Trong giai đoạn tới, tuy còn nhiều biến động về địa - chính trị, nhưng xu thế chung là khoa học - công nghệ trên thế giới sẽ phát triển rất nhanh cùng với toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển của các quốc gia. Các quốc gia đều điều chỉnh chiến lược phát triển, tăng cường liên kết, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, nhất là trong thương mại, đầu tư, nhân lực, khoa học - công nghệ. Tình hình này đòi hỏi Đảng ta tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, hành động quyết liệt, năng động và sáng tạo, tranh thủ thời cơ thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức để lãnh đạo phát triển kinh tế, đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững.
Bối cảnh mới với nhiều thời cơ và thách thức đan xen
Trên cơ sở vừa kế thừa mục tiêu được các đại hội trước đề ra, vừa tiếp thu các tiêu chí theo thông lệ quốc tế, Đại hội XIII của Đảng đã đề ra các mục tiêu cụ thể phát triển đất nước trong những năm tới: “Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”(1).
Đảng lãnh đạo toàn dân tộc thực hiện mục tiêu, khát vọng đó trong bối cảnh thế giới và trong nước có nhiều biến động, tác động không nhỏ đến phát triển kinh tế của Việt Nam, đó là:
Về bối cảnh quốc tế:
Bối cảnh quốc tế giai đoạn hiện nay có một số đặc điểm quan trọng:
Một là, thế giới đang đứng trước nhiều bất ổn khó lường. Gia tăng các xung đột, biến đổi khí hậu ngày càng ảnh hưởng nặng nề; tình trạng lạm phát và nguy cơ suy thoái kinh tế toàn cầu. Lạm phát ở một số nền kinh tế lớn chưa đi vào ổn định, thậm chí đang có xu hướng gia tăng. Hơn nữa, thế giới đang đối mặt với nguy cơ một cuộc suy thoái mới. Việc thắt chặt chính sách tiền tệ sẽ khiến tăng trưởng kinh tế toàn cầu đứng trước nguy cơ suy giảm.
Hai là, thế giới đang diễn ra quá trình hội nhập và chia tách đan xen. Một mặt, các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, kết nối khu vực được đẩy mạnh. Hai trong số những hiệp định điển hình là Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP); mặt khác, xu thế chia tách cũng đang xuất hiện, như sự kiện nước Anh ra khỏi Liên minh châu Âu (Brexit) và xung đột Nga - U-crai-na, Nga bị cấm vận và thế giới bị chia tách, hay xung đột ở Trung Cận Đông thời gian gần đây. Hệ quả là, các nước châu Âu gặp khó khăn về nguồn cung năng lượng và nhiều hệ lụy khác.
Ba là, dòng vốn đang dịch chuyển khỏi một số quốc gia truyền thống và đến một số quốc gia mới nổi. Việc các quốc gia điều chỉnh mục tiêu chiến lược để ứng phó với các rủi ro địa - chính trị khiến các luồng vốn có xu hướng dịch chuyển khỏi các quốc gia truyền thống (chẳng hạn Trung Quốc) và đến các nền kinh tế mới nổi (như ASEAN). Điều này, một mặt, gây tác động đến phát triển kinh tế của các quốc gia có dòng vốn dịch chuyển đi; mặt khác, tạo ra một cuộc cạnh tranh thu hút luồng vốn mới. Hệ quả là, các quốc gia đều phải điều chỉnh chính sách phát triển kinh tế.
Bốn là, thế giới đang trong thời đại cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với nhiều cơ hội và thách thức. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra nhiều cơ hội: Không gian kinh tế mới; công nghệ mới; sản phẩm mới... Thế giới sẽ được mở rộng hơn đi liền với liên kết mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng tạo ra các thách thức, nguy cơ tiềm tàng về dịch chuyển vốn; về cạnh tranh giữa thế giới thực và thế giới ảo. Đặc biệt, cùng với việc điều chỉnh mục tiêu và chiến lược kinh doanh, một loạt doanh nghiệp công nghệ đang sa thải hàng nghìn lao động. Hơn nữa, có những tập đoàn công nghệ số đã bị phá sản, tác động không nhỏ đối với sản phẩm số nói riêng và kinh tế thế giới nói chung.
