa tiến hành, vừa đúc rút kinh nghiệm. Đặc biệt, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các yếu tố của chủ nghĩa xã hội và phi chủ nghĩa xã hội đan xen nhau hết sức đa dạng, phức tạp. Do đó, cần hết sức coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để vạch rõ những vấn đề có tính quy luật khách quan của sự phát triển, dự báo những khuynh hướng cơ bản của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của Việt Nam, là cơ sở lý luận soi đường và bảo đảm cho sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta, có vai trò đặc biệt quan trọng định hướng và từng bước định hình chủ nghĩa xã hội mang bản sắc Việt Nam; tránh tư duy, cách làm chủ quan theo chủ nghĩa kinh nghiệm và siêu hình sẽ dẫn đến những sai lầm, khuyết điểm, gây cản trở, làm kéo dài, thậm chí chệch hướng, tổn thất cho cách mạng và quá trình phát triển của đất nước. Công cuộc đổi mới đất nước cũng để lại nhiều bài học đắt giá từ việc chậm phát hiện, nhận thức thiếu đầy đủ hoặc do nắm chưa vững, giải quyết không thấu đáo, tả khuynh, nôn nóng những vấn đề có tính quy luật khách quan...
Chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ - là một chỉnh thể cấu thành từ nhiều yếu tố, mối quan hệ tạo nên một hệ thống, cấu trúc. Bên trong cấu trúc đó, các yếu tố cấu thành vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn, vừa tương hỗ, vừa đấu tranh; trong đó có những cặp quan hệ chủ đạo, phản ánh bản chất, mối liên hệ tất nhiên chi phối sự tồn tại, vận động và phát triển của đổi mới, của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - đó chính là các mối quan hệ lớn.
Tuy nhiên, trong sự vận động vô tận và phức tạp của sự vật, hiện tượng, những cái chung, bản chất, nội dung thường bị che mờ bởi những cái bề ngoài, hình thức, đơn nhất, ngẫu nhiên, tạo nên những “điểm mờ” của nhận thức; sự phát triển ẩn đằng sau sự vận động quanh co, khúc khuỷu và có cả sự thoái bộ, thụt lùi... Do đó, việc nhận diện các mối quan hệ lớn là quá trình khái quát hóa rất cao về nhận thức lý luận, tìm ra khuynh hướng phát triển chung, cái bên trong, những mâu thuẫn, xung đột lớn, mối liên hệ phổ biến mang tính quy luật không thể một sớm, một chiều, mà là một quá trình đầy khó khăn, lâu dài, thậm chí có cả những sai lầm trước khi đến được với nhận thức đúng đắn, đầy đủ, bao quát, sâu sắc hơn, thể hiện rõ từng nấc thang, từng bước đổi mới, phát triển trong tư duy lý luận, là biểu hiện sinh động phản ánh trình độ trưởng thành và phát triển về lý luận của Đảng ta.
Nhận thức về các mối quan hệ lớn là một quá trình thống nhất, xuyên suốt, không ngừng tìm tòi, từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn, manh nha ngay từ sớm, trước đổi mới.
