Chủ Nhật, 2 tháng 10, 2022

Chủ trương, quan điểm của Đảng về vấn đề dân tộc

Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta, vấn đề dân tộc đã được khẳng định: nhiệm vụ tối cao của cách mạng Việt Nam là “Độc lập dân tộc và người cày có ruộng”. Khẩu hiệu đó đã đáp ứng được yêu cầu cấp bách từ thực tiễn và đã hiệu triệu được hàng triệu người dân Việt Nam đi theo Đảng, làm cách mạng để giải phóng mình, bởi nó phù hợp với nguyện vọng và khát vọng của nhân dân các dân tộc.

Tại Đại hội lần thứ nhất của Đảng tháng 3-1935, trong các nghị quyết của Đại hội đều đề cập đến vấn đề dân tộc với ba nội dung: sinh hoạt kinh tế, chính trị và xã hội của nhân dân các dân tộc.

Nhằm mục đích phản đế, phản phong, từ năm 1930 đến năm 1945, Đảng ta đã thành lập mặt trận dân tộc thống nhất trên cơ sở tập hợp đông đảo các lực lượng yêu nước, không phân biệt dân tộc, tôn giáo. Chính các mặt trận này đã tạo nên một khối thống nhất, có sức mạnh to lớn, góp phần quan trọng làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc ở Việt Nam. Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định: “Các dân tộc thiểu số được bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ”. Điều này khẳng định sự bình đẳng về lợi ích và nghĩa vụ của tất cả các dân tộc - tộc người trong một quốc gia Việt Nam thống nhất. Chính điều này đã tạo nên cơ sở pháp lý vững chắc để đồng bào tin tưởng và ủng hộ kháng chiến, kiến quốc.

Trước những hành động khiêu khích thể hiện dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Hưởng ứng lời hiệu triệu của Người, đồng bào các dân tộc đã cùng cả nước bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ.

Trong bối cảnh cả nước ra trận, phải dốc toàn lực để kháng chiến, Đảng ta đã kịp thời đề ra Nghị quyết về vấn đề dân tộc. Tháng 8-1952, Nghị quyết của Bộ Chính trị về vấn đề dân tộc đã khẳng định: “Đoàn kết các dân tộc trên nguyên tắc bình đẳng tương trợ để giúp nhau tiến bộ về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá”.

Đây là quan điểm thể hiện chủ trương, đường lối đúng đắn, toàn diện đầu tiên của Đảng ta về vấn đề dân tộc - tộc người ở Việt Nam, mà cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Trong bối cảnh lúc bấy giờ, quan điểm của Đảng về vấn đề dân tộc hoàn toàn phù hợp với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện. Nhờ có chủ trương, đường lối đúng đắn về vấn đề dân tộc mà Đảng ta đã tập hợp được toàn thể dân tộc, trong đó có các dân tộc thiểu số anh em cùng hướng vào mục tiêu chung là đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược. Trong trận quyết chiến chiến lược tại Điện Biên Phủ, Đảng ta đã phát huy sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc làm nên kỳ tích “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, đưa miền Bắc tiến lên CNXH và là hậu phương vững chắc để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954 - 1975, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (1959) đã xác định con đường cách mạng miền Nam: Phải kết hợp giữa ba mũi giáp công là chính trị, quân sự, binh vận, kết hợp ba vùng là đô thị, đồng bằng, miền núi. Theo tinh thần của Nghị quyết, miền núi là địa bàn chiến lược quan trọng và đồng bào các dân tộc thiểu số là lực lượng cách mạng to lớn. Trên tinh thần ấy, Đại hội III của Đảng đã đề ra nhiệm vụ, đường lối của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, trong đó đề cập tới vấn đề dân tộc: “Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, các dân tộc đa số và thiểu số có một truyền thống đoàn kết anh em. Đảng và Nhà nước ta cần phải có kế hoạch toàn diện và lâu dài phát triển kinh tế và văn hóa ở miền núi tiến kịp miền xuôi, các dân tộc thiểu số tiến kịp dân tộc đa số, giúp các dân tộc phát huy tinh thần cách mạng và khả năng to lớn của mình...(3).

Từ 1960 - 1975, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra hàng loạt các chủ trương, chính sách về vấn đề dân tộc, trong đó có Nghị định số 133/CP ngày 29-9-1961 của Hội đồng Chính phủ về quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Ủy ban Dân tộc; Nghị quyết số 53-NQ/TW ngày 09-5-1962 của Bộ Chính trị về công tác Mặt trận Dân tộc thống nhất; Nghị định số 34/CP ngày 05-3-1968 của Hội đồng Chính phủ về việc sửa đổi tổ chức bộ máy của Ủy ban Dân tộc; Nghị quyết số 109/CP ngày 19-6-1973 của Hội đồng Chính phủ về một số chính sách cụ thể đối với đồng bào các dân tộc vùng cao.

Nhờ có chủ trương, chính sách đúng đắn về vấn đề dân tộc, phù hợp với thực tiễn nên đã động viên đồng bào các dân tộc thiểu số ở mỗi miền tích cực tham gia thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Ở miền Bắc, đồng bào các dân tộc thiểu số cùng toàn thể nhân dân tham gia xây dựng CNXH, chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, xây dựng miền Bắc trở thành hậu phương vững chắc, chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam. Ở miền Nam, đồng bào các dân tộc thiểu số đã sát cánh cùng người Kinh cống hiến sức lực, xương máu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, làm nên đại thắng mùa Xuân năm 1975.

Bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, Đại hội IV của Đảng đã đề ra chính sách dân tộc: “Giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ có tính chất chiến lược của cách mạng Việt Nam… Chính sách dân tộc của Đảng là thực hiện triệt để quyền bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, tạo những điều kiện cần thiết để xóa bỏ tận gốc những chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc ít người và dân tộc đông người, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, vùng cao tiến kịp vùng thấp, làm cho tất cả các dân tộc đều có cuộc sống ấm no, văn minh và hạnh phúc, đoàn kết giúp đỡ nhau tiến bộ, cùng làm chủ tập thể Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(4).

Những năm sau đó, các nghị quyết của Đại hội V và VI của Đảng đã đặt ra vấn đề đổi mới và thực hiện chính sách dân tộc. Điều này được cụ thể hóa trong Nghị quyết số 22-NQTW ngày 27-11-1989 của Bộ Chính trị và Quyết định số 72-HĐBT ngày 13-3-1990 của Hội đồng Bộ trưởng đề ra những chủ trương, chính sách lớn về phát triển kinh tế - xã hội miền núi.

Đặc biệt, Đại hội VI (tháng 12-1986) đã chỉ rõ: “Sự nghiệp đẩy mạnh ba cuộc cách mạng ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số đòi hỏi tăng cường công tác nghiên cứu về dân tộc và công tác điều tra xã hội học, hiểu biết đầy đủ những khác biệt cụ thể của từng vùng, từng dân tộc. Trên cơ sở đó, bổ sung, cụ thể hóa và thực hiện tốt hơn chính sách dân tộc, tránh những sai lầm, rập khuôn hoặc chủ quan áp đặt những hình thức tổ chức không phù hợp trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở các vùng dân tộc… Trong khi xử lý các mối quan hệ dân tộc phải có thái độ thận trọng đối với những gì liên quan đến lợi ích của mỗi dân tộc và tình cảm dân tộc của mỗi người. Chống những thái độ, hành động biểu thị tư tưởng “dân tộc lớn” và những biểu hiện của tư tưởng dân tộc hẹp hòi”(5).

Đến Đại hội VII của Đảng, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh việc thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Tôn trọng lợi ích, truyền thống văn hóa, ngôn ngữ, tập quán, tín ngưỡng của các dân tộc. Chống tư tưởng dân tộc lớn và dân tộc hẹp hòi, kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số.

Đại hội chỉ rõ: “Huy động mọi nguồn lực tại chỗ và cả nước... Khai thác đi đôi với bảo vệ, tái tạo các nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường, bảo đảm lợi ích của các dân tộc… Nhà nước hỗ trợ về đầu tư mở mang giao thông vận tải, bảo vệ môi trường, tài trợ cho y tế, giáo dục và đào tạo cán bộ người dân tộc, đồng thời thực hiện chính sách ưu đãi về tài chính, tín dụng, tiền lương,… giữ gìn và phát huy bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc… Có chính sách phát triển hàng hóa ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp với điều kiện và đặc điểm từng vùng, từng dân tộc, bảo đảm cho đồng bào các dân tộc khai thác được thế mạnh của địa phương... Tôn trọng tiếng nói và có chính sách đúng đắn về chữ viết đối với các dân tộc. Đặc biệt, có chính sách khắc phục tình trạng suy giảm dân số đối với một số dân tộc ít người… Có chính sách đặc biệt để phát triển giáo dục và đào tạo ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số, mở rộng và nâng cao chất lượng các trường, lớp nội trú, coi trọng việc đào tạo cán bộ và trí thức người dân tộc”(6).

Như vậy, đến Đại hội VII, chủ trương, đường lối về dân tộc được Đảng ta nâng lên tầm cao mới, được thể chế hóa ở các chính sách cụ thể đối với đồng bào các dân tộc thiểu số. Quan điểm này được ghi rõ trong Hiến pháp năm 1992: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Nhà nước thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa tốt đẹp của mình. Nhà nước thực hiện chính sách về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số”(7).

Đến Đại hội VIII, vấn đề dân tộc được Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: “Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược lớn, thực hiện bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xây dựng Luật Dân tộc từ nay đến năm 2000 bằng nhiều biện pháp tích cực và vững chắc thực hiện cho được ba mục tiêu chủ yếu: xóa được đói, giảm được nghèo, ổn định và cải thiện được đời sống, sức khỏe của đồng bào dân tộc, đồng bào vùng cao, vùng biên giới; xóa được mù chữ, nâng sao dân trí, tôn trọng và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc; xây dựng được cơ sở chính trị, đội ngũ cán bộ, đảng viên của các cấp trong sạch và vững mạnh”(8).

Đại hội IX đã tổng kết và tiếp tục hoàn thiện chủ trương, chính sách về dân tộc: “Thực hiện tốt các chính sách dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển sản xuất hàng hóa, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói, giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi, đặc biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là căn cứ cách mạng và kháng chiến. Tích cực thực hiện chính sách ưu tiên trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số. Động viên phát huy vai trò của những người tiêu biểu, có uy tín trong dân tộc và ở địa phương. Chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc”(9).

Đại hội X của Đảng ta năm 2006 tiếp tục nhấn mạnh: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ... Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng… Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số; động viên, phát huy vai trò của những người tiêu biểu trong các dân tộc. Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, trí thức là người dân tộc thiểu số. Cán bộ công tác ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải gần gũi, hiểu phong tục tập quán, tiếng nói của đồng bào dân tộc, làm tốt công tác dân vận. Chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc”(10).

Đây là luận điểm rất quan trọng của Đảng ta, thể hiện tầm nhìn chiến lược, tư duy đổi mới trong bối cảnh quốc gia và quốc tế của thời kỳ đổi mới. Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam chủ yếu sinh sống tại miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới nên đời sống còn nhiều khó khăn cả về vật chất và tinh thần. Do vậy, đồng bào các dân tộc thiểu số khó vươn lên hòa nhập cùng với sự phát triển chung của cả nước và còn khoảng cách phát triển giữa các dân tộc, tiềm ẩn những yếu tố có thể gây mất ổn định chính trị, xã hội, nhất là khi các thế lực thù địch lợi dụng thực tế này chia rẽ khối đoàn kết dân tộc. Do đó, Đảng ta luôn coi trọng vấn đề dân tộc, coi việc giải quyết vấn đề dân tộc vừa là vấn đề an ninh quốc gia và chủ quyền lãnh thổ, vừa là vấn đề kinh tế - xã hội.

Bài học của nhiều nước trên thế giới những năm cuối thế kỷ XX cho thấy, nếu coi nhẹ và không xác định đúng vị trí vấn đề dân tộc trong chiến lược phát triển đất nước thì dễ dẫn đến nguy cơ xung đột dân tộc trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ.

Đến Đại hội XI vấn đề dân tộc tiếp tục được Đảng quan tâm: “Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh”(11)Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số”(12).

Những quan điểm trên thể hiện sự quan tâm ngày càng sâu sát, cụ thể và rất thiết thực của Đảng đối các dân tộc - một vấn đề lý luận có tầm quan trọng chiến lược trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

Trên cơ sở tổng kết thực tiễn 30 năm đổi mới, Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta”(13).

Đến Đại hội XIII, chủ trương, đường lối của Đảng về vấn đề dân tộc tiếp tục được quan tâm, chú trọng nội dung cơ bản thống nhất với các kỳ Đại hội trước, đó là: Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc. Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh - quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất.

Một số yêu cầu mới đặt ra đối với công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch trong tình hình mới

 Thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có diễn biến phức tạp, khó lường. Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị sẽ gia tăng các hoạt động chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa với phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hơn, nhất là hoạt động tuyên truyền phá hoại nền tảng tư tưởng, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên không gian mạng và các phương tiện truyền thông khác. Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các thông tin, quan điểm sai trái, thù địch càng trở nên cấp bách hơn. Công tác này phải gắn chặt chẽ với việc triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại và công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị. Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các thông tin, quan điểm sai trái, thù địch là một bộ phận trong đấu tranh chống chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Trong Báo cáo chính trị trình Đại hội XIII, Đảng ta đã dự báo tình hình thế giới và đất nước trong những năm tiếp theo tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta nói chung và công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch nói riêng. Bốn nguy cơ, trong đó có tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ còn nhiều diễn biến phức tạp. Đặc biệt, “các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta”(4), “Sự chống phá của các thế lực thù địch, tổ chức phản động ngày càng tinh vi hơn”(5). Đây được nhận định là một trong những nguy cơ đe dọa trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ ta và tác động trực tiếp đến công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở nước ta trong thời gian tới.

Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch gắn với việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, cần quán triệt một số yêu cầu sau:

Thứ nhất, phải tiếp tục kiên định, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam

Đảng ta khẳng định: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”(6). Đây được coi là một trong những vấn đề “mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”(7)

Quan điểm chỉ đạo của Đại hội XIII có sự kế thừa và phát triển quan điểm của các kỳ đại hội trước, gần nhất là Đại hội XII về nguyên tắc tiên quyết trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Đại hội XII nhấn mạnh việc “vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin” thì Đại hội XIII đã nhấn mạnh thêm sự “kiên định”, coi đây là yếu tố trước tiên của việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở nước ta hiện nay. Sự kiên định liên quan đến lập trường tư tưởng nên để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch không thể không có lập trường tư tưởng vững vàng. Hơn nữa, Đảng ta còn nhấn mạnh thêm: “không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động” để khẳng định đây là nguyên tắc sống còn trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch hiện nay.

Thứ hai, phải kết hợp giữa “xây” và “chống”, trong đó “xây” là cơ bản, “chống” phải quyết liệt

Đây là yêu cầu đặc biệt quan trọng, phản ánh mục đích, nội dung của quá trình đấu tranh, là nguyên tắc, phương châm chỉ đạo bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Cần xác định rõ, đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, thù địch phải trực tiếp gắn với việc bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Phải hướng đến mục đích cao nhất và xuyên suốt là bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. Xác định bảo vệ nền tảng của Đảng là chính, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch cũng là để bảo vệ nền tảng tư tưởng được tốt hơn. Trên cơ sở luận giải, khẳng định tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để đấu tranh, phản bác làm thất bại những quan điểm, luận điệu sai trái, xuyên tạc, phản động của các thế lực thù địch, hiện thực hóa hệ tư tưởng của Đảng vào đời sống.

Cần xác định rõ tính chiến đấu là thuộc tính cơ bản của công tác tư tưởng nói chung, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch nói riêng. Trong giai đoạn hiện nay, cùng với việc đấu tranh bác bỏ những luận điệu chống phá của các thế lực thù địch, phản động, tính chiến đấu còn phải thể hiện trong nội bộ Đảng, nội bộ nhân dân nhằm khắc phục những biểu hiện, nhận thức lệch lạc về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Cùng với việc nhận diện rõ các thông tin xấu, độc, xuyên tạc, cần kết hợp đấu tranh trực diện và gián tiếp để phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội theo kịch bản chặt chẽ, tổ chức các chiến dịch truyền thông thống nhất, đa dạng. Khi đấu tranh, cần tiến hành một cách quyết liệt, tránh kiểu đấu tranh hình thức, nửa vời.

Thứ ba, phải gắn việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Hạt nhân trong nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nên để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 35, trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng cần gắn việc ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ với việc thực hiện quy định của Đảng về việc nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Điều này đã được Đại hội XIII chỉ rõ: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”(8). Việc gắn hai nhiệm vụ này với nhau sẽ nâng cao được trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu trong việc thực hiện nhiệm vụ.

Cùng với đó, cần gắn việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch với việc thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Ngày 12-6-2021, tại Hội nghị toàn quốc sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh là việc làm rất cần thiết, là nhiệm vụ hết sức quan trọng, thường xuyên, không thể thiếu đối với toàn Đảng, toàn dân ta, trước hết là các tổ chức đảng, các cơ quan nhà nước và cán bộ, đảng viên trong tu dưỡng, rèn luyện, cống hiến, phụng sự đất nước, phục vụ nhân dân. Việc gắn với hai nhiệm vụ này sẽ phát huy tinh thần “tự soi”, “tự sửa”, “nêu gương” của cán bộ, đảng viên trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Bối cảnh mới của  tình hình trong nước và thế giới đang diễn ra, yêu cầu của công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch cũng có những thay đổi. Làm tốt những yêu cầu mà Đại hội XIII đề ra là điều kiện, tiền đề để công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới tiếp tục đạt được kết quả.

Nhìn lại gần 3 năm thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XII

Sau gần 3 năm thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XII, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới đã đạt nhiều kết quả tích cực:

Một là, công tác lãnh đạo, chỉ đạo được thực hiện quyết liệt, đồng bộ. Ngay sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 35, từ Trung ương đến cấp huyện đều thành lập Ban Chỉ đạo 35 và Tổ Thư ký, giúp việc cho Ban Chỉ đạo. Ban Chỉ đạo 35 ở các ban, bộ, ngành, địa phương đã từng bước được kiện toàn cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ. Nhờ đó, công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết 35 được tiến hành đồng bộ, quyết liệt. Điều này đã được ghi nhận tại Đại hội XIII: “công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch được lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, chuyển biến tích cực”(1). Những kết quả này đã góp phần quan trọng vào bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, xây dựng môi trường thông tin dân chủ, kỷ cương, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.

Hai là, công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng chính trị, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân về vai trò và tầm quan trọng của công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch được quan tâm, triển khai với nhiều nội dung, hình thức ngày càng phong phú, linh hoạt, phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, thu hút sự tham gia đông đảo của cán bộ, đảng viên và nhân dân. 

Trong thời gian qua, các ban, bộ, ngành, các cấp ủy đảng từ Trung ương đến địa phương đã tập trung quán triệt, tuyên truyền và thực hiện có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, giúp cho mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân tự giác tham gia đấu tranh. 

Các cấp, ngành, địa phương chú trọng đẩy mạnh hình thức đấu tranh trên không gian mạng. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục ý thức trách nhiệm của công dân trong việc sử dụng mạng xã hội, nâng cao khả năng “miễn nhiễm” các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội của người sử dụng. Nhờ đó, đã góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự chống phá của các thế lực thù địch trên internet và mạng xã hội. Tại Đại hội XIII, Đảng ta khẳng định: “Việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là trên không gian mạng được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, đạt kết quả rõ rệt”(2).

Ba là, vai trò của các cơ quan báo chí, đội ngũ phóng viên trong công tác tuyên truyền, đấu tranh phản bác các thông tin sai sự thật được phát huy tốt. Hoạt động xuất bản, đăng tải các bài viết có nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới tiếp tục đi vào nền nếp. Nhiều cơ quan báo chí, truyền thông đã mở chuyên mục “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng”; các chương trình Đối diện của Đài Truyền hình Việt Nam; bình luận phê phán Thuốc đắng của Báo Nhân Dân; Nhìn thẳng nói đúng của Đài Tiếng nói Việt Nam; các tuyến bài phản bác của Thông tấn xã Việt Nam, Báo Quân đội nhân dân... với cách chọn đề tài mang tính thời sự, đấu tranh trực diện đã có tác động mạnh mẽ, nâng cao sức đề kháng của cán bộ, đảng viên và nhân dân trước những chiêu bài kích động, xuyên tạc, bịa đặt, chia rẽ nội bộ của các thế lực thù địch. Qua đó góp phần củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. 

Bốn là, các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương, nhất là các cơ quan chuyên trách đã chú trọng xây dựng, tổ chức lực lượng tham gia đấu tranh, phản bác quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động. Trong đó, trước hết là lực lượng chuyên trách, để chủ động nghiên cứu, xây dựng nội dung, lựa chọn phương thức phù hợp với từng loại thông tin sai trái, thù địch, Ban Chỉ đạo 35 các cấp đã sáng tạo, linh hoạt và quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện Nghị quyết số 35. Do vậy, đã cơ bản hoàn thành kế hoạch đề ra, bảo đảm chất lượng, tiến độ, đồng bộ giữa các mặt hoạt động, gắn kết chặt chẽ hơn với việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn thường xuyên của các cơ quan, đơn vị.

Sự tham gia của đội ngũ cán bộ, đảng viên, giảng viên, học viên, sinh viên vào hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch rõ nét hơn. Bên cạnh đó, đội ngũ chuyên gia nhiều kinh nghiệm của các viện nghiên cứu, học viện, trường đại học cũng thường xuyên tham gia viết bài cho các chuyên mục bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên các phương tiện thông tin đại chúng ở Trung ương và địa phương, được các cơ quan, ban, ngành đánh giá cao. Đội ngũ chuyên gia, cán bộ nòng cốt hoạt động “đều tay” hơn. Chất lượng các bài viết được nâng cao, nhiều bài viết hướng vào giải quyết các vấn đề “nóng”, “nổi” được cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm, phản bác trực diện các quan điểm sai trái, thù địch.

Năm là, sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, giữa Trung ương và địa phương trong theo dõi, phát hiện, tham mưu xử lý các thông tin xấu độc ngày càng nhịp nhàng, đồng bộ, chặt chẽ. 

Việc thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW trong công tác nghiên cứu, phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng đi vào chiều sâu, tiếp tục làm rõ hơn cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam; cung cấp luận cứ khoa học để luận giải các vấn đề thực tiễn đang đặt ra, góp phần định hướng dư luận, đưa hệ tư tưởng, đường lối của Đảng thấm sâu vào nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân, trở thành dòng chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội. 

Hình thức tuyên truyền bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng được đa dạng hóa, với một số mô hình có sức lan tỏa tốt. Công tác theo dõi, phát hiện, xử lý, đấu tranh ngăn chặn, phản bác các thông tin sai trái, thù địch, phản động bước đầu có kết quả. Các cơ quan chức năng đã tăng cường quản lý, kiểm soát đối với các trang mạng xã hội và chủ động sử dụng các biện pháp kỹ thuật ngăn chặn việc truy cập vào các trang mạng độc hại.

Công tác này ngày càng được triển khai bài bản, đồng bộ, quyết liệt và đi vào chiều sâu. Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần giữ vững, bổ sung và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi các âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, không ngừng củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN. 

Tuy nhiên, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch vẫn còn những hạn chế. Một số cấp ủy, người đứng đầu các địa phương, cơ quan, đơn vị chưa quan tâm đúng mức tới nhiệm vụ này. Chưa phát huy tốt vai trò, trách nhiệm, sự phối hợp của các tổ chức, các lực lượng cùng tham gia, nhất là vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Hình thức đấu tranh có lúc còn chưa phù hợp, thiếu chủ động và sắc bén. Nhiều cơ quan truyền thông đại chúng còn chưa tích cực tham gia trên mặt trận này. Hơn nữa, “Công tác đấu tranh phản bác, ngăn chặn các thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao; công tác nắm bắt dư luận trước những sự kiện, tình huống bất ngờ còn chưa kịp thời”(3).

Giải pháp nhằm đấu tranh phòng, chống lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí

 Để thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí một cách chân chính, phù hợp, vì sự phát triển bền vững của đất nước, ngăn ngừa việc lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để xuyên tạc sự thật, bóp méo thông tin để lôi kéo, kích động, gây mất an ninh trật tự, phá hoại đất nước, cần thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện các quy định của Ðảng, pháp luật của Nhà nước về báo chí

Khẩn trương rà soát một cách tổng thể, bổ sung, sửa đổi các quy định của Ðảng, pháp luật của Nhà nước về báo chí, đáp ứng nhiệm vụ trong tình hình mới nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác chỉ đạo, quản lý báo chí. Việc tạo lập hành lang pháp lý hoàn thiện, đủ rộng, đủ mạnh, vừa tạo môi trường phát triển lành mạnh cho hoạt động báo chí, vừa đủ sức ngăn ngừa, răn đe, xử phạt việc vi phạm, lợi dụng quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí là điều rất cần thiết.

Thứ hai, nâng cao trách nhiệm của cấp ủy đảng và đội ngũ đảng viên

Các cấp ủy đảng cần đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin tuyên truyền tới từng đảng viên về tính đúng đắn của hệ thống lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta. Đó chính là vũ khí sắc bén để đấu tranh, phản bác các luận điệu sai trái, thù địch, định hướng dư luận nhân dân trước những thủ đoạn lợi dụng quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí.

Mỗi đảng viên cần không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc đấu tranh với các hành vi vi phạm, lợi dụng quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí để tuyên truyền các các quan điểm sai trái, thù địch. Tích cực học tập, nâng cao nhận thức về lý luận chính trị; tin tưởng và kiên định đường lối, chủ trương của Đảng; kiên quyết đấu tranh, không bàng quan với những biểu hiện, những hành vi sai trái đó. Đặc biệt, để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 35-NQ/TW, cơ quan và đội ngũ cán bộ chuyên trách cần nâng cao hơn nữa năng lực, nghiệp vụ, chuyên môn, chuyên nghiệp, tinh nhuệ trong việc kịp thời phát hiện, ngăn chặn những âm mưu, thủ đoạn mà thế lực thù địch, phản động cố tình gây ra.

Thứ ba, phát huy vai trò trách nhiệm của cơ quan báo chí và đội ngũ phóng viên, người làm báo

Mỗi cơ quan báo chí cần tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền với nhiều thể loại tin bài, bằng nhiều thứ tiếng, trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng như trên các nền tảng mạng xã hội. Điều này không những nhằm kịp thời, chủ động nhận diện, đấu tranh hiệu quả trước các âm mưu, thủ đoạn, hành động chống phá của các thế lực thù địch, phản động mà còn tạo làn sóng mạnh mẽ, thường xuyên, liên tục trong công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thông tin đúng đắn, khách quan, chính xác tới rộng rãi quần chúng nhân dân và bạn bè quốc tế, từ đó triệt tiêu cơ hội lợi dụng quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí để kích động, gây mất trật tự an ninh, đe dọa đến sự tồn vong của đất nước.

Cùng với việc nắm vững quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các nhà báo cần nâng cao bản lĩnh chính trị, có lập trường tư tưởng vững vàng, rèn luyện đạo đức cách mạng và tinh thông nghề nghiệp, phát huy tính đảng, tính chiến đấu. Với đội ngũ đông đảo hơn 40 nghìn người công tác trong lĩnh vực báo chí, trong đó hơn 17 nghìn người được cấp thẻ nhà báo kỳ hạn 2021-2025(9), mỗi nhà báo có trách nhiệm là một chiến sĩ đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân trên mặt trận thông tin truyền thông, sức mạnh đó trở nên thật sự to lớn và mạnh mẽ, đủ sức ngăn chặn, đấu tranh, đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn do các thế lực thù địch gây ra.

Thứ tư, phát huy trách nhiệm của công dân đối với đất nước

Mỗi người dân cần nâng cao cảnh giác, tỉnh táo trước những thông tin trái chiều, xuyên tạc, không để những phần tử xấu, các thế lực thù địch lợi dụng, kích động, xúi giục. Mỗi công dân cần góp tiếng nói, hình thành dư luận xã hội rộng rãi để vạch trần, lên án các hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, xâm hại lợi ích quốc gia, dân tộc.

Nhận diện những thủ đoạn lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí

 Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra mạnh mẽ, sự cạnh tranh về lợi ích giữa các quốc gia ngày càng quyết liệt, nhiều khó khăn, thách thức mới đã và đang nảy sinh. Các thế lực phản động không ngừng thực hiện mưu đồ chống phá, hòng xóa bỏ CNXH ở Việt Nam bằng nhiều âm mưu và thủ đoạn mới. Thêm vào đó, các đối tượng bất mãn, cực đoan, cơ hội chính trị chống đối, cản trở công cuộc phát triển đất nước; sử dụng nhiều phương thức, nhiều diễn đàn, lợi dụng chiêu bài tự do ngôn luận, tự do báo chí để chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng liên tục xuyên tạc, vu khống Đảng, Nhà nước Việt Nam, xuyên tạc thành quả cách mạng mà nhân dân ta đã đạt được. Chúng dựng nên cái gọi là “tù nhân lương tâm”, cho ra đời nhiều tổ chức, hình thành mạng lưới gọi là “nhà báo độc lập” để xuyên tạc, bôi nhọ, vu khống Đảng, Nhà nước Việt Nam nhằm xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam. Âm mưu, thủ đoạn của chúng rất đa dạng, song có thể nhận diện ở các biểu hiện chủ yếu sau đây:

Một là, thổi phồng, cường điệu hóa những khó khăn, bất cập, hạn chế trong công tác quản lý, điều hành của các cơ quan Đảng, Nhà nước nhằm phủ nhận bản chất tốt đẹp của chế độ ta.

Hai là, xuyên tạc, hạ thấp, phủ định nền tảng tư tưởng của Đảng cũng như các thành tựu của cách mạng Việt Nam.

Ba là, tung hô, ca ngợi một chiều nền dân chủ ở các quốc gia phương Tây.

Bốn là, kích động các biểu hiện chống đối của một bộ phận người dân, cổ xúy các nhân vật bất mãn, cơ hội chính trị.

Năm là, xuyên tạc đời tư của các lãnh đạo Đảng, Nhà nước, gây chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước.

Để đấu tranh với các âm mưu, thủ đoạn đó, vấn đề cấp thiết là phải bóc trần các thủ thuật xuyên tạc, nhân danh tự do ngôn luận, tự do báo chí để che đậy dã tâm chống phá đất nước. Thực tế cho thấy, các thế lực phản động, thù địch đã cố tình lờ đi thực tiễn chính trị - pháp lý trong quá trình thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở các quốc gia trên thế giới. Chúng nhấn mạnh, cường điệu quyền tự do một chiều mà lờ đi nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức cũng như các hậu quả xấu mà các hành vi đó gây ra cho xã hội. Chúng cố tình không đề cập quy định pháp luật của các quốc gia, trong đó có Việt Nam, về hướng dẫn thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí một cách phù hợp.

Các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị không ngừng tuyên truyền luận điệu phản động, vu cáo Đảng, Nhà nước ta vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Các phần tử, tổ chức phản động núp dưới danh nghĩa dân chủ đã viện dẫn, xuyên tạc việc Nhà nước ta xét xử, nghiêm trị các hành vi vi phạm pháp luật của các đối tượng lợi dụng chiêu bài tự do, dân chủ, chống phá chế độ, vu cáo rằng Nhà nước ta đàn áp “tự do báo chí”. Hay trong đại dịch Covid-19, chúng đã cố tình làm ngơ trước những nỗ lực to lớn của Đảng, Nhà nước và toàn hệ thống chính trị nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe của nhân dân, vu cáo chế độ ta “bỏ rơi” những người yếu thế.

Vấn đề tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam

Với lý tưởng cộng sản chân chính, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã sớm ý thức sâu sắc về những giá trị của tự do, dân chủ. Trong bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, với nhãn quan chính trị nhạy cảm, với tình cảm tha thiết yêu thương, quý trọng phẩm giá con người và những giá trị cơ bản của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố với thế giới về những giá trị cơ bản mà dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam có quyền được hưởng, đó là quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.

Trong khó khăn bộn bề sau Ngày Độc lập, đứng trước họa thù trong, giặc ngoài, Người vẫn đề nghị Chính phủ lâm thời chuẩn bị cho cuộc Tổng tuyển cử dân chủ và ban hành bản Hiến pháp dân chủ đầu tiên trong lịch sử đất nước. Bản Hiến pháp năm 1946 chứa đựng nhiều giá trị tiến bộ, quy định khá cụ thể về các quyền cơ bản của công dân, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do biểu tình, v.v..

Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, dù hoàn cảnh đất nước chiến tranh hay xây dựng hòa bình, việc mở rộng và phát huy dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân vẫn luôn được coi trọng. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới, dân chủ được xác định là mục tiêu, là động lực phát triển của đất nước. Hiến pháp năm 2013 đã dành Chương 2 để quy định về quyền con người, quyền công dân. Đó là một bước tiến lớn trong lộ trình phấn đấu của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong việc bảo đảm quyền tự do, dân chủ của con người. Việc bảo đảm thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí trong khuôn khổ quy định của pháp luật là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Điều này được thể hiện trong Hiến pháp năm 2013 và được thể chế hóa trong các bộ luật liên quan.

Điều 25, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”(6). Hay khoản 1, Điều 3, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 cũng khẳng định: “Mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin”(7). Trong quá trình sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, vấn đề tự do ngôn luận, tự do báo chí luôn được Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo vệ. Điều 13, Luật Báo chí (sửa đổi, bổ sung năm 2016) quy định trách nhiệm của Nhà nước đối với quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân: “1. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình. 2. Báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. 3. Báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng”(8).

Cùng với sự phát triển về kinh tế - xã hội, lĩnh vực thông tin - truyền thông của Việt Nam cũng phát triển không ngừng về số lượng, chất lượng, hình thức, nội dung báo chí, về đội ngũ những người làm báo, về hiệu quả kinh tế. Điều này thể hiện sự quan tâm, khuyến khích của Đảng và Nhà nước ta đối với hoạt động thông tin truyền thông nói chung và hoạt động báo chí nói riêng.

Có thể thấy tốc độ tăng trưởng vượt bậc của ngành thông tin truyền thông. Tỷ lệ hộ gia đình kết nối internet ở Việt Nam lên đến 75%, gấp 1,5 lần tỷ lệ trung bình trên thế giới, cho thấy mức độ tiếp cận thông tin của người dân đã trở nên sâu rộng hơn bao giờ hết. Số mạng xã hội được cấp phép tăng lên nhanh chóng, gấp hơn ba lần trong giai đoạn 2016-2020. Đó là những minh chứng khẳng định thành tựu to lớn, vững chắc trong việc bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam.

Vấn đề tự do ngôn luận, tự do báo chí trên thế giới

 Trong tiến trình phát triển của nhân loại, tự do và dân chủ thuộc những giá trị vĩ đại nhất mà nhân loại vẫn hằng theo đuổi. Cuộc tranh luận về tự do, dân chủ và cuộc đấu tranh cho tự do, dân chủ bắt đầu từ khi con người biết tự thiết định các quy tắc, chuẩn mực để tổ chức cuộc sống, nhất là từ khi quyền lực xã hội được trao cho những cá nhân, tổ chức nhân danh xã hội, thoát ly chủ thể gốc của quyền lực, đó là nhân dân.

Ngày nay, khi con người đã có những bước tiến vũ bão trong chế ngự tự nhiên, mở rộng năng lực về mọi chiều kích, thì tự do, dân chủ đã trở thành một trong những ưu tiên hàng đầu, là mục tiêu, động lực của phát triển. Cùng với sự phát triển của nhân loại, các quan hệ xã hội được cải biến theo hướng tiến bộ hơn, các quyền cơ bản của con người dần được thừa nhận và được thực hiện đầy đủ hơn.

Trong các quyền tự do, dân chủ được cộng đồng thế giới thừa nhận, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là một bộ phận quan trọng. Sau chiến thắng của nhân loại trước chủ nghĩa phát xít, tổ chức Liên hợp quốc được thành lập. Sau đó, vào ngày 10-12-1948, Đại Hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Tuyên ngôn quốc tế Nhân quyền - bản Tuyên ngôn về các quyền cơ bản của con người, được nhiều quốc gia trên thế giới ủng hộ, tham gia. Điều 19 của Tuyên ngôn xác định: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và biểu đạt; bao gồm tự do giữ ý kiến mà không bị can thiệp, cũng như tự do tìm kiếm, thu nhận và truyền bá thông tin và tư tưởng bằng bất cứ phương tiện truyền thông nào và không giới hạn về biên giới”(1).

Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1966 cũng quy định tại khoản 2, Điều 19: “Mọi người có quyền tự do biểu đạt. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tùy theo sự lựa chọn của họ”(2).

Tự do, bao gồm cả tự do ngôn luận, tự do báo chí là một giá trị xã hội vĩ đại. Đó là kết quả của cuộc đấu tranh không mệt mỏi của con người trước tự nhiên để hoàn thiện xã hội và chính con người.

Tuy nhiên, khi con người được hưởng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, ngay lập tức xuất hiện những bất cập. Vì nhiều lý do, trong đó bị thôi thúc bởi tư tưởng vị kỷ cực đoan, nhân danh tự do, một số người, một số cộng đồng, thậm chí ở tầng nấc quốc gia đã có những hành vi gây phương hại cho người khác và cho xã hội như vu khống, bôi nhọ, tuyên truyền giá trị phi luân, kích động bạo loạn, chiến tranh, v.v.. Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí đứng trước những thử thách nghiêm trọng, nó không còn là công cụ để giải phóng con người, mà đe dọa chính cuộc sống con người. 

BÁC BỎ NHỮNG QUAN ĐIỂM SAI TRÁI CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH CHỐNG PHÁ ĐẢNG NHÀ NƯỚC TA!

     Thời gian gần đây, các thế lực thù địch đã và đang tăng cường chống phá cách mạng nước ta bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, trá hình. Cùng với các hoạt động tuyên truyền xuyên tạc chống phá nội bộ Đảng, Nhà nước và chế độ ta.
     Chúng ta hiểu rằng, chiêu bài “chuyển hóa ”chính sách pháp luật Việt Nam chỉ là một trong những âm mưu, thủ đoạn diễn biến hòa bình mà các thế lực thù địch đã và đang áp dụng nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến tới thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Vì thế, hai trong nhiều vấn đề then chốt của các học thuyết “dân chủ, nhân quyền kiểu phương Tây cần áp dụng đối với Việt Nam” là xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng và vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng Cộng sản. Họ sử dụng chiêu bài “chuyển hóa” chính sách, pháp luật Việt Nam nhằm mục đích từng bước phá hoại Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
     Vì thế đấu tranh với các quan điểm sai trái, bảo vệ đường lối của Đảng, chủ trương chính sách pháp luật của Nhà nước chúng ta phải nhìn nhận một cách toàn diện, khách quan cụ thể với những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch nhằm kích động quần chúng nhân dân, không tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng ta và pháp luật của Nhà nước; những nội dung nào thực hiện chưa tốt cần phải chấn chỉnh, thực hiện tốt hơn để giải tỏa bức xúc của nhân dân và cán bộ, những nội dung nào có vấn đề hoặc chưa rõ cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu để làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, qua đó hoàn thiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước./.


Môi trường ST.

Thứ Bảy, 1 tháng 10, 2022

 ĐỀ CAO ĐỨC TÍNH KHIÊM TỐN, GIẢN DỊ


Khiêm tốn, giản dị là một trong những đức tính quan trọng nhất của con người. Người khiêm tốn là người biết mình, hiểu người, không tự cao tự đại. Khiêm tốn, giản dị còn là sự nhã nhặn, biết sống một cách nhún nhường, luôn nêu cao tinh thần học hỏi, không tự đề cao, khoe khoang cá nhân mình với người khác.


Ở đâu cộng đồng con người có tính khiêm tốn, giản dị thì ở đó ít khi xảy ra xung đột, bất hòa và không thể dung hòa những cá nhân quá đề cao bản thân, lúc nào cũng xem mình là “cái rốn của vũ trụ”. Thay vào đó là sự xem trọng và không ngại học hỏi từ mọi người xung quanh.


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta bao điều cần học tập, mà một trong những đức tính, phong cách ấy là sự giản dị, khiêm tốn. Bác từng nói: “Công trạng của cá nhân chủ yếu là nhờ tập thể mà có. Vì vậy, người có công trạng không nên tự kiêu mà cần khiêm tốn. Khiêm tốn và rộng lượng, đó là hai đức tính mà người cách mạng nào cũng phải có”. Đức tính giản dị, khiêm tốn của Người mãi là tấm gương sáng cho các thế hệ sau noi theo, nhất là trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hiện nay.


Dư luận xã hội thời gian qua xôn xao khi biết thông tin về “tiệc chia tay”, “tiệc nghỉ hưu” xa hoa trên 2 du thuyền sang trọng trên vịnh Hạ Long (tỉnh Quảng Ninh), được tổ chức vào cuối tháng 6-2022 liên quan đến ông Ninh Văn Chủ, khi đó vẫn là Giám đốc Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh Quảng Ninh (nhận quyết định nghỉ hưu ngày 29-7-2022). Với hành vi nêu trên, ông Chủ đã bị Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Quảng Ninh kỷ luật cảnh cáo…


Hay như việc thành lập Hội Tướng lĩnh huyện Đức Thọ (tỉnh Hà Tĩnh) gần đây cũng nhận được nhiều ý kiến bức xúc từ dư luận. Thông tin mới nhất từ báo chí cho thấy, qua rà soát, hồ sơ thành lập hội trên chưa bảo đảm các quy định, vi phạm những điều đảng viên không được làm. Vì vậy, UBND huyện Đức Thọ đã hủy bỏ quyết định việc thành lập ban vận động, quyết định cho phép thành lập Hội Tướng lĩnh huyện Đức Thọ...


Ngoài những việc làm có tính chất háo danh, phô trương như trên, trong đời sống hay trong công tác, có không ít cán bộ, đảng viên hay tỏ ra ta đây quan trọng, thường quát nạt cấp dưới, hách dịch với nhân dân, luôn cậy công, cậy quyền, cậy bằng cấp… 


Có người chỉ thích được khen mà không muốn ai góp ý, càng không muốn tiếp nhận phê bình; nếu lỡ bị phê bình thì “dè bỉu” hoặc tìm cách đổ lỗi… Những biểu hiện đó đi ngược lại với đạo đức, phong cách khiêm tốn, giản dị mà bao thế hệ đảng viên tiền bối đã dày công gây dựng.


Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ” đã xác định, phải khắc phục ngay tình trạng mắc bệnh "thành tích", háo danh, phô trương... Đây là một trong những căn nguyên gây ra sự mất niềm tin của một bộ phận nhân dân đối với Đảng, chế độ.


Để mỗi cán bộ, đảng viên thấm nhuần đức tính, xây dựng phong cách khiêm tốn, giản dị, trước mắt cần thực hiện kiên trì, kiên quyết, có hiệu quả Kết luận Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị gắn với thực hiện Kết luận số 01-KL/TƯ ngày 18-5-2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TƯ về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. 


Mỗi cấp ủy, tổ chức Đảng phải thực hiện nghiêm các nguyên tắc, quy định của Đảng; chú trọng xây dựng Đảng về đạo đức, đề cao trách nhiệm nêu gương, gắn bó mật thiết với nhân dân, ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu các cấp...


Đối với những đảng viên được phân công giữ chức vụ quản lý, lãnh đạo, điều hành, cần tích cực nêu gương về đức tính khiêm tốn, giản dị để các đồng nghiệp cùng noi theo và học tập. Đó là không bao giờ tỏ ra mình là người quan trọng, bởi trên thực tế, người dù quan trọng đến mấy cũng có thể thay thế. Đó là phải luôn cầu thị, lắng nghe, bởi có lắng nghe mới biết được mình hay hoặc dở chỗ nào, mới phát huy được trí tuệ tập thể. Đó là không đặt cá nhân lên trên tập thể, dù mình là người đứng đầu tập thể đó, bởi sức mạnh của tập thể bao giờ cũng hơn sức mạnh cá nhân và khi cá nhân có ý áp đặt lên tập thể thì đó là biểu hiện bắt đầu sự chuyên quyền, độc đoán.


Cùng với đó là phải cầu thị tiếp thu khi được phê bình, góp ý, bởi không người nào có thể luôn luôn đúng, nếu có sai thì phải mạnh dạn sửa chữa, khắc phục… Cho dù là người đứng đầu cũng cần không ngừng học tập nâng cao kiến thức, trình độ về mọi mặt, trong đó còn phải học từ cấp dưới, từ nhân dân với nhận thức không phải việc gì mình cũng giỏi, cũng biết.


Hình thành đức tính khiêm tốn, giản dị có trong mỗi người chính là xây dựng cho mình một bản lĩnh, trí tuệ, tình yêu thương với đồng nghiệp, đồng chí, với quần chúng, bạn bè; là sự cầu thị tiến bộ, ý chí quyết tâm vươn lên hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, xứng đáng là người “công bộc” trung thành và tận tụy của nhân dân. 


Mỗi cán bộ, đảng viên trong một tập thể đều có vai trò như “một cánh én nhỏ” để “làm nên mùa xuân”, do đó, dù ở vị trí, cương vị nào cũng cần làm tròn bổn phận của mình với một thái độ gương mẫu, chính trực và khiêm nhường. Mỗi đảng viên tự rèn giũa bản thân chính là góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay./.


 Nguồn: Báo Hà Nội mới

SỰ LÃNH ĐẠO ĐÚNG ĐẮN CỦA ĐẢNG TA!

         Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhận thức đúng đắn vai trò của nhân dân, xác định nhân dân là trung tâm, chủ thể, mục tiêu, động lực của cách mạng. Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị luôn nỗ lực bảo đảm quyền lợi chính đáng, từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Vì vậy, nhân dân luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước. Điều này được thể hiện trong quan điểm, chủ trương và trong hoạt động thực tiễn của Đảng và Nhà nước:
     Thứ nhất, Đảng, Nhà nước xác định nhân dân là trung tâm, chủ thể, mục tiêu, động lực của sự phát triển đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
     Thứ hai, Đảng, Nhà nước luôn quan tâm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của nhân dân.
     Trong tình hình mới, đòi hỏi phải phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó cần phát huy vai trò trung tâm, chủ thể của nhân dân; tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân phát triển toàn diện, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, tích cực đấu tranh với những luận điệu sai trái xuyên tạc mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, gây sự hoài nghi của nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ, cản trở sự nghiệp cách mạng của nước ta./.


Yêu nước ST.

HÃY DẠY DỖ CON MÌNH THẬT TỐT ĐỂ NÓ KHÔNG LÀM HẠI NGƯỜI KHÁC!


Chiều nay, 3 trong số 5 cán bộ công an xuất hiện trong vieo bạo lực đối với 2 thiếu niên vi phạm luật giao thông đã bị kỷ luật bằng hình thức tước danh hiệu Công an nhân dân. Đây là mức kỷ luật rất nặng đối với 1 cán bộ công an, cả tuổi trẻ phấn đấu trong lực lượng với bao mục tiêu, hoài bão chẳng mấy chốc tan biến. Và đây cũng là một bài học cho nhiều cán bộ công an khác, trong khi thi hành nhiệm vụ phải thật bình tĩnh, khôn khéo, giữ cái đầu lạnh và kiểm soát được hành vi của mình, phù hợp với tiêu chuẩn, quy tắc ứng xử của ngành. 


Tuy nhiên, phải khẳng định hành vi của 2 thiếu niên này là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm một loạt các lỗi nghiêm trọng theo quy định của luật giao thông đường bộ:  không chấp hành hiệu lệnh, hướng dẫn của người kiểm soát giao thông; không chấp hành hiệu lệnh tín hiệu đèn giao thông; điều khiển xe lạng lách trên đường bộ ngoài đô thị; không có giấy chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới; người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi mà điều khiển xe mô tô có dung tích xi lanh trên 100 cm3... 


Những hành vi trên đều là những nguy cơ tiềm tàng gây hại đến tính mạng, sức khỏe của những người khác cùng tham gia giao thông trên đường.


Chắc hẳn, tất cả chúng ta đều không muốn người thân của mình trở thành nạn nhân dưới bánh xe của 2 thiếu niên trên và việc ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật này là điều cần thiết, dù cho sau đó nó đã đi hơi xa so với mục đích ngăn chặn ban đầu. 


Hy vọng rằng, sau khi kết thúc sự việc, gia đình của 2 thiếu niên trên nên có hình thức giáo dục, quản lý con cái thật tốt. Không nên nghĩ rằng "con tôi ở nhà ngoan hiền lắm, nhiều năm được giấy khen" mà buông lỏng quản lý, không theo sát các con, càng không nên dung túng cho con mình thực hiện các hành vi sai quấy, coi thường pháp luật. Bởi mỗi hành vi vi phạm pháp luật của các em không chỉ gây hại cho cá nhân em ấy mà còn có thể gây hại cho nhiều người xung quanh. 


Dạy con mình cho thật tốt, quản lý con mình cho thật khéo, vừa là cách để bảo vệ chúng, vừa là cách để bảo vệ những người xung quanh! Cháu nó ở nhà ngoan nhưng ra đường chưa chắc đã như thế.


TK

TỰ SOI, TỰ SỬA - VŨ KHÍ SẮC BÉN NGĂN CHẶN VÀ ĐẨY LÙI CÁC BIỂU HIỆN SUY THOÁI


Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Song để Đảng trở thành lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng luôn không ngừng tự chỉnh đốn để thực sự là một Đảng cách mạng chân chính.


Ngay từ khi chưa trở thành Đảng cầm quyền, năm 1939, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã viết tác phẩm “Tự chỉ trích” để chỉnh đốn Đảng. Mục đích của “Tự chỉ trích” là thông qua phê bình và tự phê bình trong Đảng để “tìm ra những nguyên nhân thất bại và nghiên cứu phương pháp sửa lỗi và tiến thủ”. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã chỉ rõ: “Người cộng sản có bổn phận nói sự thật với quần chúng, dẫn đường cho quần chúng chớ không phải theo đuôi họ, hay phỉnh họ…”. Đồng chí cũng yêu cầu “Phê bình và tự phê bình phải tôn trọng sự thật, công khai, mạnh dạn, thành thực vạch những lỗi lầm của mình và tìm phương châm sửa đổi, chống những xu hướng hoạt đầu, thỏa hiệp, như thế không phải làm yếu Đảng, mà làm cho Đảng được thống nhất, mạnh mẽ”.


Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, tháng 10/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Luôn luôn dùng và khéo dùng cách phê bình và tự phê bình, thì khuyết điểm nhất định sẽ hết dần, ưu điểm nhất định sẽ thêm lên và Đảng ta nhất định thắng lợi”. Người cũng khẳng định: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình... là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn”.


Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh đòi hỏi Đảng phải giải quyết, một trong những vấn đề nổi cộm đó là phải xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh. Do vậy, các nhiệm kỳ Đại hội của Đảng gần đây đều chú trọng công tác xây dựng Đảng mà tập trung thể hiện cao nhất tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII với việc Trung ương ban hành Kết luận số 21-KL/TW về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và Quy định số 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm với nhiều điểm mới nổi bật.


Kết luận số 21-KL/TW đã khẳng định: Phải tiến hành quyết liệt và đồng bộ hơn nữa nhiều công việc cụ thể, thiết thực, tập trung vào 4 nhóm nhiệm vụ, giải pháp mà Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã đề ra; đồng thời bổ sung nhấn mạnh thêm 2 nhóm nhiệm vụ, giải pháp là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xử lý nghiêm cán bộ sai phạm”. Để thực hiện được nhiệm vụ trên, phải chú trọng nêu gương người tốt, việc tốt; ngăn ngừa, phê phán những việc làm sai. Đấu tranh mạnh mẽ chống chủ nghĩa cá nhân, lợi ích nhóm. Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước. Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, phát huy vai trò giám sát của Nhân dân...


Những nội dung mới đó đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải nhận thức đầy đủ với quyết tâm cao trong tổ chức thực hiện, nhằm tạo chuyển biến mới, tích cực trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị thật sự trong sạch vững mạnh, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn hiện nay.                                        

Hoàng Bách