Năm là, các nguy cơ an ninh phi truyền thống diễn biến ngày càng gay gắt. Các mối nguy cơ an ninh phi truyền thống như đại dịch COVID-19 là chưa có tiền lệ, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chuỗi sản xuất và chuỗi cung ứng do việc tiến hành giãn cách. Hơn nữa, biến đổi khí hậu diễn ra nhanh hơn, mạnh hơn, khó dự báo hơn cũng tác động sâu sắc đến an ninh và phát triển của các quốc gia.
Về bối cảnh trong nước:
Thứ nhất, tiếp tục xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung từ những năm cuối thập niên 80 thế kỷ XX. Xây dựng nền kinh tế thị trường, với nòng cốt là tạo điều kiện cho cơ chế thị trường vận hành, làm nền tảng cho cạnh tranh - từ đó, nguồn lực được phân bổ cho địa bàn, khu vực, chủ thể nào sử dụng nguồn lực đó hiệu quả nhất. Trong suốt gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Đặc biệt, thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN đã được hình thành ngày càng rõ nét. Trong giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, việc tiếp tục xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đòi hỏi tiếp tục đổi mới, cải cách, trong đó có việc hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tựu trung lại, cần tạo lập môi trường kinh doanh dựa trên cạnh tranh bình đẳng và hiệu quả.
Thứ hai, Việt Nam đang trở thành một trong những quốc gia đi đầu trong giai đoạn hội nhập thế hệ mới. Hội nhập quốc tế của Việt Nam đồng hành với quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Hội nhập kinh tế quốc tế - với nòng cốt là việc mở rộng thị trường, mở rộng địa bàn kinh tế, mà đòi hỏi cơ bản của nó là tăng cường năng lực cạnh tranh, trong đó có năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh ngành hàng và năng lực cạnh tranh doanh nghiệp. Nó tạo điều kiện cho doanh nghiệp, ngành hàng trong nước kết nối với chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu. Việt Nam là quốc gia đến sau trong hội nhập, nhưng là một trong những quốc gia khởi xướng hợp tác thương mại thế hệ mới. Việt Nam là thành viên sáng lập của các hiệp định CPTPP, RCEP và nhiều hiệp định FTA song phương thế hệ mới. Việt Nam cũng ký kết hợp tác với hầu hết quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Độ mở của nền kinh tế Việt Nam thuộc nhóm cao trong các quốc gia trên thế giới. Để tiếp tục “gặt hái” thành công với công cuộc hội nhập, Việt Nam cần tiến hành đồng thời nhiều giải pháp đồng bộ, nhưng then chốt nhất là cần không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, ngành hàng và doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ ba, là quốc gia đang công nghiệp hóa mạnh mẽ, đồng thời đang là quốc gia nhận vốn trong quá trình di chuyển vốn trên thế giới. Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động, các quan hệ kinh tế đang được điều chỉnh cho phù hợp. Một trong những khía cạnh rõ nét là vốn dịch chuyển khỏi các quốc gia truyền thống và đến các quốc gia mới nổi. Việt Nam là một quốc gia đón nhận dòng vốn đến. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để cạnh tranh, thu hút được nguồn vốn đó. Và khi nguồn vốn đã đến, làm thế nào để giữ nguồn vốn ở lại. Hơn nữa, làm thế nào để huy động được nguồn vốn nội địa tham gia quá trình sản xuất cùng với doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Vấn đề quan trọng nhất là phải làm sao để nguồn vốn nước ngoài không lấn át, chèn ép nguồn vốn trong nước mà hợp tác để cùng phát triển (nguyên lý Win - Win, các bên cùng có lợi).
Thứ tư, là quốc gia đến sau trong các cuộc cách mạng công nghiệp trước, nhưng đồng hành với thế giới trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư - hiện đại hóa. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với nòng cốt là số hóa, tạo cơ hội mở rộng không gian kinh tế. Đồng hành với thế giới, Việt Nam đang tiến hành xây dựng hệ thống công nghiệp hiện đại. Các sản phẩm công nghệ mới được đưa vào vận hành. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để vượt qua “bẫy gia công”, nghĩa là mãi nằm ở khâu gia công giá trị gia tăng thấp mà không vươn lên các khâu có giá trị gia tăng cao hơn. Việc tạo lập chuỗi sản xuất và phân phối gắn với thương hiệu Việt, đồng thời tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu là một trong những trọng tâm của công nghiệp hóa.
Thứ năm, Việt Nam đang trong quá trình đô thị hóa mạnh mẽ. Cùng với công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hội nhập sâu rộng, quá trình dân cư dịch chuyển đến các trung tâm, các địa bàn đô thị quan trọng là xu thế tất yếu. Quá trình đô thị hóa là hệ quả tất yếu của các quá trình công nghiệp hóa, thị trường hóa, hội nhập hóa và số hóa. Thực chất của đô thị hóa là tăng cường tập trung nhân tài, vật lực trong một địa bàn có lợi thế để tối ưu hóa kinh tế về quy mô. Hiện nay, Việt Nam đang có quy mô đô thị hóa trên 40%, triển vọng 50% vào năm 2030. Việc Việt Nam được đánh giá thành công trong phát triển đô thị mà tránh việc hình thành các khu ổ chuột được thế giới đánh giá cao. Từ nay đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, việc đáp ứng được nhu cầu đô thị hóa là một thách thức thật sự đối với phát triển kinh tế.
Thứ sáu, sự gia tăng mạnh mẽ của tầng lớp trung lưu, kéo theo là tỷ lệ tiết kiệm tăng cao, có nguồn lực tiềm năng cho phát triển. Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp). Đi liền với đó, Việt Nam đang ở thời kỳ dân số vàng. Như là hệ quả, tỷ lệ tầng lớp trung lưu của Việt Nam tăng nhanh hàng đầu châu Á. Ngân hàng Thế giới đánh giá sự gia tăng tầng lớp trung lưu ở Việt Nam là thành quả của quá trình phát triển kinh tế. Hàng triệu người ở Việt Nam thoát nghèo và dịch chuyển lên một “nấc thang kinh tế” cao hơn, đó là tầng lớp trung lưu.
Thứ bảy, Việt Nam đã là quốc gia có thu nhập trung bình (thấp), kết cấu hạ tầng đang vào giai đoạn đầu tư nâng cấp mạnh mẽ. Để vượt qua bẫy thu nhập trung bình, một trong những yêu cầu là đầu tư mạnh để không ngừng cải thiện và nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông vận tải, điều này đòi hỏi có cơ chế mạnh mẽ, hiệu quả để thu hút nguồn vốn đầu tư. Vấn đề là làm sao để có thể nâng cấp kết cấu hạ tầng, nhưng không rơi vào bẫy nợ nước ngoài. Đây thực sự là vấn đề quan trọng trong giai đoạn từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Thứ tám, Việt Nam đang là quốc gia có tỷ lệ dân số vàng, nhưng đã xuất hiện tín hiệu sẽ sớm chuyển sang giai đoạn già hóa dân số. Theo các kết quả nghiên cứu xã hội học, thời kỳ dân số vàng của Việt Nam bắt đầu từ năm 2006 và kết thúc vào năm 2039. Thời kỳ dân số vàng được hiểu là giai đoạn phát triển vàng của mỗi quốc gia khi tỷ lệ người lao động gấp đôi số người phụ thuộc. Chúng ta còn khoảng 15 năm để tận dụng lợi thế này cũng như chuẩn bị ứng phó với giai đoạn già hóa dân số.