Thuật ngữ “các mối quan hệ lớn” xuất hiện chính thức lần đầu tiên trong văn kiện Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III (tháng 12-1964) về thương nghiệp và giá cả. Khi đó, trong phân tích về những đặc điểm kinh tế cơ bản và nội dung cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc trong những năm đầu tiến lên chủ nghĩa xã hội, Ban Chấp hành Trung ương lần đầu tiên đặt ra yêu cầu: “Xây dựng đúng đắn những mối quan hệ lớn, giải quyết tốt những mâu thuẫn lớn...”(1). Trong những buổi đầu tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tuy tư duy lý luận của Đảng tại thời điểm này chưa phản ánh đầy đủ những mối quan hệ mang tính quy luật, chưa xác định chính xác về tính chất và cách thức giải quyết các mối quan hệ lớn, song đây là sự manh nha, điểm khởi đầu có ý nghĩa, có tính chất tiền đề trong tư duy lý luận của Đảng về “các mối quan hệ lớn” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cả nước cùng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội (năm 1975) cho đến trước Đại hội XI của Đảng (năm 2011), các văn kiện của Đảng gần như không trực tiếp xác định, gọi tên “các mối quan hệ lớn”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) lần đầu tiên đề cập tới các mối quan hệ lớn như một chỉnh thể mang tính hệ thống, khi xác định phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, gồm: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Đại hội XII của Đảng điều chỉnh mối quan hệ “giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa” thành quan hệ “giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa”. Đồng thời, từ tám mối quan hệ lớn phát triển thành chín mối quan hệ lớn khi bổ sung mối quan hệ “giữa Nhà nước và thị trường”, sau đó mối quan hệ này được Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII nhận diện đầy đủ hơn (bổ sung thành tố thứ ba là “xã hội”) thành mối quan hệ “giữa Nhà nước, thị trường và xã hội”. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục có những nhận thức, bổ sung mới về các mối quan hệ lớn. Đó là điều chỉnh trật tự mối quan hệ “giữa đổi mới, ổn định và phát triển” thành “giữa ổn định, đổi mới và phát triển”; bổ sung mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”, thành “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”; điều chỉnh mối quan hệ “giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”, thành “giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”; điều chỉnh mối quan hệ “giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, thành “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ”. Đặc biệt, Đại hội XIII của Đảng bổ sung mối quan hệ lớn giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, hợp thành chỉnh thể hệ thống mười mối quan hệ lớn có tính quy luật của đổi mới và phát triển của Việt Nam.
Như vậy, đến nay, Đảng ta đã xác định mười mối quan hệ lớn cần tiếp tục nắm vững và giải quyết tốt trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, gồm: 1- Giữa ổn định, đổi mới và phát triển; 2- giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; 3- giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; 4- giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; 5- giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; 6- giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; 7- giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; 8- giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; 9- giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; 10- giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.
Rõ ràng, từng sự thay đổi, bổ sung chỉnh thể hay nội tại từng mối quan hệ trên đều mang ý nghĩa sâu sắc, là kết quả của quá trình tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, phát triển lý luận công phu, lâu dài. Hệ thống mười mối quan hệ lớn tạo thành một chỉnh thể tương đối đầy đủ, có ý nghĩa quan trọng mang tính phương pháp luận để chỉ đạo, dẫn dắt các hoạt động thực tiễn trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Văn kiện Đại hội XIII cũng nhấn mạnh, đó là những mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới của Đảng ta, đòi hỏi chúng ta nhận thức đúng và đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện thật tốt, có hiệu quả.
Từ nhận diện, các mối quan hệ lớn ngày càng được nhận thức sâu sắc, nắm vững bản chất các mối liên hệ phức hợp bên ngoài, bên trong, hình thành hệ thống quan điểm mang tính nguyên tắc phương pháp luận để định hướng giải quyết tốt các vấn đề thực tiễn, góp phần hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội Việt Nam
Thứ nhất, về bản chất các mối liên hệ phức hợp bên ngoài, bên trong của các mối quan hệ lớn.
Trước hết, việc giải quyết các mối quan hệ lớn được đặt trong tổng thể mối quan hệ chặt chẽ với hệ mục tiêu tổng quát của chủ nghĩa xã hội, tám đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa, tám phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự thống nhất chỉnh thể của bốn nội dung trên có thể nói chính là những vấn đề cốt lõi trong cấu trúc hệ thống lý luận đổi mới Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cũng là lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Các mối quan hệ lớn chính là phương tiện, phương pháp để nhận thức và tổ chức thực hiện đúng nhằm đạt mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, thực hiện thành công các đặc trưng và phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhiều nội dung của từng mối quan hệ lớn có liên hệ chặt chẽ, thậm chí chuyển hóa lẫn nhau với nội dung của các đặc trưng hay phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội. Như vậy, trong nhận thức và giải quyết các mối quan hệ lớn phải luôn đặt trong tổng thể mối quan hệ với phương hướng, đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa; nếu tách biệt sẽ đánh mất tính hệ thống, tính mục đích, không thấy rõ những quy luật phát triển khách quan bên trong các mối quan hệ lớn. Việc tìm ra các quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội không phải là đích cuối, mà là phương pháp, phương tiện nhận thức ở tầm lý luận để Đảng ta thực hành cầm quyền khoa học đúng với các quy luật phát triển khách quan, hóa giải những mâu thuẫn lớn, từng bước đạt mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, thực hiện thành công phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội và hiện thực hóa những đặc trưng xã hội xã hội chủ nghĩa.
Từng mối quan hệ lớn trong chỉnh thể các mối quan hệ lớn cũng ngày càng được nhận thức sâu sắc hơn. Hệ thống các mối quan hệ lớn cấu thành bởi mười mối quan hệ lớn cùng hướng đích, song mỗi mối quan hệ lớn có những đặc điểm, vị trí riêng.
Mối quan hệ lớn giữa đổi mới, ổn định và phát triển là mối quan hệ có vị trí đầu tiên, tiên phong, khởi nguồn trong hệ thống các mối quan hệ lớn. Trong ba thành tố của mối quan hệ này, đổi mới phải thực thi trước tiên, là phương thức để phát triển, ổn định là điều kiện và phát triển là mục tiêu - đây là mối quan hệ chế ước, ràng buộc giữa điều kiện, phương thức và mục tiêu phát triển lâu dài. Phát triển phải dựa trên ổn định và bằng phương thức đổi mới; không có nền móng ổn định không thể phát triển được và chính nhờ phát triển mới tạo điều kiện để ổn định vững chắc và tiếp tục đổi mới ở yêu cầu, trình độ cao hơn. Từ xác định đổi mới là quan trọng nhất, Đại hội XIII của Đảng hoán đổi vị trí của “ổn định” cho “đổi mới”, hàm ý trong bối cảnh hiện nay cần đề cao hơn việc giữ ổn định các mặt của đời sống chính trị - xã hội nhằm tạo tiền đề, điều kiện cho sự phát triển.
Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị giữ vai trò trung tâm, cơ bản, bởi việc giải quyết mối quan hệ này sẽ tác động và quyết định tới việc giải quyết các mối quan hệ lớn khác, khi “yếu tố kinh tế được xem như nền tảng số một của sự phát triển, đồng thời chính trị là yếu tố nhạy cảm, phức tạp nhất trong đời sống xã hội”(2). Đổi mới kinh tế là khâu đột phá cho quá trình đổi mới ở nước ta, tập trung phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo dựng nền tảng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Quá trình đổi mới kinh tế phải tiến hành đồng thời với từng bước đổi mới chính trị; đổi mới chính trị tập trung vào đổi mới tư duy chính trị và hệ thống chính trị. Đổi mới kinh tế đi trước, song không vì thế mà chậm đổi mới chính trị; đổi mới chính trị cần làm từng bước, thận trọng, bảo đảm nguyên tắc cái gì đã rõ, đã chín, được thực tiễn chứng minh hiệu quả, đa số đồng tình thì tiếp tục thực hiện, cái gì chưa có quy định hoặc vượt quy định thì mạnh dạn thí điểm, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, mở rộng dần, không cầu toàn, nhưng không nóng vội.
Mối quan hệ giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa là hai mặt của một chỉnh thể thống nhất là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Việc tuân theo các quy luật của nền kinh tế thị trường (quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh...) là một tất yếu khi chúng ta phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường. Nếu không tuân thủ các quy luật thị trường, tính chất thị trường của nền kinh tế thì nền kinh tế sẽ vận hành méo mó, phát triển duy ý chí, rất dễ quay trở lại với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Mặt khác, tính chất định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường là nhằm bảo đảm các mục tiêu xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế. Đây không phải là vế ghép khiên cưỡng, mà là tính chất quy định bản chất của nền kinh tế thị trường chúng ta xây dựng, phát triển; nếu thiếu bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa thì nền kinh tế phát triển tự do vô độ, chạy theo lợi ích của thiểu số, tính chất của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa có nguy cơ trỗi dậy, làm chệch định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa là quy luật cơ bản nhất, xuyên suốt và chi phối sự phát triển của xã hội loài người, cũng như quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Lực lượng sản xuất quyết định nội dung và tính chất của quan hệ sản xuất; ngược lại, quan hệ sản xuất tác động trở lại, quy định mục tiêu xã hội của sản xuất, từ đó hình thành những yếu tố thúc đẩy lực lượng sản xuất nếu phù hợp hoặc kìm hãm nếu không phù hợp. Với xuất phát điểm thấp của nền kinh tế, nên nhiệm vụ trung tâm, có ý nghĩa sống còn đối với việc xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội là phải phát triển không ngừng lực lượng sản xuất để tạo dựng cơ sở vật chất hiện đại. Tuy nhiên, đây là nhiệm vụ lâu dài. Không thể nóng vội tạo ra quan hệ sản xuất vượt trước, thậm chí thoát ly khỏi trình độ lực lượng sản xuất, khiến mâu thuẫn giữa hai mặt của phương thức sản xuất trở nên gay gắt, đưa đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng như trước đổi mới. Do đó, cùng với việc tìm phương cách phát triển lực lượng sản xuất, giải phóng mọi nguồn lực để phát triển, với nhiều thành phần kinh tế, thì quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được xác định “hoàn thiện từng bước”, với đa hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, tiếp thu trình độ tổ chức - quản lý kinh tế vĩ mô và quản trị doanh nghiệp hiện đại, hoàn thiện chế độ phân phối. Đồng thời, quan hệ sản xuất được xác định “tiến bộ phù hợp”, tức không chỉ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại như quan điểm trước đây, mà còn phù hợp với bản chất, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội là mối quan hệ mới, được Đại hội XII của Đảng chính thức xác lập, là ba chủ thể tạo nên thế kiềng “ba chân” trong quản lý phát triển xã hội, vừa có quan hệ cạnh tranh, vừa hợp tác, vừa chế ước lẫn nhau, mà về bản chất chính là xử lý mối quan hệ giữa quyền lực nhà nước, quyền lực kinh tế và quyền lực đạo đức - văn hóa, với đại diện là Nhà nước - doanh nghiệp - tổ chức xã hội. Theo đó, Nhà nước vừa là chủ thể quản lý, vừa là chủ thể trên thị trường, đối tác của thị trường, tập trung chức năng kiến tạo phát triển, tạo lập môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch, không thiên vị cho các doanh nghiệp, tổ chức xã hội phát triển; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong phân bổ hiệu quả các nguồn lực; các tổ chức xã hội ngày càng có vai trò chủ động, tham gia sâu hơn, hiệu quả hơn trong quản lý phát triển, giám sát và phản biện xã hội. Để hài hòa hóa trong giải quyết quan hệ giữa Nhà nước - thị trường và xã hội, sự phân vai hợp lý và cơ chế tự điều tiết nội bộ giữa ba chủ thể có vai trò quyết định, đồng thời không thể không tính tới nhân tố từ bên ngoài là vai trò và năng lực lãnh đạo của Đảng trong điều tiết, sử dụng, phát huy đúng đắn vai trò, chức năng của Nhà nước, thị trường và xã hội.
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường là mối quan hệ lớn trọng tâm thể hiện sự phát triển bền vững phù hợp với xu thế của thời đại, đồng thời thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây là mối quan hệ lớn có nhiều thành tố cấu thành nhất, trong đó “tăng trưởng kinh tế” là hạt nhân có quan hệ vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với bốn thành tố còn lại; tăng trưởng kinh tế gắn chặt với thực hiện các nội dung khác trong mối quan hệ lớn trên sẽ trở thành phát triển bền vững, ngược lại, tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá, xem nhẹ hoặc tách rời các nội dung còn lại sẽ làm các giá trị văn hóa xuống cấp, gây bất bình đẳng, xung đột, bất ổn xã hội, hủy hoại môi trường và những hệ lụy khôn lường khác, kéo lùi sự phát triển và tiến bộ xã hội. Từ sự phát triển thiên về chiều rộng, chúng ta ngày càng quan tâm hơn đến chiều sâu và chất lượng tăng trưởng. Thực hiện phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Đặc biệt, bảo vệ môi trường chính thức trở thành một thành tố của mối quan hệ lớn trên cho thấy nhận thức đúng đắn và ngày càng đề cao việc tôn trọng, bảo vệ và nuôi dưỡng môi trường, với những quan điểm về phát triển hài hòa, thuận thiên, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn... Đây là những xu thế phát triển tất yếu, là bước tiến quan trọng về nhận thức lý luận của Đảng ta để kịp thời định hướng đúng đắn cho sự phát triển bền vững thời gian tới.
Mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa phản ánh hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, có quan hệ biện chứng sâu sắc, mang tầm chiến lược, có ảnh hưởng và chi phối tới các mối quan hệ lớn khác, tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thể hiện sự gắn bó chặt chẽ giữa hai mục tiêu lớn: Vừa xây dựng đất nước phồn vinh, giàu mạnh, vừa phải giữ vững độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc. Việc giải quyết mối quan hệ lớn trên được Đảng ta vận dụng trong tất cả lĩnh vực, khi chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại... đều “lưỡng dụng” gắn với các nhiệm vụ, mục tiêu quốc phòng, an ninh; thực hiện nhất quán quan điểm phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm, bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên; huy động và dựa vào sức mạnh tổng hợp cao nhất của mọi lực lượng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đó rường cột là lực lượng vũ trang. Xây dựng đất nước giàu mạnh chính là tạo lực và thế để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; bảo vệ vững chắc Tổ quốc chính là điều kiện quan trọng nhất để xây dựng đất nước, không được xem nhẹ bất kỳ một nhiệm vụ nào, không một phút lơ là. Trên cơ sở nhận thức sâu sắc về mối quan hệ lớn trên, nhiều vấn đề về quốc phòng, an ninh trong thời kỳ đổi mới được Đảng ta vận dụng linh hoạt, bảo đảm nguyên tắc, để giải quyết tốt, qua đó ngăn chặn, hóa giải và loại trừ các xung đột lớn, nguy cơ chiến tranh, giữ vững môi trường ổn định, hòa bình để phát triển đất nước, tạo dựng thế chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế thể hiện chiến lược kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại của Đảng ta ngay từ sớm, trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam, càng rõ nét trong công cuộc đổi mới đất nước. Ba thành tố của mối quan hệ lớn trên vừa tạo tiền đề cho nhau, vừa thống nhất, thúc đẩy nhau. Độc lập là chủ quyền pháp lý, tự chủ là chủ quyền thực tế; độc lập, tự chủ là sức mạnh bên trong, là nội lực. Hội nhập là tham gia và trở thành một bộ phận cấu thành của cộng đồng quốc tế, là sức mạnh ngoại lực. Giữ vững độc lập, tự chủ bằng sức mạnh tổng hợp quốc gia và bản sắc quốc gia trên tất cả lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... thì mới hội nhập thành công, nếu không sẽ bị lệ thuộc, hòa tan; ngược lại, hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả giúp nâng cao vị thế quốc gia, tận dụng các nguồn lực từ bên ngoài để phát triển đất nước, đa phương hóa các quan hệ quốc tế, đa dạng hóa, đan cài các quan hệ lợi ích, từ đó càng giúp gia tăng độc lập, tự chủ, nội lực. Nếu tuyệt đối hóa yếu tố độc lập, tự chủ thì sẽ thành biệt lập, “đóng cửa”, bỏ qua cơ hội tranh thủ được các nguồn lực từ bên ngoài, khiến nội lực không được bồi tụ, suy yếu; hoặc quá đề cao hội nhập, trong khi nội lực còn mỏng, dẫn đến bị lệ thuộc, đánh mất tự chủ, độc lập. Nhận thức sâu sắc mối quan hệ lớn trên, Đảng ta lãnh đạo giải quyết tốt giữa việc không ngừng gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, sự độc lập, tự chủ trong mọi lĩnh vực, quyết sách quan trọng, với việc hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tiếng nói và vị thế ngày càng nâng cao trên trường quốc tế, “ngoại giao cây tre” tiên phong xử lý khéo léo, mở rộng và đi vào chiều sâu các mối quan hệ quốc tế, chủ động tham gia nhiều hơn trong việc hình thành các cơ chế hợp tác, xây dựng luật lệ, chuẩn mực chung có tính chất định hình “cuộc chơi” trong quan hệ quốc tế...
Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ là mối quan hệ tổng quát, bao trùm, rộng lớn nhất trong chính trị và trong đời sống xã hội, khẳng định bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa do nhân dân làm chủ. Đây cũng là nguyên tắc chính trị tổng quát của chế độ chính trị của Việt Nam, mà trung tâm là cấu trúc và cơ chế vận hành của quyền lực chính trị - quyền lực nhà nước - quyền lực nhân dân, tương ứng với ba chủ thể quyền lực: Đảng - Nhà nước - nhân dân. Trong đó, Đảng giữ vững vai trò lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội, thực thi quyền lực chính trị của mình trước hết bằng Nhà nước và thông qua quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước ở vị trí trung tâm, có vai trò trọng yếu; là đối tượng chịu sự lãnh đạo của Đảng, nhưng Nhà nước lại có những chức năng đặc thù của một tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước do nhân dân ủy quyền, phát huy vai trò chủ động và không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Xây dựng cơ chế phát huy thực chất vai trò chủ thể quyền lực của nhân dân, với tư cách quyền lực nhân dân là quyền lực tối cao, quyền lực gốc.
Mối quan hệ giữa thực hành dân chủ, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội là mối quan hệ thứ mười, mới được Đại hội XIII của Đảng chính thức bổ sung. Mặc dù được xác lập sau, nhưng đây là mối quan hệ lớn có vị trí quan trọng đặc biệt vì dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ chính trị nước ta và sự ảnh hưởng rộng lớn của mối quan hệ này đối với mọi mặt của đời sống xã hội, mọi người dân, cần được chú trọng nhận thức và giải quyết tốt, trong tổng thể việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xã hội pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. “Thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm kỷ cương xã hội có mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ, nương tựa và làm tiền đề tồn tại cho nhau. Thực hiện pháp chế nghiêm minh là yếu tố bảo đảm, bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân được thực hành thực chất trong thực tiễn; đồng thời, thực hành dân chủ của nhân dân được mở rộng và phát huy sẽ càng làm cho pháp chế được tăng cường và kỷ cương trong xã hội được tôn trọng. Kỷ cương xã hội là kết quả và biểu hiện ra bên ngoài của pháp chế”(3). Cần tránh cả hai thái cực, mất dân chủ, dân chủ giả hiệu, hình thức, dân túy hoặc dân chủ quá trớn, tự do phường hội, vô chính phủ, khinh nhờn pháp luật. Sự đối lập hay tách rời giữa thực hành dân chủ với tăng cường pháp chế sẽ dẫn đến những hệ lụy khôn lường, đe dọa tới sự ổn định chính trị và kỷ cương, trật tự xã hội...
(Còn nữa)
---------------------------
* Bài viết là sản phẩm của Đề tài cấp nhà nước KX.04.02/21-25: "Những thành tựu phát triển lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 40 năm đổi mới"
(1) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, t. 25, tr. 295
(2) Nguyễn Phú Trọng: Về các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 52
(3) Lê Hải: “Giải quyết mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội đặt trong tổng thể việc nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn của Đảng ta” (Kỳ 2), Tạp chí Cộng sản, số 946 (7-2020), tr. 54
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét