Thứ Năm, 28 tháng 4, 2022

CẢNH GIÁC VỚI NHỮNG KẺ TIỂU NHÂN!

     Nói xấu, bôi nhọ người khác luôn bị coi là hành động của “kẻ tiểu nhân”, nhưng lại là thủ đoạn được các thế lực chống phá Việt Nam sử dụng một cách thường xuyên. Mục đích của họ nhằm hạ uy tín cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, gây chia rẽ nội bộ, tạo thị phi trong xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân. Đây là chiêu trò “rượu cũ” nhưng “bình mới” rất nguy hiểm, cần sớm nhận diện và đấu tranh loại bỏ.
“Rượi cũ”. Luật pháp quốc tế và Việt Nam đã đưa ra những quy định, chế tài để xử lý đích đáng những tổ chức, cá nhân có hành vi xuyên tạc, bịa đặt, nói xấu, bôi nhọ người khác vì những mục đích xấu xa, đê hèn. Tuy nhiên, đằng sau những hành vi “tiểu nhân” ấy luôn là những mưu đồ chính trị thâm độc của các thế lực chống phá cách mạng nước ta, khiến chúng bất chấp tất cả. Điều đó, đòi hỏi mỗi người phải tỉnh táo, nhận diện đúng bản chất, không tiếp tay và tích cực đấu tranh để loại bỏ chúng ra khỏi đời sống xã hội./.
Yêu nước ST.

Ý NGHĨA CỦA VIỆC TREO CỜ TỔ QUỐC TRONG DỊP LỄ, TẾT!

         Mỗi một dân tộc, một Quốc gia đều có Quốc Kỳ riêng của mình. Việt Nam là một dân tộc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; Quốc Kỳ Việt Nam là lá cờ đỏ sao vàng, là biểu tượng của hồn Nước, lòng dân, của tình đoàn kết đời đời bền vững của đại gia đình các dân tộc Việt Nam, là biểu tượng thiêng liêng nhất, thể hiện nhiệt huyết cách mạng, sự hy sinh anh dũng của toàn thể nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến đánh đuổi quân xâm lược, giành độc lập, tự do cho Tổ Quốc. Lá cờ đỏ sao vàng - Biểu tượng chung nhất của dân tộc Việt Nam, đã khắc sâu vào tâm khảm của mỗi người dân Việt Nam và đã được cộng đồng Quốc tế công nhận và tôn trọng.

Việc treo cờ Tổ quốc là thể hiện lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, là ý thức trách nhiệm của mỗi người dân. Treo cờ Tổ quốc trang trọng trong những ngày lễ lớn, ngày Tết cổ truyền của dân tộc là thể hiện lòng yêu nước và tự hào của mỗi công dân Việt Nam, biểu tượng của tinh thần đoàn kết, chung sức, chung lòng phấn đấu xây dựng đất nước, quê hương ngày càng phồn vinh... Đó là sự thể hiện lòng tri ân của chúng ta đối với sự hy sinh xương máu của các thế hệ cha, anh trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc./.
Yêu nước ST.

NHẬN THỨC ĐÚNG GIÁ TRỊ CỦA CHIẾN THẮNG 30/4/1975: CƠ SỞ CỦA ĐẠO ĐỨC, NHÂN CÁCH VÀ TRÍ TUỆ CỦA NGƯỜI VIỆT NAM

 

          Đất nước ta đang trong dịp kỷ niệm 47 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2022). Gần đến dịp kỷ niệm, thế lực thù địch và những kẻ cơ hội chính trị, những kẻ suy thoái tư tưởng chính trị đã tung ra những thông tin sai trái, luận điệu xuyên tạc phủ nhận giá trị, bản chất của Chiến thắng 30/4/1975 trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

          Họ cho rằng, ngày 30/4/1975 là “ngày kết thúc của một cuộc nội chiến tương tàn”, “ngày ghi dấu ấn trong lịch sử khi dân tộc Việt Nam chia làm hai nửa “bên thắng cuộc” và “bên thua cuộc”... Vậy sự thật, bản chất của Chiến thắng 30-4-1975 là như thế nào?

          Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước không phải là nội chiến

          Đầu tiên cần khẳng định ngày 30-4-1975 là ngày vui thống nhất, ngày vui giải phóng của cả dân tộc Việt Nam!

          Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, theo nội dung Hiệp định Geneva được ký kết năm 1954, vĩ tuyến 17 được coi là ranh giới tạm thời chia đôi đất nước ta. Ranh giới ấy lẽ ra đã được xóa bỏ, hai miền Nam-Bắc ruột thịt có thể đã được thống nhất chỉ sau hai năm bằng một cuộc Tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu (Bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Geneva ghi rõ, cuộc Tổng tuyển cử sẽ được tổ chức vào tháng 7-1956). Nhưng chính âm mưu của đế quốc Mỹ muốn thế chân thực dân Pháp ở miền Nam đã phá hỏng cơ hội thống nhất hai miền Việt Nam. Chính quyền Ngô Đình Diệm-tay sai của đế quốc Mỹ biết không thể có cơ hội chiến thắng một cách đàng hoàng, hợp pháp qua cuộc Tổng tuyển cử trên cả nước trước Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Chủ tịch Hồ Chí Minh rất được lòng dân. Nên, dưới sự hậu thuẫn của Mỹ, Ngô Đình Diệm đã phớt lờ Tổng tuyển cử, giành quyền thống trị miền Nam bằng vũ lực, súng đạn, máy chém, sát hại dã man hàng vạn đồng bào, đảng viên Đảng Cộng sản và những người bị nghi ngờ ủng hộ Đảng Cộng sản, tạo ra những cuộc bắt bớ, giết hại tín đồ Phật giáo, gây mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo. Với việc dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, Mỹ đã thi hành ở Việt Nam chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Khi nhận thấy Ngô Đình Diệm không còn phù hợp với chính sách của mình, Mỹ lập tức dàn xếp một cuộc đảo chính, tiêu diệt cả hai anh em Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu, dựng lên tại miền Nam Việt Nam một chính thể khác phục vụ trung thành hơn cho lợi ích của Mỹ tại Việt Nam.

          Như thế cần khẳng định rằng, chính quyền Việt Nam cộng hòa hoàn toàn là tay sai của Mỹ, thực hiện mưu đồ của Mỹ là biến Việt Nam trở thành thuộc địa kiểu mới. Dưới sự chỉ đạo của Mỹ, cùng với quân Mỹ, quân đội ngụy quyền Sài Gòn đã thực hiện nhiều chiến dịch thảm sát đồng bào miền Nam. Kể cả khi Mỹ đưa quân trực tiếp tham chiến, hay sau khi quân Mỹ phải rút phần lớn lực lượng khỏi miền Nam Việt Nam theo Hiệp định Paris vào năm 1973 thì bản chất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng vẫn không thay đổi. Tại Việt Nam từ năm 1954 đến 1975, thực chất chỉ có một nhà nước chính danh của dân tộc Việt Nam tồn tại, đó là Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được khai sinh ngày 2-9-1945 từ sau cuộc Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập tuyên bố với toàn thể thế giới. Quốc hội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được nhân dân cả nước tín nhiệm bầu nên sau cuộc Tổng tuyển cử vào ngày 6-1-1946 (một số tỉnh tại miền Nam bầu vào ngày 23-12-1945 do không nhận được lệnh hoãn). Còn chính quyền Việt Nam cộng hòa tại miền Nam do Mỹ dựng lên, không do nhân dân Việt Nam bầu nên, chà đạp lên quyền lợi của dân tộc Việt Nam, đi ngược lại nguyện vọng của nhân dân miền Nam Việt Nam và toàn thể nhân dân Việt Nam. Vì thế, đây không phải là một chính quyền hợp pháp, hợp đạo lý, hợp lòng dân. Thực tế là trong suốt thời gian chính quyền tay sai của Mỹ tồn tại thì nhân dân miền Nam luôn đứng dậy để đấu tranh nhằm lật đổ chính quyền phi nghĩa này. Để phủ nhận chính quyền tay sai của Mỹ, để lật đổ nó, quân dân miền Nam đã lập ra Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam để lãnh đạo nhân dân toàn miền.

          Đến năm 1973, sau khi thua trên chiến trường, chịu sức ép của dư luận trong nước và quốc tế bởi đang thực hiện một cuộc chiến tranh phi nghĩa, đế quốc Mỹ buộc phải ký Hiệp định Paris, rút quân khỏi nước ta. Nhưng Mỹ vẫn để lại một đội ngũ cố vấn hùng hậu, vẫn viện trợ quân sự để tiếp tục biến chính quyền Sài Gòn thành con rối trong tay Mỹ.

          Như thế, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước không phải là một cuộc nội chiến giữa hai miền Nam-Bắc của Việt Nam như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Mà đây là cuộc kháng chiến của toàn thể dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam trước sự xâm lược của đế quốc Mỹ và đánh đổ bè lũ tay sai của Mỹ, kết thúc thắng lợi bằng Chiến thắng 30-4-1975.

Bên nào thắng cuộc?

          Như vậy, bên nào đã thắng cuộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước? Dĩ nhiên, đó là dân tộc Việt Nam đã thắng trong cuộc đấu tranh chống xâm lược, nhân dân Việt Nam đã thắng trong thực hiện khát vọng thống nhất đất nước, giành độc lập, hòa bình cho Tổ quốc. Để giành được thắng lợi vĩ đại đó, cả dân tộc Việt Nam đã chiến đấu anh dũng, bền bỉ trong suốt 30 năm.

          Những ý nghĩ cho rằng, Việt Nam "có thể thực hiện thống nhất đất nước bằng giải pháp hòa bình" là hết sức thiển cận, hồ đồ, thiếu hiểu biết về thực tế lịch sử. Đảng ta, Nhà nước ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh và các lãnh đạo kế nhiệm đã nhất quán, thể hiện từ rất sớm mong muốn giành độc lập, thống nhất nước nhà bằng biện pháp hòa bình, đã nỗ lực thực hiện nhiều giải pháp ngoại giao, tránh chiến tranh. Thế nhưng đáp lại thiện ý đó, thực dân Pháp, sau đó là đế quốc Mỹ và tay sai luôn khước từ, tìm cách phá hoại, vì muốn thống trị nước ta bằng sức mạnh quân sự, đã chà đạp lên mong ước hòa bình, độc lập, thống nhất Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam.

          Trong hai năm 1945-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có 8 bức thư và điện gửi Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman. Nội dung của các bức thư, bức điện này thể hiện rõ mong muốn được độc lập, hòa bình của Việt Nam và thiện chí của Việt Nam muốn được “hợp tác đầy đủ” với Mỹ vì hòa bình, tiến bộ và phát triển. Nhưng đáp lại chỉ là sự im lặng!

          Hội nghị Fontainebleau diễn ra suốt hơn hai tháng (từ ngày 6-7 đến 10-9-1946). Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn Việt Nam còn sang Pháp trước đó hàng tháng trời để tìm mọi cơ hội đàm phán với Chính phủ Pháp, thuyết phục chính giới Pháp nhằm giành độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam bằng hòa bình. Nhưng mọi nỗ lực và thiện chí của Chính phủ Việt Nam, của phái đoàn Việt Nam đều bị xem nhẹ vì nước Pháp vẫn mang tư tưởng thực dân, vẫn muốn chiếm đoạt nước ta. Giải pháp tổ chức một cuộc bầu cử phổ thông đầu phiếu ở Nam Bộ để thống nhất Việt Nam đã bị phía Pháp phớt lờ.

          Trong Hiệp định Paris năm 1973 có điều khoản về bầu cử, hiệp thương để thống nhất Việt Nam. Tuy nhiên, phía Mỹ-ngụy lại tiếp tục trắng trợn phá hoại hiệp định, xua quân nống lấn ra vùng tự do, đàn áp nhân dân ta chỉ hai giờ sau khi lệnh ngừng bắn có hiệu lực.

          Có thể thấy, Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam rất yêu chuộng hòa bình, muốn giành độc lập, thống nhất đất nước bằng biện pháp hòa bình, tránh đổ máu, muốn tổ chức hiệp thương, Tổng tuyển cử để bầu ra chính phủ thống nhất hai miền, nhưng chính đế quốc Mỹ và tay sai đã hai lần phá hoại hiệp thương, Tổng tuyển cử, phá hoại cả hai hiệp định hòa bình là Hiệp định Geneva và Hiệp định Paris. Do đó, hòa bình, độc lập, thống nhất, hạnh phúc như ngày hôm nay là thành quả vĩ đại của cả dân tộc ta. Bất cứ ai xúc phạm thành quả ấy, muốn chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc đều là những kẻ thiếu tử tế, mất nhân cách.

          Hòa hợp dân tộc không phải là trộn lẫn, đánh đồng chính nghĩa và phi nghĩa

          Hiện nay, thực hiện chủ trương lớn hết sức đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta, đồng bào Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài ra sức đoàn kết, đóng góp để xây dựng đất nước. Nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài cả về vật chất, trí tuệ, công sức đều hết sức quý giá, luôn được trân trọng. Trong số những người Việt Nam ở nước ngoài, đại bộ phận đều hướng về quê hương với tình yêu và sự nhiệt thành muốn đóng góp cho quê hương. Ngay cả những lãnh đạo của chính quyền Việt Nam cộng hòa năm xưa như ông Nguyễn Cao Kỳ cũng đã nhận ra sai lầm, thể hiện tấm lòng hướng về quê cha đất tổ, muốn đóng góp công sức để xây dựng đất nước Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự đồng lòng, đoàn kết của người Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài, đất nước Việt Nam đã có những thành tựu đột phá về phát triển trong thời kỳ đổi mới, kinh tế đất nước, đời sống của nhân dân và vị thế quốc gia ngày càng đi lên.

          Thế nhưng cũng có một bộ phận thiểu số, hầu hết đều là những người đã từng làm tay sai cho đế quốc Mỹ, thì chỉ luôn tìm cách hòng phá hoại đất nước Việt Nam. Họ coi ngày 30-4 là ngày “quốc hận”, là ngày giỗ của một chính thể phi pháp, phi nghĩa. Họ luôn đưa ra điều kiện hết sức phi lý là để “hòa hợp dân tộc” thì phải bỏ việc kỷ niệm ngày Chiến thắng 30-4-1975.

          Những người ấy đã nhầm! Đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam luôn có khát vọng thống nhất, hòa hợp, đã chiến đấu kiên cường vì khát vọng ấy. Và thực tế, đất nước Việt Nam đã thống nhất, hòa hợp dân tộc từ ngay sau Chiến thắng 30-4-1975, Nam-Bắc một nhà ra sức xây dựng đất nước. Đối với những người Việt Nam ở nước ngoài, Tổ quốc luôn mở rộng vòng tay yêu thương, luôn coi họ là một phần ruột thịt của Tổ quốc.

          “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” là bài học quý báu được đúc rút từ lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm căn dặn mỗi người chúng ta. Hòa hợp dân tộc luôn là điều mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta nỗ lực thực hiện. Thế nhưng, hòa hợp dân tộc dứt khoát không phải là sự chối bỏ lịch sử! Hòa hợp dân tộc không phải là sự đổi trắng thay đen, không phải là sự trộn lẫn giữa chính nghĩa và phi nghĩa, dứt khoát không phải là sự đánh đồng giữa những người có công với những kẻ có tội với dân tộc Việt Nam! "Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh người chạy" lại là đạo lý của người Việt Nam. Vì thế những ai thực sự thành tâm hối cải, muốn quay về thì Tổ quốc Việt Nam, nhân dân Việt Nam luôn dành cho họ cơ hội. Còn những kẻ luôn rắp tâm phá hoại đất nước, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nếu không sớm tỉnh ngộ “quay đầu là bờ” thì nhân dân Việt Nam cũng khó dung tha.

          Dịp kỷ niệm ngày Chiến thắng 30-4-1975, chúng ta lại càng thấm thía hơn ý nghĩa của việc dạy và học lịch sử đối với người Việt Nam. Đối với các quốc gia trên thế giới, việc giáo dục lịch sử luôn là yêu cầu bắt buộc đối với mọi công dân. Đối với một quốc gia, dân tộc có một quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước nhiều khúc quanh co, phức tạp như dân tộc Việt Nam thì dạy và học lịch sử có ý nghĩa sống còn, sinh tồn của dân tộc. Bởi vì những người Việt Nam thế hệ sau phải hiểu rõ, hiểu sâu về lịch sử dân tộc, hiểu về cha ông mình, hiểu về mảnh đất nơi mình sinh ra, từ đó sẽ hiểu về chính bản thân mình, rút ra cho mình những bài học quý báu. Hiểu về lịch sử, nắm vững kiến thức lịch sử là một yếu tố đánh giá nhân cách, đạo đức và trí tuệ của một con người Việt Nam. Có hiểu về lịch sử, mới hiểu về hiện tại và hình dung ra con đường đúng đắn tới tương lai; có trân trọng, biết ơn cha ông mới trân quý, nâng niu những gì mình đang có, để nỗ lực đóng góp công sức không chỉ cho thế hệ hiện tại mà cho các thế hệ tương lai trên đất nước Việt Nam.

 

DẤU ẤN LỊCH SỬ NGÀY 29/4

 

          - Ngày 29-4-1975, Quần đảo Trường Sa được hoàn toàn giải phóng. Quân chủng Hải quân cùng lực lượng phối thuộc của Quân khu 5 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiến công giải phóng quần đảo Trường Sa lúc 9 giờ ngày 29-4-1975, đây là nhiệm vụ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Chiến công này khẳng định sự chỉ đạo sáng suốt, chính xác, kịp thời của Thường trực Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh và Quân chủng Hải quân trên mũi tiến công trên hướng biển trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.

          - Ngày 29-4-1966, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Trung đoàn Ra-đa 293 với nhiệm vụ là “tai, mắt” dẫn đường cho Không quân ta chiến đấu, cảnh giới vùng trời, bảo đảm ra-đa cho các lực lượng đánh máy bay địch. Chỉ sau hơn 2 tháng huấn luyện, ngày 10-7-1966, trung đoàn đã bắt đầu phát sóng ra-đa cảnh giới vùng trời phía Bắc của Tổ quốc; ngày 19-7-1966, đơn vị đã lập chiến công đầu khi dẫn đường cho biên đội máy bay Mig-17 cất cánh từ Nội Bài bắn rơi 1 máy bay F105 của không quân Mỹ. Để thể hiện tinh thần, quyết tâm đánh giặc, lãnh đạo trung đoàn đã đề nghị cấp trên đặt tên cho đơn vị là “Đoàn Phù Đổng”. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cán bộ, chiến sĩ Đoàn Phù Đổng đã phát hiện gần 52.400 tốp máy bay địch, trong đó có 251 tốp B-52; trực tiếp và tham gia dẫn đường bổ trợ cho không quân đánh 614 trận, bắn rơi 173 máy bay địch. Đặc biệt, trong Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” cuối tháng 12-1972, Trung đoàn 293 cùng với các đơn vị bạn đã dũng cảm chiến đấu, phát hiện sớm máy bay B-52, góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc.

          Trong thời kỳ mới, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 293 đã lập nhiều thành tích đặc biệt xuất sắc, được tặng nhiều phần thưởng cao quý; đặc biệt, năm 2004, đơn vị vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân...

          - Ngày 29-4-1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thǎm Đại hội thi đua Thành phố Hà Nội. Người đã tặng huy hiệu cho 35 đại biểu có thành tích thi đua khá nhất.

          - Ngày 29-4-1946, tại cuộc họp Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thông báo việc được “Hội giúp Binh sĩ bị nạn” tại Huế mời ra làm Chủ tịch Danh dự và các Bộ trưởng làm Hội viên Danh dự và đề nghị Chính phủ nên đáp lại bằng việc ra thông tư cho các địa phương nên có hình thức tỏ lòng biết ơn đối với các chiến sĩ. Hội đồng Chính phủ còn bàn đến vấn đề tha chính trị phạm, việc thu hoạch vụ chiêm, chống phá rừng và đề nghị Chủ tịch nước ra lời kêu gọi công nhân Việt Nam nhân ngày Quốc tế Lao động. Cùng ngày, Bác đã ký Sắc lệnh về ngày 1-5 nghỉ có lương đối với tất cả công nhân làm việc trong các doanh nghiệp công và tư.

          - Ngày 29-4-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư đến đồng bào cả nước sau ngày cụ Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng tạ thế với lời đánh giá: “Cụ Huỳnh là người mà giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo khổ không làm nản chí, oai vũ không làm sờn gan. Cả đời cụ Huỳnh không cầu danh vị, không cầu lợi lộc, không thèm làm giàu, không thèm làm quan. Cả đời cụ Huỳnh chỉ phấn đấu cho dân được tự do, nước được độc lập... Chúng ta thương tiếc cụ Huỳnh vô cùng. Nhưng chúng ta không nên thương tiếc bằng cách than khóc rầu rĩ. Chúng ta thương tiếc cụ bằng cách: càng đoàn kết chặt chẽ, càng hăng hái kháng chiến; bằng cách: theo gương dũng cảm, nối chí quật cường của cụ; bằng cách: hoàn thành sự nghiệp cứu nước, cứu dân mà cụ đã ra sức đeo đuổi suốt đời. Chúng ta phải đồng thanh thề trước tiên linh của cụ Huỳnh rằng: Đồng bào Việt Nam quyết theo gương kiên quyết của cụ. Con Rồng cháu Tiên quyết không làm nô lệ...”.

          - Ngày 29-4-1952, với bút danh Đ.X, Bác viết bài “Bọn đế quốc đường cùng” đăng trên Báo Cứu Quốc điểm lại các cuộc chiến đấu chống đế quốc trên thế giới để đi đến nhận định: “Mấy năm trước đây, các ông đế quốc Mỹ, Anh, Pháp đều “thở ra sét, hét ra lửa”, ai dám động đến. Song các dân tộc xưa kia chịu làm trâu ngựa, nay đã hóa ra sư tử, hùm thiêng”.

          - Ngày 29-4-1966, chiếc máy bay thứ 1.000 của Mỹ bị bắn rơi trên bầu trời miền Bắc thuộc về chiến công của quân dân tỉnh Bắc Thái..../.

                                                                                                          st

KHÔNG PHẢI AI CŨNG CÓ MAY MẮN ĐƯỢC CHỨNG KIẾN KHUNG CẢNH NƯỚC NHÀ THỐNG NHẤT

 

          Họ chiến đấu vì điều gì? Vì ngày Tổ quốc thu về một mối. Nhưng không phải người nào cũng có may mắn được chứng kiến khoảnh khắc ấy.

          Những ngày cuối cuộc chiến, tại trại Davids - một trại lính của những cuộc đàm phán bốn bên gần Tân Sơn Nhất, có hàng trăm cán bộ, chiến sĩ của hai phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (CHMNVN) đồn trú. Tướng Cao Văn Viên của VNCH muốn giữ những người này làm con tìm để ra yêu sách cho quân Giải phóng không tiến vào Sài Gòn, nếu nghiêm trọng hơn, có thể cho xe tăng và hơi độc thủ tiêu. Nhưng hàng trăm chiến sĩ của phía ta đã chuẩn bị sẵn sàng phương án chiến đấu đến hơi thở cuối cùng…

          “Nhân dân Việt Nam đã chờ ngày này lâu lắm rồi, không thể trì hoãn lâu hơn được nữa. Toàn thể chiến sĩ hai phái đoàn sẵn sàng chiến đấu và hy sinh! Không được để anh em bận tâm, hãy để các anh em tiến thẳng vào Sài Gòn”

          Đêm 29, rạng sáng 30, một đơn vị đặc công phía ta tấn công đồn bốt Ký Thú Ôn - một địa điểm tiến vào Sài Gòn từ phía Nam. Nhiệm vụ không thành công, phần lớn trung đội hy sinh gần hết. Rạng sáng hôm sau, nơi này thất thủ bởi quân chủ lực của chúng ta. Một chiến sĩ từ trung đội hy sinh nói với đoàn quân đến sau: “Cám ơn các anh, thật buồn vì nhiều đồng chí của chúng tôi không đi cùng các anh vào trung tâm được”...

          Trước khi tấn công Trà Vinh, chiến sĩ Nguyễn Văn Tuân đã làm “quảng ca” cho đoàn quân, bắt nhịp hát bài: “Thề quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Anh Tuân được giao nhiệm vụ cầm cờ, một nhiệm vụ rất quan trọng, vừa vinh hạnh nhưng cũng là mục tiêu đầu tiên bị nhắm đến. Trà Vinh sạch bóng quân thù, nhưng anh Tuân phải nằm lại vĩnh viễn ở khoảnh khắc ngay trước khi lá cờ được cắm tại Trà Vinh - 11 giờ ngày 30/4/1975.

          “Tuân lúc đó mới 22 tuổi, gia đình nhiều lần thúc giục chuyện vợ con nhưng Tuân chưa chịu với lý do còn chiến tranh, không biết mình hi sinh lúc nào, sợ làm khổ người ở lại… Nó định sau chiến tranh sẽ tính, nhưng thật tiếc vì nó không được ngắm nhìn thời khắc quê hương của nó được giải phóng. Dự định ấy mãi mãi là dự định…” - đồng đội anh kể lại bùi ngùi.

          Cầu Rạch Chiếc là chiếc cầu huyết mạch ở cửa vào Sài Gòn. Trong 3 ngày từ 27 đến 30/04, đặc công ta và địch đã chiến đấu quyết liệt để chiếm quyền kiểm soát cây cầu này. Đây là trận đánh lớn cuối cùng của quân ta trước ngày giải phóng. Đơn vị chiến đấu đã làm lễ truy điệu sớm cùn mong ước khát khao được tiến vào Dinh Độc Lập… Nhưng 52 chiến sĩ đặc công của chúng ta đã hy sinh tại Rạch Chiếc, tuy họ không được tiến vào Dinh Độc Lập, nhưng đồng đội của họ đã thay họ làm việc đó…

          Nhắc về 30/04, phần đông chúng ta sẽ biết đến khung cảnh húc cổng Dinh Độc Lập, một số khác nghĩ về đoàn người nô nức kéo nhau chờ đón đoàn quân Giải phóng hoặc về hình ảnh lá cờ được phất vào thời khắc 11h30... Nhưng bên cạnh những hình ảnh chiến thắng đó, còn là những sự hy sinh anh hùng trong những khoảnh khắc cuối cùng…

          Nhớ lại khoảnh khắc cuối cùng của Mùi Cỏ Cháy, bốn chàng sinh viên chơi thân với nhau, cùng mong muốn chiến đấu, cùng khát khao chờ ngày Thống Nhất để chụp bức ảnh ăn mừng. Nhưng sau đó, chỉ còn một người còn sống…

          "Giữ cẩn thận, sau này cho con cháu chúng nó biết, chúng ta đã đi qua cuộc chiến này như thế nào nhá"...

            Cám ơn các anh, những người đã sống trọn vẹn cho Tổ Quốc!



GIÁ TRỊ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VÀ TÍNH THỜI SỰ SÂU SẮC CỦA ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN NĂM 1975

 

Kỷ niệm 47 năm Đại thắng mùa xuân năm 1975 là dịp để toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ôn lại quá khứ đấu tranh hào hùng của quân và dân ta; tưởng nhớ, tri ân chiến sĩ, đồng bào anh dũng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do, thống nhất đất nước và rút ra những bài học kinh nghiệm về phát huy sức mạnh ĐĐKDT của Đảng. Quán triệt, vận dụng bài học đó trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là trách nhiệm, tình cảm, niềm tin, niềm tự hào của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, chung sức, đồng lòng thực hiện khát vọng xây dựng, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Quán triệt, vận dụng bài học phát huy sức mạnh ĐĐKDT của Đảng trong Đại thắng mùa Xuân 1975 vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, cần thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với phát huy sức mạnh ĐĐKDT.Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hoá, thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, nhằm khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là ngọn cờ quy tụ, sự quản lý của Nhà nước là phương thức bảo đảm để ĐĐKDT thực sự là cội nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu, có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, phát huy vai trò, trách nhiệm của hệ thống chính trị, các tổ chức đoàn thể xã hội và các tầng lớp nhân dân trong quán triệt, thể chế hóa, cụ thể hóa, nâng cao hiệu lực, hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng và xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về phát huy sức mạnh ĐĐKDT. Khi đại dịch COVID-19 bùng phát, Ban Bí thư, Thường trực Ban Bí thư, Chính phủ đã kịp thời ban hành các văn bản chỉ đạo toàn dân đoàn kết, chung tay cùng hệ thống chính quyền các cấp phòng, chống, khắc phục hậu quả dịch bệnh; góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong củng cố, tăng cường sức mạnh ĐĐKDT, đáp ứng sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc cần “phát huy ngày càng tốt hơn vai trò chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân; chủ động tham gia giám sát và phản biện xã hội; làm tốt vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị”. Tích cực vận động nhân dân tham gia xây dựng Đảng vững mạnh về “chính trị, tư tưởng, đạo đức tổ chức và cán bộ”, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa “của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”; thực hành dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội; đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, các chương trình mục tiêu quốc gia… do Đảng, Nhà nước phát động. Mặt trận Tổ quốc đã kịp thời cụ thể hóa các văn bản chỉ đạo, lời kêu gọi của Ban Bí thư, Thường trực Ban Bí thư, Chính phủ và lãnh đạo Đảng, Nhà nước thành phong trào, chương trình hành động thiết thực; huy động hàng chục tấn trang thiết bị, vật tư y tế, hàng chục triệu liều vaccine, hàng nghìn tỷ đồng… để triển khai các biện pháp bảo hộ công dân bằng những chuyến bay giải cứu đồng bào tại các tâm dịch, vùng chiến sự và thực hiện đồng bộ, quyết liệt các giải pháp phòng, chống, thích ứng an toàn, kiểm soát hiệu quả, từng bước bình thường hóa dịch bệnh COVID-19, nhằm hạn chế sự tác động của dịch bệnh và xung đột vũ trang xảy ra ở một số nước trên thế giới, bảo vệ quyền lợi, tính mạng và tài sản của nhân dân.

Thứ ba, không ngừng đổi mới nội dung, phương thức tiến công tác vận động quần chúng và khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh hạnh phúc. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cần “tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, vận động đông đảo nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước…góp phần tích cực vào những thành tựu chung của đất nước, nhằm tạo sự nhất trí, đồng thuận về chính trị tinh thần rộng rãi trong nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước. Theo đó, tập trung vào những nhiệm vụ trọng tâm, các đột phá chiến lược do Đại hội XIII xác định; các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021-2025, cuộc vận động, phong trào thi đua của Đảng, Nhà nước phát động… nhằm thúc đẩy phong trào khởi nghiệp, đổi mới, sáng tạo và khơi dậy khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc của mọi tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ. Những tấm gương cán bộ, nhân viên, chiến sĩ ngành Y, lực lượng vũ trang và đội ngũ tình nguyện viên, cùng sự ủng hộ vật chất, tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân, kiều bào trong cuộc chiến chống đại dịch COVID-19 là biểu hiện sinh động nhất về hiệu quả đổi mới nội dung, phương thức phát huy sức mạnh khối ĐĐKDT của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức đoàn thể thành viên hiện nay.

Thứ tư, kết hợp chặt chẽ công tác vận động quần chúng với công tác đối ngoại và đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chia rẽ khối ĐĐKDT của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trịỦy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên các cấp cần chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân, bạn bè quốc tế nhận thức sâu sắc hơn, đồng thuận hơn về chủ trương, đường lối “đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng” của Đảng. Triển khai hiệu quả nội dung đối ngoại nhân dân, nhằm tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, góp phần huy động các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh. Đồng thời, tích cực chủ động, kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng các vấn đề: “dân tộc”, “tôn giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền”; những hạn chế, yếu kém trong quản lý, phát triển kinh tế - xã hội, trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và dịch bệnh COVID-19… để xuyên tạc, chống phá và chia rẽ khối ĐĐKDT.

HAIVAN

NHỮNG BÀI HỌC QUÝ BÁU VỀ PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC TRONG ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN NĂM 1975


 Một là, sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo, nhạy bén, kịp thời của Đảng là nhân tố quyết định phát huy sức mạnh ĐĐKDT cho Đại thắng mùa Xuân năm 1975Thắng lợi vang dội của các hướng tiến công chiến lược trên toàn miền Nam tạo bước ngoặt căn bản về tương quan so sánh giữa lực lượng giữa ta và địch; ta giành thế chủ động tiến công chiến lược, nhất là sau thắng lợi Chiến dịch Tây Nguyên đã xuất hiện nhân tố mới, trực tiếp làm xoay chuyển cục diện chiến trường, đưa chiến tranh cách mạng ở miền Nam phát triển nhảy vọt. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị, Thường vụ Quân ủy Trung ương đã kịp thời điều chỉnh kế hoạch giải phóng miền Nam từ hai năm (1975 - 1976) lúc đầu, sang kế hoạch rút xuống còn một năm, rồi quyết định kết thúc trước mùa mưa, tốt nhất là trong tháng 4/1975; đồng thời, tổ chức các đòn tiến công chiến lược vào những địa bàn, mục tiêu chiến lược của địch, tạo thời cơ chín muồi cho ta mở trận quyết chiến chiến lược tại Sài Gòn - Gia Định bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh. Những quyết sách đóđã trở thành ngọn cờ hiệu triệu toàn dân, toàn quân phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh, tạo “sự đồng tâm của đồng bào đúc thành bức tường đồng xung quanh Tổ quốc” tiến hành tổng tiến công và nổi dậy trên toàn chiến trường miền Nam, đánh tan ngụy quân, xóa bỏ ngụy quyền, giải phóng, thống nhất đất nước; với khí thế thần tốc, táo bạo, bất ngờ, một ngày bằng hai mươi năm… xốc tới mặt trận quyết chiến, quyết thắng, v.v.. 

Hai là, phát huy vai trò của mặt trận đoàn kết trong vận động, tập hợp lực lượng, tạo cơ sở vững chắc cho củng cố và tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc. Tuy khác nhau về tên gọi, nhưng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở miền Bắc và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đều đặt dước sự lãnh đạo của Đảng và có chung mục đích tập hợp, đoàn kết, huy động mọi nguồn lực từ các tầng lớp nhân dân, thực hiện “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”,vì mục tiêu toàn thắng, thống nhất đất nước. Mặt trận đã tập hợp rộng rãi các tầng lớp, giai cấp, tôn giáo, dân tộc, các nhân sĩ, trí thức yêu nước và tiến bộ, không phân biệt tuổi tác, giới tính…ở hai miền, đồng tâm, hợp lực vượt qua mọi khó khăn gian khổ, kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng. Đồng thời, khai thác những nội dung tương đồng về mục tiêu hoạt động của tổ chức Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam để mở rộng khối ĐĐKDT. Qua đó, tuyên truyền, bảo vệ cuộc đấu tranh chính nghĩa và lập trường hòa bình của nhân dân Việt Nam; vạch trần tính chất phi nghĩa, phản động của cuộc chiến tranh do Mỹ - ngụy gây ra; tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên thế giới… nhằm cổ vũ phong trào đấu tranh cách mạng và phát huy sức mạnh ĐĐKDT cho Đại thắng mùa Xuân năm 1975.

Ba là, vận dụng linh hoạt các hình thức, biện pháp tiến hành công tác vận động quần chúng để phát huy sức mạnh ĐĐKDT cho tổng tiến công và nổi dậy.Trung ương Cục, Quân ủy Miền đã chủ động, sáng tạo xây dựng các giải pháp, nội dung, mục tiêu công tác vận động quần chúng phù hợp với điều kiện thực tiễn của các vùng miền, địa phương và đặc điểm của công nhân, nông dân, nhân sĩ, trí thức, thanh niên, học sinh, sinh viên, thân nhân binh sĩ…; được tiến hành bằng nhiều hình thức sáng tạo, linh hoạt, như: Công vận, nông vận, thanh vận, phụ vận… với mục tiêu đòi chấm dứt chiến tranh, giải tán ngụy quân, giải thể ngụy quyền; nhằm quy tụ và phát huy sức mạnh ĐĐKDT. Hiệu quả công tác vận động quần chúng và những thắng lợi vang dội từ chiến trường góp phần phát huy cao độ khí thế, tinh thần cách mạng tiến công của quân và dân ta; đồng thời, đánh sập ý chí chiến đấu, sức phản kháng của địch, đẩy ngụy quyền Sài Gòn vào tình thế lúng túng, bị động, hoang mang tột độ; tạo thời cơ lớn để tiến hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa, giải phóng hoàn toàn miền Nam. Qua đó, cổ vũ động viên đồng bào, chiến sĩ cả nước củng cố niềm tin tất thắng vào sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, vào thành công của tổng tiến công và nổi dậy; thể hiện sự thống nhất “ý Đảng - lòng Dân”, “trên dưới đồng lòng” kết thành sức mạnh vô song của khối ĐĐKDT.

Bốn là, kết hợp công tác vận động quần chúng với công tác binh vận và đấu tranh với sự chống phá của kẻ thù để củng cố, phát huy sức mạnh ĐĐKDT. Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Trung ương Cục đã kịp thời chỉ đạo các tổ chức, lực lượng trên toàn miền Nam quán triệt, nhận thức đúng vị trí, vai trò, tầm quan trọng của kết hợp công tác vận động quần chúng với công tác binh vận; coi công tác vận động quần chúng, binh vận là một trong những mũi tấn công quan trọng, “thắng địch bằng công tác binh vận cũng quan trọng như thắng địch bằng tác chiến”. Triển khai quán triệt, tuyên truyền sâu rộng, thực hiện nghiêm 10 chính sách của Chính phủ Cách mạng lâm thời và Chỉ thị số 218-CT/TW ngày 18/4/1975 của Ban Bí thư về chính sách đối với tù, hàng binh trong tình hình mới, nhất là đối với binh sĩ khởi nghĩa, binh sĩ giác ngộ trở về với cách mạng và tù binh, v.v.. Huy động mọi tầng lớp nhân dân tham gia vận động, giác ngộ, cảm hóa binh lính, nhân viên, các phe phái trong nội bộ ngụy quân, ngụy quyền trở về với gia đình, với cách mạng; chú trọng vận động binh sĩ rã ngũ tập thể, buông súng, từ chối chấp hành nhiệm vụ, phản chiến, khởi nghĩa, chủ động từ bỏ hàng ngũ địch sang hàng ngũ cách mạng, v.v.. Đồng thời, đấu tranh, trừng trị, cô lập những kẻ ngoan cố, chống đối và những luận điệu xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của cách mạng; vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn thổi phồng vấn đề “dân tị nạn”, “cuộc tắm máu”, cổ vũ tư tưởng “tử thủ”, kích động hận thù giai cấp, dân tộc của Mỹ - ngụy, nhằm nói xấu cách mạng và tạo cớ cho Mỹ tiếp tục can thiệp vào miền Nam. Hiệu quả của sự kết hợp đó đã “làm tan rã lực lượng lớn quân địch, buộc ngụy quyền Sài Gòn phải đầu hàng không điều kiện, giải phóng thành phố Sài Gòn - Gia Định, đưa chiến dịch lịch sử mang tên Bác Hồ vĩ đại đến toàn thắng”, hạn chế hy sinh, đổ máu, Sài Gòn và các đô thị của miền Nam hầu như nguyên vẹn.

HAIVAN

Lời Bác dạy ngày này năm xưa

 

1.


“Nội bộ phải đoàn kết chặt chẽ. Làm mọi việc phải đi sâu, đi sát, phải tránh chủ quan, phải có kế hoạch chu đáo, phải có quyết tâm bền bỉ”. Đó là đoạn trích trong bài nói chuyện của Bác tại Hội nghị cán bộ ngành Công an năm 1963.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề giáo dục, rèn luyện Công an nhân dân thành một lực lượng trưởng thành, lớn mạnh về mọi mặt. Người luôn nhắc nhở rằng, người chiến sĩ công an sinh ra từ nhân dân, vì nhân dân chiến đấu là người lính có lý tưởng cao cả, kiên quyết hăng hái làm tròn nhiệm vụ. Thực tế lịch sử đã chứng minh, dưới sự lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, mang trong mình bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc, lực lượng công an luôn dũng cảm trong chiến đấu, giữ vững bản chất cách mạng, ý chí chiến đấu, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện tốt vai trò nòng cốt trong cuộc chiến giữ gìn an ninh nội bộ và xây dựng thế trận an ninh nhân dân.

Nội dung, ý nghĩa trong lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ dành riêng cho lực lượng công an, mà còn dành cho các cấp, các ngành, các lực lượng; trong đó có Quân đội nhân dân. Sức mạnh chiến đấu của quân đội phải được bắt đầu từ sức mạnh đoàn kết nội bộ. Nội bộ thống nhất, chặt chẽ mới có thể đưa mọi việc được triển khai đồng bộ, phải nghiên cứu kỹ mọi việc, lập kế hoạch sâu sát, tỉ mỉ trước khi thi hành để đảm bảo chắc chắn thành công. Nghiên cứu công việc kỹ lưỡng chưa đủ, khi thực thi còn phải thận trọng và không được chủ quan mới có thể đi đến đích thắng lợi. Suy rộng ra, đoàn kết nội bộ ở đây cũng có nghĩa là đoàn kết nội bộ Đảng, đoàn kết dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Muốn làm được điều đó mỗi tổ chức, mỗi cá nhân, mà trước tiên là cấp ủy, tổ chức Đảng, cán bộ chủ trì, chủ chốt các cấp phải tiên phong gương mẫu chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, giữ gìn đoàn kết nội bộ tốt, có tác phong lãnh đạo dân chủ, quần chúng, sâu sát, cụ thể, tới nơi, tới chốn và thực hành nêu gương trước cấp dưới và quần chúng. Kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện cục bộ, bè phái, lợi ích nhóm, chủ nghĩa kinh nghiệm, độc đoán, gia trưởng, xa rời, lãnh cảm với cấp dưới và quần chúng…

HAIVAN

Chặn tham nhũng, tiêu cực - vững lòng dân, thế nước

 

Những năm qua, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, đặc biệt là hoạt động của ủy ban kiểm tra (UBKT) các cấp đã góp phần quan trọng vào việc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

Nhận thức đúng giá trị của Chiến thắng 30-4-1975: Cơ sở của đạo đức, nhân cách và trí tuệ của người Việt Nam

Đất nước ta đang trong dịp kỷ niệm 47 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975/30-4-2022). Gần đến dịp kỷ niệm, thế lực thù địch và những kẻ cơ hội chính trị, những kẻ suy thoái tư tưởng chính trị đã tung ra những thông tin sai trái, luận điệu xuyên tạc phủ nhận giá trị, bản chất của Chiến thắng 30-4-1975 trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Phát huy giá trị Chiến thắng 30-4-1975 trong sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới Nhiều hoạt động kỷ niệm Ngày chiến thắng 30-4 Phát huy giá trị của Chiến thắng 30-4, đưa đất nước phát triển lên tầm cao mới Họ cho rằng, ngày 30-4-1975 là “ngày kết thúc của một cuộc nội chiến tương tàn”, “ngày ghi dấu ấn trong lịch sử khi dân tộc Việt Nam chia làm hai nửa “bên thắng cuộc” và “bên thua cuộc”... Vậy sự thật, bản chất của Chiến thắng 30-4-1975 là như thế nào? Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước không phải là nội chiến Đầu tiên cần khẳng định ngày 30-4-1975 là ngày vui thống nhất, ngày vui giải phóng của cả dân tộc Việt Nam! Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, theo nội dung Hiệp định Geneva được ký kết năm 1954, vĩ tuyến 17 được coi là ranh giới tạm thời chia đôi đất nước ta. Ranh giới ấy lẽ ra đã được xóa bỏ, hai miền Nam-Bắc ruột thịt có thể đã được thống nhất chỉ sau hai năm bằng một cuộc Tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu (Bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Geneva ghi rõ, cuộc Tổng tuyển cử sẽ được tổ chức vào tháng 7-1956). Nhưng chính âm mưu của đế quốc Mỹ muốn thế chân thực dân Pháp ở miền Nam đã phá hỏng cơ hội thống nhất hai miền Việt Nam. Chính quyền Ngô Đình Diệm-tay sai của đế quốc Mỹ biết không thể có cơ hội chiến thắng một cách đàng hoàng, hợp pháp qua cuộc Tổng tuyển cử trên cả nước trước Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Chủ tịch Hồ Chí Minh rất được lòng dân. Nên, dưới sự hậu thuẫn của Mỹ, Ngô Đình Diệm đã phớt lờ Tổng tuyển cử, giành quyền thống trị miền Nam bằng vũ lực, súng đạn, máy chém, sát hại dã man hàng vạn đồng bào, đảng viên Đảng Cộng sản và những người bị nghi ngờ ủng hộ Đảng Cộng sản, tạo ra những cuộc bắt bớ, giết hại tín đồ Phật giáo, gây mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo. Với việc dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, Mỹ đã thi hành ở Việt Nam chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Khi nhận thấy Ngô Đình Diệm không còn phù hợp với chính sách của mình, Mỹ lập tức dàn xếp một cuộc đảo chính, tiêu diệt cả hai anh em Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu, dựng lên tại miền Nam Việt Nam một chính thể khác phục vụ trung thành hơn cho lợi ích của Mỹ tại Việt Nam. Như thế cần khẳng định rằng, chính quyền Việt Nam cộng hòa hoàn toàn là tay sai của Mỹ, thực hiện mưu đồ của Mỹ là biến Việt Nam trở thành thuộc địa kiểu mới. Dưới sự chỉ đạo của Mỹ, cùng với quân Mỹ, quân đội ngụy quyền Sài Gòn đã thực hiện nhiều chiến dịch thảm sát đồng bào miền Nam. Kể cả khi Mỹ đưa quân trực tiếp tham chiến, hay sau khi quân Mỹ phải rút phần lớn lực lượng khỏi miền Nam Việt Nam theo Hiệp định Paris vào năm 1973 thì bản chất của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng vẫn không thay đổi. Tại Việt Nam từ năm 1954 đến 1975, thực chất chỉ có một nhà nước chính danh của dân tộc Việt Nam tồn tại, đó là Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được khai sinh ngày 2-9-1945 từ sau cuộc Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn độc lập tuyên bố với toàn thể thế giới. Quốc hội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được nhân dân cả nước tín nhiệm bầu nên sau cuộc Tổng tuyển cử vào ngày 6-1-1946 (một số tỉnh tại miền Nam bầu vào ngày 23-12-1945 do không nhận được lệnh hoãn). Còn chính quyền Việt Nam cộng hòa tại miền Nam do Mỹ dựng lên, không do nhân dân Việt Nam bầu nên, chà đạp lên quyền lợi của dân tộc Việt Nam, đi ngược lại nguyện vọng của nhân dân miền Nam Việt Nam và toàn thể nhân dân Việt Nam. Vì thế, đây không phải là một chính quyền hợp pháp, hợp đạo lý, hợp lòng dân. Thực tế là trong suốt thời gian chính quyền tay sai của Mỹ tồn tại thì nhân dân miền Nam luôn đứng dậy để đấu tranh nhằm lật đổ chính quyền phi nghĩa này. Để phủ nhận chính quyền tay sai của Mỹ, để lật đổ nó, quân dân miền Nam đã lập ra Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam để lãnh đạo nhân dân toàn miền. Nhận thức đúng giá trị của Chiến thắng 30-4-1975: Cơ sở của đạo đức, nhân cách và trí tuệ của người Việt Nam Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, xe tăng của quân Giải phóng đã tiến vào dinh Tổng thống, sào huyệt cuối cùng của chế độ Ngụy quyền Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất hoàn toàn đất nước. Ảnh: TTXVN Đến năm 1973, sau khi thua trên chiến trường, chịu sức ép của dư luận trong nước và quốc tế bởi đang thực hiện một cuộc chiến tranh phi nghĩa, đế quốc Mỹ buộc phải ký Hiệp định Paris, rút quân khỏi nước ta. Nhưng Mỹ vẫn để lại một đội ngũ cố vấn hùng hậu, vẫn viện trợ quân sự để tiếp tục biến chính quyền Sài Gòn thành con rối trong tay Mỹ. Như thế, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước không phải là một cuộc nội chiến giữa hai miền Nam-Bắc của Việt Nam như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Mà đây là cuộc kháng chiến của toàn thể dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam trước sự xâm lược của đế quốc Mỹ và đánh đổ bè lũ tay sai của Mỹ, kết thúc thắng lợi bằng Chiến thắng 30-4-1975. Bên nào thắng cuộc? Như vậy, bên nào đã thắng cuộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước? Dĩ nhiên, đó là dân tộc Việt Nam đã thắng trong cuộc đấu tranh chống xâm lược, nhân dân Việt Nam đã thắng trong thực hiện khát vọng thống nhất đất nước, giành độc lập, hòa bình cho Tổ quốc. Để giành được thắng lợi vĩ đại đó, cả dân tộc Việt Nam đã chiến đấu anh dũng, bền bỉ trong suốt 30 năm. Những ý nghĩ cho rằng, Việt Nam "có thể thực hiện thống nhất đất nước bằng giải pháp hòa bình" là hết sức thiển cận, hồ đồ, thiếu hiểu biết về thực tế lịch sử. Đảng ta, Nhà nước ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh và các lãnh đạo kế nhiệm đã nhất quán, thể hiện từ rất sớm mong muốn giành độc lập, thống nhất nước nhà bằng biện pháp hòa bình, đã nỗ lực thực hiện nhiều giải pháp ngoại giao, tránh chiến tranh. Thế nhưng đáp lại thiện ý đó, thực dân Pháp, sau đó là đế quốc Mỹ và tay sai luôn khước từ, tìm cách phá hoại, vì muốn thống trị nước ta bằng sức mạnh quân sự, đã chà đạp lên mong ước hòa bình, độc lập, thống nhất Tổ quốc của dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam. Trong hai năm 1945-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có 8 bức thư và điện gửi Tổng thống Hoa Kỳ Harry Truman. Nội dung của các bức thư, bức điện này thể hiện rõ mong muốn được độc lập, hòa bình của Việt Nam và thiện chí của Việt Nam muốn được “hợp tác đầy đủ” với Mỹ vì hòa bình, tiến bộ và phát triển. Nhưng đáp lại chỉ là sự im lặng! Hội nghị Fontainebleau diễn ra suốt hơn hai tháng (từ ngày 6-7 đến 10-9-1946). Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn Việt Nam còn sang Pháp trước đó hàng tháng trời để tìm mọi cơ hội đàm phán với Chính phủ Pháp, thuyết phục chính giới Pháp nhằm giành độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam bằng hòa bình. Nhưng mọi nỗ lực và thiện chí của Chính phủ Việt Nam, của phái đoàn Việt Nam đều bị xem nhẹ vì nước Pháp vẫn mang tư tưởng thực dân, vẫn muốn chiếm đoạt nước ta. Giải pháp tổ chức một cuộc bầu cử phổ thông đầu phiếu ở Nam Bộ để thống nhất Việt Nam đã bị phía Pháp phớt lờ. Trong Hiệp định Paris năm 1973 có điều khoản về bầu cử, hiệp thương để thống nhất Việt Nam. Tuy nhiên, phía Mỹ-ngụy lại tiếp tục trắng trợn phá hoại hiệp định, xua quân nống lấn ra vùng tự do, đàn áp nhân dân ta chỉ hai giờ sau khi lệnh ngừng bắn có hiệu lực. Có thể thấy, Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam rất yêu chuộng hòa bình, muốn giành độc lập, thống nhất đất nước bằng biện pháp hòa bình, tránh đổ máu, muốn tổ chức hiệp thương, Tổng tuyển cử để bầu ra chính phủ thống nhất hai miền, nhưng chính đế quốc Mỹ và tay sai đã hai lần phá hoại hiệp thương, Tổng tuyển cử, phá hoại cả hai hiệp định hòa bình là Hiệp định Geneva và Hiệp định Paris. Do đó, hòa bình, độc lập, thống nhất, hạnh phúc như ngày hôm nay là thành quả vĩ đại của cả dân tộc ta. Bất cứ ai xúc phạm thành quả ấy, muốn chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc đều là những kẻ thiếu tử tế, mất nhân cách. Hòa hợp dân tộc không phải là trộn lẫn, đánh đồng chính nghĩa và phi nghĩa Hiện nay, thực hiện chủ trương lớn hết sức đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta, đồng bào Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài ra sức đoàn kết, đóng góp để xây dựng đất nước. Nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài cả về vật chất, trí tuệ, công sức đều hết sức quý giá, luôn được trân trọng. Trong số những người Việt Nam ở nước ngoài, đại bộ phận đều hướng về quê hương với tình yêu và sự nhiệt thành muốn đóng góp cho quê hương. Ngay cả những lãnh đạo của chính quyền Việt Nam cộng hòa năm xưa như ông Nguyễn Cao Kỳ cũng đã nhận ra sai lầm, thể hiện tấm lòng hướng về quê cha đất tổ, muốn đóng góp công sức để xây dựng đất nước Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự đồng lòng, đoàn kết của người Việt Nam ở trong nước và ở nước ngoài, đất nước Việt Nam đã có những thành tựu đột phá về phát triển trong thời kỳ đổi mới, kinh tế đất nước, đời sống của nhân dân và vị thế quốc gia ngày càng đi lên. Thế nhưng cũng có một bộ phận thiểu số, hầu hết đều là những người đã từng làm tay sai cho đế quốc Mỹ, thì chỉ luôn tìm cách hòng phá hoại đất nước Việt Nam. Họ coi ngày 30-4 là ngày “quốc hận”, là ngày giỗ của một chính thể phi pháp, phi nghĩa. Họ luôn đưa ra điều kiện hết sức phi lý là để “hòa hợp dân tộc” thì phải bỏ việc kỷ niệm ngày Chiến thắng 30-4-1975. Những người ấy đã nhầm! Đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam luôn có khát vọng thống nhất, hòa hợp, đã chiến đấu kiên cường vì khát vọng ấy. Và thực tế, đất nước Việt Nam đã thống nhất, hòa hợp dân tộc từ ngay sau Chiến thắng 30-4-1975, Nam-Bắc một nhà ra sức xây dựng đất nước. Đối với những người Việt Nam ở nước ngoài, Tổ quốc luôn mở rộng vòng tay yêu thương, luôn coi họ là một phần ruột thịt của Tổ quốc. “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết” là bài học quý báu được đúc rút từ lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm căn dặn mỗi người chúng ta. Hòa hợp dân tộc luôn là điều mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta nỗ lực thực hiện. Thế nhưng, hòa hợp dân tộc dứt khoát không phải là sự chối bỏ lịch sử! Hòa hợp dân tộc không phải là sự đổi trắng thay đen, không phải là sự trộn lẫn giữa chính nghĩa và phi nghĩa, dứt khoát không phải là sự đánh đồng giữa những người có công với những kẻ có tội với dân tộc Việt Nam! "Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh người chạy" lại là đạo lý của người Việt Nam. Vì thế những ai thực sự thành tâm hối cải, muốn quay về thì Tổ quốc Việt Nam, nhân dân Việt Nam luôn dành cho họ cơ hội. Còn những kẻ luôn rắp tâm phá hoại đất nước, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nếu không sớm tỉnh ngộ “quay đầu là bờ” thì nhân dân Việt Nam cũng khó dung tha. Dịp kỷ niệm ngày Chiến thắng 30-4-1975, chúng ta lại càng thấm thía hơn ý nghĩa của việc dạy và học lịch sử đối với người Việt Nam. Đối với các quốc gia trên thế giới, việc giáo dục lịch sử luôn là yêu cầu bắt buộc đối với mọi công dân. Đối với một quốc gia, dân tộc có một quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước nhiều khúc quanh co, phức tạp như dân tộc Việt Nam thì dạy và học lịch sử có ý nghĩa sống còn, sinh tồn của dân tộc. Bởi vì những người Việt Nam thế hệ sau phải hiểu rõ, hiểu sâu về lịch sử dân tộc, hiểu về cha ông mình, hiểu về mảnh đất nơi mình sinh ra, từ đó sẽ hiểu về chính bản thân mình, rút ra cho mình những bài học quý báu. Hiểu về lịch sử, nắm vững kiến thức lịch sử là một yếu tố đánh giá nhân cách, đạo đức và trí tuệ của một con người Việt Nam. Có hiểu về lịch sử, mới hiểu về hiện tại và hình dung ra con đường đúng đắn tới tương lai; có trân trọng, biết ơn cha ông mới trân quý, nâng niu những gì mình đang có, để nỗ lực đóng góp công sức không chỉ cho thế hệ hiện tại mà cho các thế hệ tương lai trên đất nước Việt Nam.