Thứ chín, là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nhất bởi biến đổi khí hậu, Việt Nam được Ủy ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) xác định là một trong những quốc gia có khả năng bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu do có bờ biển dài, diện tích biển rộng, đồng bằng và đồng bằng ngập lụt rộng lớn, vị trí nằm trên đường đi của bão cũng như dân số nghèo đói lớn. Việc ứng phó với hạn hán, xâm nhập mặn và xói lở bờ biển tại đồng bằng sông Cửu Long đang là những vấn đề hết sức quan trọng. Điều quan trọng nhất là cần thích ứng và vượt qua các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu. Điều này đòi hỏi Việt Nam nỗ lực rất nhiều trong quá trình phát triển.
Để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước
Để đạt được các mục tiêu phát triển đất nước như Văn kiện Đại hội XIII đã đề ra, Đảng cần tiếp tục thể hiện bản lĩnh, tư duy sáng tạo trong giai đoạn phát triển mới này. Theo đó, sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực kinh tế cần bám sát các định hướng sau:
Một là, tiếp tục đổi mới tư duy về kinh tế, đề ra đường lối, chủ trương phát triển kinh tế đúng đắn và lãnh đạo thực hiện thành công đường lối, chủ trương đó.
Qua gần 40 năm đổi mới, Đảng không ngừng đổi mới tư duy, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát huy mọi nguồn lực, đặc biệt là năng lực sáng tạo của tất cả giai cấp, các tầng lớp nhân dân... Trong thời gian tới, để quyết định đường lối, chính sách và chủ trương lớn về kinh tế một cách đúng đắn, Đảng cần tiếp tục phát huy dân chủ trong toàn xã hội, xuất phát từ lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy trí tuệ của toàn dân trong việc xây dựng chủ trương, chính sách của Đảng. Để nâng cao chất lượng ban hành đường lối, chủ trương, chính sách kinh tế... cần khắc phục sự áp đặt chủ quan, duy ý chí và giáo điều, tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn.
Bảo đảm sự thống nhất biện chứng giữa kinh tế và chính trị. Chính sách, chủ trương, đường lối kinh tế phải được luận chứng về kinh tế và chính trị trong sự thống nhất biện chứng, khắc phục sai lầm tách rời kinh tế với chính trị; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích trước mắt với lâu dài, lợi ích bộ phận, cục bộ với toàn cục, lợi ích toàn xã hội với lợi ích giai cấp, mỗi tầng lớp và mỗi cá nhân. Đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi.
Để thực hiện thành công chủ trương, đường lối của mình, Đảng phải lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN để làm tốt chức năng quản lý và tổ chức xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Với vai trò này, Đảng lãnh đạo xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh; chuyển từ tư duy Nhà nước quản trị sang Nhà nước kiến tạo phát triển; phối hợp hoạt động của các cơ quan nhà nước, bảo đảm sự vận hành thông suốt của bộ máy đó. Đảng không quyết định những vấn đề cụ thể thuộc thẩm quyền của cơ quan nhà nước. Xác định rõ ràng vai trò lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước nhằm khắc phục tình trạng có lúc, có nơi đã xảy ra là cơ quan đảng làm thay chức năng quản lý nhà nước, còn cơ quan nhà nước lại lấn át quyền quản lý của doanh nghiệp.
Hai là, tăng cường hơn nữa việc kiểm tra, giám sát trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng về kinh tế.
Kiểm tra, giám sát là một trong những phương thức lãnh đạo cơ bản của Đảng. Thông qua công tác này, Đảng nắm vững tình hình mọi mặt của các tổ chức đảng, nắm chắc đội ngũ cán bộ, đảng viên chấp hành quan điểm, đường lối của Đảng để có giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo phù hợp. Ngoài ra, còn để kiểm chứng tính đúng đắn, chính xác của chủ trương, đường lối về kinh tế, uốn nắn việc tổ chức, thực hiện và điều chỉnh nếu cần thiết.
Một chức năng quan trọng của kiểm tra, giám sát là để chống tham nhũng, tiêu cực, trước hết là tham nhũng, tiêu cực trên lĩnh vực kinh tế. Thực tế thời gian qua cho thấy, khó khăn lớn nhất của nhiệm vụ quan trọng này là việc đấu tranh chống hành vi tham nhũng của đảng viên giữ trọng trách lãnh đạo, quản lý chủ chốt trên các lĩnh vực, các ngành, các cấp... Để làm được điều này, cần quy định chặt chẽ hơn về kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ có chức vụ, quyền hạn; làm rõ thẩm quyền và trách nhiệm của từng chức danh cán bộ, công chức; kiểm soát thu, chi tài chính của cơ quan, tổ chức... Minh bạch và công khai thông tin nhằm phát huy dân chủ, tạo điều kiện cho các tổ chức đảng, các tổ chức quần chúng và đông đảo nhân dân phát hiện, báo cáo cơ quan có thẩm quyền để xác minh, xử lý hành vi tham nhũng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Rất cần thiết có một cơ chế phòng ngừa, trừng trị, răn đe, bảo đảm để không muốn tham nhũng, không thể tham nhũng, không dám tham nhũng, không cần tham nhũng.
Ba là, chú trọng công tác tổng kết thực tiễn.
Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu và phát triển lý luận, góp phần xây dựng và hoàn thiện đường lối, chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế trước mắt cũng như lâu dài là nhiệm vụ quan trọng. Thực tiễn gần 40 năm đổi mới cho thấy, Đảng thường xuyên tổng kết thực tiễn, xây dựng và ngày càng hoàn thiện hệ thống lý luận vững chắc trên lĩnh vực kinh tế. Đảng chú trọng lãnh đạo toàn diện, nhưng những chủ trương lớn, quan trọng cần qua thí điểm, tổng kết thành bài học kinh nghiệm có tính lý luận để chỉ đạo trên diện rộng. Trong thời gian tới, đối với công tác này cần tập trung theo hướng coi trọng tổng kết thực tiễn, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, nghiên cứu lý luận cần tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Coi trọng vận dụng, nhận thức đúng quy luật kinh tế khách quan, nâng cao năng lực dự báo và tầm nhìn dài hạn.
Bốn là, nâng cao vai trò và hiệu quả lãnh đạo kinh tế của tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong cơ quan nhà nước và tổ chức kinh tế.
Các tổ chức đảng và đảng viên trực tiếp quán triệt và triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, tiến hành công tác chính trị, tư tưởng đối với quần chúng trong doanh nghiệp và cơ quan. Thông qua các tổ chức đảng, đội ngũ đảng viên, các tổ chức đảng lãnh đạo các tổ chức quần chúng chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, trong đó có đường lối, chính sách về kinh tế. Do đó, cần nâng cao vai trò tiên phong, gương mẫu, có năng lực quản lý kinh tế của đội ngũ đảng viên, nhất là đảng viên nắm giữ vị trí quan trọng trong bộ máy quản lý kinh tế.
Năm là, đổi mới công tác cán bộ trên lĩnh vực lãnh đạo, quản lý nền kinh tế.
Để đáp ứng yêu cầu của hội nhập ngày càng sâu rộng, cần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cho cả nền kinh tế, đặc biệt là phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo chủ chốt trên lĩnh vực kinh tế.
Đổi mới công tác cán bộ; có cơ chế phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ có bản lĩnh, năng lực nổi trội và triển vọng vào vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả vượt cấp, nhất là cán bộ trẻ. Hoàn thiện hệ thống quy định xác định quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cấp ủy viên, đảng viên, nhất là chức danh lãnh đạo, quản lý kinh tế để có căn cứ nhận xét, đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý trên lĩnh vực kinh tế. Cùng với đó, có biện pháp hữu hiệu để xử lý nghiêm minh, đồng thời đề xuất bãi nhiệm đảng viên là cán bộ giữ trọng trách trong lĩnh vực kinh tế có năng lực yếu kém, có hành vi tham nhũng, lãng phí./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét