Thứ Tư, 5 tháng 3, 2025

Một số vấn đề về nhận diện bản chất của chủ nghĩa tư bản trong thời đại mới, góp phần củng cố vững chắc định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay

 

Nhận diện đúng bản chất của chủ nghĩa tư bản trong bối cảnh tác động toàn diện và sâu sắc của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội có ý nghĩa quan trọng, góp phần bổ sung vào hệ thống nền tảng nhận thức, lý luận của Đảng, đồng thời củng cố sự kiên định về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Về bản chất của chủ nghĩa tư bản trong thời đại ngày nay

Kể từ khi ra đời, chủ nghĩa tư bản đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đến chủ nghĩa tư bản độc quyền, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước và ngày nay là chủ nghĩa tư bản hiện đại trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Khi phân tích về chủ nghĩa tư bản, C. Mác và Ph. Ăng-ghen khẳng định: Chủ nghĩa tư bản, với tư cách là phương thức sản xuất được hình thành và thay thế phương thức sản xuất phong kiến trong lịch sử, là chế độ kinh tế - xã hội tiến bộ hơn nhiều so với các chế độ kinh tế - xã hội trước đó. Đặc biệt, nhờ vận dụng hiệu quả quy luật của kinh tế thị trường, giai cấp tư sản trong quá trình thống trị chưa đầy một thế kỷ “đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại”.

Mặc dù chủ nghĩa tư bản có vai trò lớn trong việc nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh chóng, song vẫn là chế độ bất công bởi những tiến bộ về kinh tế chủ yếu được sử dụng nhằm phục vụ cho lợi ích giai cấp tư sản, do đó chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì các mâu thuẫn nội tại của nó càng sâu sắc; xu thế xã hội hóa sản xuất không còn khả năng chịu đựng trong vỏ bọc chật hẹp của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa... Vì thế, chủ nghĩa tư bản tất yếu phải được thay thế bằng chế độ kinh tế - xã hội mới.

Kế thừa và phát triển tư tưởng của C. Mác - Ph. Ăng-ghen, nghiên cứu chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn cạnh tranh tự do đến thời kỳ độc quyền (cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX), V.I. Lê-nin đã chỉ ra bản chất kinh tế, chính trị của chủ nghĩa tư bản độc quyền, rằng sự phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền tất yếu dẫn đến sự hình thành của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Về bản chất, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự thống nhất biện chứng giữa quyền lực kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền và quyền lực chính trị của nhà nước tư sản, nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, là sự thay đổi về lượng quan trọng để quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa phù hợp hơn với trình độ phát triển cao hơn của lực lượng sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản. Do đó, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước vẫn còn nhiều tiềm năng phát triển, nhưng là sự phát triển trong khuôn khổ chủ nghĩa tư bản và tiềm năng đó không vô hạn.

V.I. Lê-nin khẳng định, sự phát triển của kỹ thuật và lực lượng sản xuất đã dẫn đến tích tụ sản xuất và độc quyền; ngược lại, sự hình thành của độc quyền thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển thêm. Tiến bộ và những bước đột phá của khoa học - kỹ thuật đã mở ra không gian rộng lớn mới cho sự phát triển của sức sản xuất, nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh. Chính vì sự phát triển của kỹ thuật và lực lượng sản xuất đã thúc đẩy quá trình xã hội hóa sản xuất và cải biến phát minh kỹ thuật, từ đó tạo ra khả năng giải quyết tạm thời các mâu thuẫn của lực lượng sản xuất đã xã hội hóa và sự chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa vốn đã sâu sắc ngay từ giai đoạn cạnh tranh tự do. Nhưng khi lực lượng sản xuất xã hội hóa thêm một bước, bởi sự thống trị của độc quyền khiến mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản thêm gay gắt, làm cho quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế - xã hội do nó sinh ra có những biến đổi sâu sắc về quan hệ sở hữu và tổ chức quản lý. Thay đổi quan trọng nhất trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu, chủ thể và đối tượng sở hữu.

Vai trò điều tiết của nhà nước tư sản cũng có sự điều chỉnh nhất định thông qua các chương trình, kế hoạch hoặc hỗ trợ trực tiếp để xây dựng định hướng phát triển nền kinh tế phù hợp hoặc điều chỉnh thị trường, sự mất cân đối của thị trường. Sự điều chỉnh của nhà nước đối với nền kinh tế khiến vai trò kinh tế của nhà nước chuyển từ yếu tố bên ngoài (yếu tố tạo môi trường, điều kiện cho các hoạt động kinh tế) thành yếu tố bên trong, nội tại mang tính quyết định quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhà nước tư bản hiện đại không chỉ thúc đẩy và điều tiết sự vận động của nền kinh tế, mà còn là một chủ sở hữu lớn, chiếm khoảng 15 - 34% tổng số vốn đầu tư trong sản xuất, kinh doanh của nền sản xuất. Do đó, việc quản lý của nhà nước đối với khu vực này là một công cụ được nhà nước sử dụng để điều tiết nền kinh tế.

Ngoài những biến đổi về cơ chế kết hợp nhân sự, sở hữu hay tổ chức quản lý, ở các nước tư bản có sự điều chỉnh trong quan hệ phân phối, thực hiện chức năng xã hội của nhà nước tư sản... Ở các mức độ khác nhau, nhà nước ở các nước tư bản phát triển thể hiện sự quan tâm, coi trọng bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền lợi của người lao động, quy định mức tiền lương tối thiểu, điều kiện làm việc, điều hòa quan hệ giữa người lao động và chủ doanh nghiệp,...; thông qua chính sách thuế để phân phối lại nguồn thu nhập, chính sách phúc lợi xã hội, an sinh xã hội để hỗ trợ người có hoàn cảnh khó khăn, giảm bớt sự phân hóa và xung đột xã hội; định hướng doanh nghiệp vào thực hiện các trách nhiệm xã hội, bảo vệ môi trường.

Trước những thay đổi đó, có những quan điểm cho rằng chủ nghĩa tư bản ngày nay đã khác về bản chất so với chủ nghĩa tư bản mà các nhà kinh điển C. Mác - Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin đã khái quát. Nhiều người nói đến một xã hội hậu tư bản, một chủ nghĩa tư bản nhân dân hay chủ nghĩa tư bản xã hội trong đó phúc lợi ngày càng được chia đồng đều cho mỗi người và thay cho sự phân cực giàu có và bần cùng. Vậy bản chất của chủ nghĩa tư bản trong thời đại ngày nay có thực sự thay đổi? Dưới đây là một số nhận diện về bản chất của chủ nghĩa tư bản trong thời đại ngày nay:

Một là, theo đuổi lợi nhuận đã, đang và sẽ là mục tiêu cao nhất và cuối cùng của các nhà tư bản. Sự giàu có của các nhà tư bản đều là từ nguồn lợi nhuận này, đúng như C. Mác đã khẳng định trong tác phẩm Tư bản luận khi phân tích về chủ nghĩa tư bản, “sản xuất giá trị thặng dư hay lợi nhuận là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất này”.

Như vậy, nguồn gốc của lợi nhuận là giá trị thặng dư do công nhân tạo ra trong quá trình sản xuất và “bóc lột” vẫn là bản chất của chủ nghĩa tư bản hiện đại, được biểu hiện dưới nhiều hình thức “tinh vi” hơn so với chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn tự do cạnh tranh, thể hiện ở tỷ suất giá trị thặng dư luôn tăng lên.

Hơn thế nữa, xem xét quan hệ bóc lột của chủ nghĩa tư bản ngày nay không chỉ bó hẹp trong quan hệ giữa tư bản và người lao động làm thuê ở các nước tư bản chủ nghĩa, mà phải xem xét cả quan hệ thống trị, bóc lột của các nước phát triển với các nước kém phát triển và đang phát triển, thể hiện ở sự phân hóa hai cực giàu - nghèo của thế giới. Bởi vì, trong thời đại chủ nghĩa tư bản toàn cầu hóa, sự bóc lột giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản đã mang “tính quốc tế”, thay vì hình thức bóc lột như trước đây bằng những hình thức mới, những quan hệ ràng buộc về kinh tế vẫn bảo đảm lợi nhuận siêu ngạch. Vì thế, các hình thức phổ biến, như xuất khẩu tư bản, di chuyển lao động từ nước này sang nước khác, việc bành trướng của các công ty xuyên quốc gia, bành trướng về công nghệ, biến nợ nước ngoài thành tư bản đầu tư, các công ty xuyên quốc gia đã kiếm được những khoản lợi nhuận kếch sù. Đây là một trong những hình thức bóc lột của các công ty xuyên quốc gia đối với các nước vay nợ và là hình thức mới trong giai đoạn hiện nay khiến việc sản xuất giá trị thặng dư mang tính quốc tế, được tư bản hóa và xuất khẩu để quốc tế hóa tư bản với sự đa dạng của các hình thức sản xuất ra nó. Như Couldry và Mejias đã khẳng định, “chủ nghĩa thực dân dữ liệu” mở đường cho một giai đoạn mới của chủ nghĩa tư bản, khiến  đời sống con người không chỉ bị chủ nghĩa tư bản chiếm dụng và trực tiếp khai thác lợi nhuận, mà còn bị chúng giám sát và quản trị liên tục. Dù không dự đoán chính xác rằng liệu giai đoạn mới này sẽ phát triển ra sao và có hình hài cuối cùng như thế nào, chúng ta vẫn có thể “chẩn bệnh” cho trật tự xã hội mới này dựa trên cách mà nó đang hoạt động: bằng sự khai thác lợi nhuận và bóc lột đời sống con người vô hạn. 

Hai là, chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn là một chế độ bất bình đẳng.

Bất bình đẳng trong chủ nghĩa tư bản bắt nguồn từ sự bất bình đẳng trong chế độ sở hữu tư liệu sản xuất. Sự phân cực trong vấn đề tài sản tự nó là biểu hiện của tình trạng bất bình đẳng xã hội ngày càng tăng ở mỗi nước và trên phạm vi thế giới. Khoảng cách về thu nhập giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển năm 1960 là 30 lần thì hiện nay là 70 lần và giá trị tài sản của các tỷ phú trên thế giới đã tăng gấp đôi trong 10 năm qua. Theo đó, tài sản của 1% người giàu nhất cao hơn 74 lần so với 50% người nghèo nhất.

Dù đã thực hiện những “điều chỉnh” để thích ứng, song chủ nghĩa tư bản ngày nay không thể xóa bỏ được tình trạng phân hóa giàu nghèo, bất công trong xã hội, mà sự phân hóa còn tiếp tục gia tăng, đưa lại hệ quả xấu là khoét sâu thêm khoảng cách giàu - nghèo, khiến các nước nghèo ngày càng nghèo hơn, các nước giàu ngày càng giàu hơn. Chênh lệch về thu nhập, mức sống, tài sản giữa người giàu và người nghèo trong thế giới tư bản rất lớn, xu hướng ngày càng gia tăng.

Chẳng hạn, khi so sánh giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ sinh lời của đồng vốn, Piketty nhận thấy, từ năm 1914 đến năm 1973, tốc độ tăng trưởng cao hơn tỷ lệ sinh lời của đồng vốn, nhờ vậy, đời sống vật chất của người lao động tốt hơn.

Tuy nhiên, trong 40 năm tính từ năm 1973, tỷ lệ sinh lời của vốn đã tăng lên, vượt quá tốc độ tăng trưởng kinh tế đang ngày càng chậm lại; mặt khác, tỷ lệ sinh lời của đồng vốn càng cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thì bất bình đẳng càng gia tăng. Đây chính là đặc điểm tự nhiên của chủ nghĩa tư bản, hậu quả là làm bất bình đẳng nghiêm trọng hơn.

Ngày nay, tại chính các nước tư bản chủ nghĩa phát triển nhất, sự phân hóa giàu nghèo đã trở nên sâu sắc. Cụ thể, theo báo cáo của Oxfam, từ năm 2020, nhóm 1% những người giàu nhất đang nắm giữ gần 2/3 số tài sản mới của nhân loại, trị giá 42.000 tỷ USD, gần gấp đôi số tài sản của 99% nhóm dân số còn lại. Trong đó, số tỷ phú tại Mỹ ngày càng nhiều và giá trị tài sản của họ tăng khoảng 30% kể từ khi bắt đầu xảy ra đại dịch COVID-19 và tăng gần 90% trong thập niên qua. Trong khi đó, khoảng 30% lực lượng lao động Mỹ kiếm được chưa đến 15 USD/giờ.

Trong đại dịch COVID-19, từ tháng 3 đến tháng 9-2020, mức thuế tạm thời đối với 32 tập đoàn thu về số lợi nhuận cao nhất trong thời gian đại dịch có thể lên tới 104 tỷ USD trong năm 2020, con số đủ để chi trả cho trợ cấp thất nghiệp của tất cả người lao động và hỗ trợ tài chính cho tất cả người già và trẻ em ở các nước thu nhập thấp và trung bình. Bên cạnh đó, trong 2 năm đầu của đại dịch COVID-19, tài sản của 10 người giàu nhất thế giới đã tăng gấp đôi từ 700 tỷ USD lên 1.500 tỷ USD; trong khi thu nhập của 99% nhân loại giảm xuống và thế giới có thêm hơn 160 triệu người rơi vào cảnh nghèo đói. Thực tế các con số này là minh chứng rõ nhất sự bất bình đẳng tại Mỹ cũng như giữa các quốc gia trong những thập niên gần đây.

Sự bất bình đẳng còn thể hiện ở sự phân biệt đối xử giữa các tầng lớp dân cư, đặc biệt là nạn phân biệt chủng tộc, mặc dù nạn phân biệt chủng tộc đã được ngăn chặn một phần, nhưng điều đó không có nghĩa là nạn phân biệt chủng tộc đã giảm.

Ở phạm vi toàn thế giới, sự bất bình đẳng còn được biểu hiện trong mối quan hệ giữa trung tâm và ngoại vi, tức là mối quan hệ giữa các nước phát triển và đang phát triển. Cuộc khủng hoảng do đại dịch COVID-19 làm bộc lộ rõ hơn sự phân hóa xã hội ở các nước tư bản phát triển, giữa các nước tư bản phát triển với các nước đang phát triển. Trong khi các nước tư bản tích lũy sự giàu có thì các nước đang phát triển đang phải đương đầu với tình hình nghèo đói, bệnh tật, dốt nát.

Như vậy, dù có điều chỉnh như thế nào thì bản chất của chủ nghĩa tư bản vẫn không hề thay đổi, đúng như nhận định của Đảng ta về chủ nghĩa tư bản “về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công”. Sự áp bức, bất công đó thông qua sự thống trị của chủ nghĩa tư bản độc quyền, của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, không chỉ đóng khung trong từng quốc gia - dân tộc, mà được quốc tế hóa hơn bao giờ hết.

Ba là, chủ nghĩa tư bản ngày nay ngày càng bộc lộ bản chất cực đoan, hiếu chiến, tạo lập, củng cố độc quyền cho các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia.

Lịch sử cho thấy, chủ nghĩa tư bản vì mục tiêu lợi nhuận đã sử dụng mọi thủ đoạn để tranh giành thị trường, thuộc địa và phạm vi ảnh hưởng, kể cả chiến tranh xâm lược. Chủ nghĩa tư bản là thủ phạm của hai cuộc chiến tranh thế giới và hàng trăm cuộc xung đột, chạy đua vũ trang trên thế giới trong suốt hai thế kỷ qua.

Với toàn cầu hóa kinh tế, quá trình mở rộng thống trị của tư bản tài chính vượt khỏi biên giới quốc gia, thông qua hoạt động xuất khẩu tư bản, chiếm lĩnh thị trường. Để củng cố và mở rộng sự thống trị của tư bản tài chính, các nước tư bản đã không ngừng tăng chi phí cho việc tăng cường sức mạnh chính trị, quân sự. Sức mạnh kinh tế được hậu thuẫn bởi sức mạnh công nghệ, quân sự, các nước tư bản phát triển ngày nay, đứng đầu là Mỹ đã luôn thực hiện “quy tắc” của quốc gia này đối với phần còn lại của thế giới. Sử dụng vũ lực để buộc các quốc gia phải lệ thuộc, đe dọa quyền tự quyết của các dân tộc, áp đặt giá trị cường quốc kinh tế cho các nền kinh tế ngày càng trở nên phổ biến.

Việc quân sự hóa nền kinh tế, chạy đua vũ trang, hình thành và bành trướng của các tổ hợp công nghiệp quân sự trong phạm vi thế giới của quá trình toàn cầu hóa trong điều kiện thống trị của tư bản độc quyền là biểu hiện của tính phi nhân đạo của chủ nghĩa tư bản. Do chạy theo mục tiêu lợi nhuận độc quyền cao trong sản xuất quân sự đã đẩy các nước tăng cường sản xuất quân sự, chạy đua vũ trang, do đó chi phí tài chính cho sản xuất vũ khí quân sự ngày càng lớn. Theo báo cáo của Viện nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockholm (SIPRI) công bố năm 2022, Mỹ dẫn đầu thị trường vũ khí thế giới với chi tiêu quốc phòng đạt 877 tỷ USD, chiếm 39% trong tổng số chi tiêu trên toàn cầu.

Kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

 

Để đóng góp vào việc bổ sung lý luận về chủ nghĩa xã hội cũng như công cuộc phát triển nhanh và bền vững của Việt Nam trong thời kỳ mới, cần lưu ý một số vấn đề:

Một là, trong bối cảnh hiện nay, cần có quan điểm toàn diện, luận giải đầy đủ về bản chất, đặc điểm, biểu hiện mới của chủ nghĩa tư bản, đánh giá hết khả năng co giãn của cơ cấu kinh tế cũng như khả năng tự thích nghi, điều chỉnh của tư bản chủ nghĩa. Vì thế, nghiên cứu chủ nghĩa tư bản ngày nay cần nghiên cứu khách quan, toàn diện; tránh tuyệt đối hóa, chủ quan, duy ý chí trong đấu tranh tư tưởng mà cần tiếp cận tổng hợp, đa chiều. Khi đánh giá chủ nghĩa tư bản ngày nay, cần cân nhắc cả hai khía cạnh tích cực và tiêu cực; một mặt, củng cố niềm tin, khắc phục sự lạc hậu trong nhận thức lý luận về chủ nghĩa tư bản; mặt khác, tiếp tục luận giải rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Nhận thức mới về bản chất và biểu hiện của chủ nghĩa tư bản trong thời đại ngày nay là căn cứ lý luận khoa học quan trọng để củng cố niềm tin, kiên định việc lựa chọn con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011): Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Nhằm xây dựng “một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người; sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển”.

Hai là, chủ nghĩa tư bản ngày nay vẫn là một chủ đề nghiên cứu quan trọng trong khi bối cảnh thế giới ngày nay khác và đổi thay nhanh hơn so với những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Trên thực tế, không thể phủ nhận chủ nghĩa tư bản đã điều chỉnh, thích ứng, tận dụng được các thành tựu khoa học - công nghệ để tồn tại, tiếp tục phát triển, có những yếu tố mới, đặc điểm mới. Do đó, cần có nghiên cứu đầy đủ, khách quan, toàn diện để làm rõ bản chất, nội hàm, biểu hiện cũng như tác động của những điều chỉnh đối với chủ nghĩa tư bản hiện đại cũng như xu thế phát triển của nhân loại. Từ đó, góp phần cung cấp cơ sở khoa học, luận cứ cho việc tiếp tục bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới và hiện thực hóa mục tiêu chiến lược và khát vọng dân tộc theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng.

Ba là, trong giai đoạn mới của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và toàn cầu hóa đời sống thế giới, mở cửa hội nhập trở thành tất yếu, bên cạnh thời cơ, thuận lợi thì không ít thách thức, nguy cơ cũng xuất hiện. Mặc dù hoà bình, hợp tác, phát triển là xu hướng của thời đại, qua đó, tạo điều kiện để đất nước thu hút nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nhưng xu hướng cường quyền, gây sức ép đối với các quốc gia, vẫn luôn hiện hữu. Đó là thách thức, nguy cơ cần có sự nhận thức sâu sắc và tỉnh táo, tránh mơ hồ, mất cảnh giác, để có chủ trương, biện pháp ngăn ngừa, đối phó chủ động, hữu hiệu. Các nước vừa và nhỏ dù muốn hay không cũng phải nắm bắt xu thế trong quan hệ của các nước lớn để hoạch định, điều chỉnh chính sách đối ngoại với phương châm vừa hợp tác, vừa đấu tranh trên cơ sở giữ vững những vấn đề có tính nguyên tắc, chiến lược và mềm dẻo, linh hoạt về sách lược để hội nhập hiệu quả trong xu hướng thế giới nhiều đổi thay./

 

Cảnh giác trước luận điệu xuyên tạc, nói xấu Đảng, Nhà nước trong dịp kỷ niệm Ngày giải phóng Miền Nam 30/4

 

Mỗi khi chuẩn bị tới sự kiện lịch sử của dân tộc - Kỷ niệm Ngày giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước 30/4/1975, cả nước hân hoan chuẩn bị đón mừng thì các đối tượng phản động lại tích cực hoạt động, đưa ra những luận điệu xuyên tạc, sai lệch lịch sử nhằm phá hoại tinh thần dân tộc, nói xấu Đảng và Nhà nước ta.

Luận điệu xuyên tạc của các đối tượng phản động

Thực hiện âm mưu phá hoại nước ta trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, chúng lợi dụng việc trốn ra nước ngoài bằng thuyền của một bộ phận người dân sau ngày 30/4/1975 mà chúng gọi đó là hành trình vượt biển hay hành trình tìm tự do để tạo dư luận trên trang mạng xã hội, xuyên tạc nói xấu Đảng, Nhà nước.

Thực chất của hành trình vượt biển hay hành trình tìm tự do đó là sau khi đất nước thống nhất năm 1975, còn gặp nhiều khó khăn trong việc khôi phục phát triển kinh tế, kèm theo những luận điệu tuyên truyền, lôi kéo, kích động, dụ dỗ về cuộc sống phồn hoa tươi đẹp ở phương Tây, một bộ phận người dân đã tìm cách vượt biên trái phép để sang các nước tư bản. Nhưng chỉ số ít thành công, đa số đều trắng tay trở về hoặc bị đưa vào các trại tỵ nạn, trải qua cuộc sống như bị giam lỏng do vượt biên trái phép.

Chúng lợi dụng sự việc trên tạo dư luận trên mạng xã hội, đưa ra những thông tin vô căn cứ, sáo rỗng, thiếu hiểu biết, nói xấu Nhà nước ta để cho dân nghèo khổ, thiếu tự do dân chủ nên phải đi tìm kiếm tự do, xuyên tạc về cuộc sống ở Việt Nam phải hít khí độc, uống nước bẩn, lội nước cống…

Từ thực tế nhận thấy, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đất nước ta đang ngày càng phát triển và vững mạnh, cuộc sống của người dân được cải thiện, nâng cao. Sau khi thống nhất đất nước, giai đoạn năm 1976-1985, đất nước ta thực hiện 02 kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội là Kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980) và Kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981-1985) nhằm khắc phục từng bước những hậu quả nặng nề của chiến tranh; khôi phục cơ sở công nghiệp, nông nghiệp, giao thông ở Miền Bắc và xây dựng lại các vùng nông thôn ở miền Nam bị chiến tranh tàn phá. Giai đoạn này tuy đất nước phát triển chậm nhưng đã giải quyết được các vấn đề về giáo dục, y tế như đến đầu năm 1978, tất cả các tỉnh và thành phố miền Nam đã căn bản xoá nạn mù chữ; hệ thống y tế được mở rộng, xây mới và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật.

Giai đoạn năm 1986-2000, Nhà nước bắt đầu có một số thay đổi trong chính sách quản lý kinh tế, đổi mới đường lối, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Một trong những thành tựu kinh tế to lớn giai đoạn này là phát triển sản xuất nông nghiệp, thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn, đánh dấu sự mở đầu của thời kỳ đổi mới trong nông nghiệp và nông thôn nước ta. Ngành nông nghiệp đã giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đưa Việt Nam từ nước thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới. Thu nhập bình quân đầu người một tháng của dân cư tăng từ khoảng 1.600 đồng (năm 1986) lên đến 295.000 đồng (năm 1999). Thu nhập tăng nhanh góp phần làm cho công cuộc xóa đói giảm nghèo của nước ta trong giai đoạn này đạt được những kết quả đáng kể, năm 1993, tỷ lệ nghèo chung của Việt Nam là 58,1%, thì đến năm 1998 tỷ lệ nghèo này giảm xuống còn 37,4%.

Giai đoạn 2001 đến nay, kinh tế nước ta có sự phát triển mạnh mẽ. Năm 2008, nước ta đã ra khỏi nhóm nước và vùng lãnh thổ thu nhập thấp để gia nhập nhóm nước và vùng lãnh thổ thu nhập trung bình thấp, đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển, đó là thành tựu nổi bật nhất trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Hệ thống giao thông, hạ tầng kỹ thuật được triển khai xây dựng đồng bộ, xuyên suốt tạo thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, giao thương quốc tế. Đồng thời với sự phát triển kinh tế, chế độ chính sách hỗ trợ người dân cũng được quan tâm, chú trọng, việc thực hiện xóa đói, giảm nghèo được chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình phát triển đất nước như Chương trình mục tiêu quốc gia Xoá đói giảm nghèo và Việc làm giai đoạn 2001-2005; Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo giai đoạn 2006-2010; Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2012-2015; Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020. Tỷ lệ nghèo chung của Việt Nam năm 2002 đang ở mức là 28,9%, đến năm 2018 đã giảm xuống 6,7%. Đặc biệt trong cuộc chiến chống đại dịch Covid-19, dưới sự quan tâm chỉ đạo sát sao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, sự chung tay đóng góp của cả xã hội góp phần thể hiện được sự ưu việt trong hệ thống y tế Việt Nam như thúc đẩy ngoại giao vắc xin, thành lập Quỹ vắc xin... và phát động chiến dịch tiêm chủng miễn phí toàn dân, đưa nước ta từ một nước có tỷ lệ tiêm vắc xin rất thấp đã vượt lên là 1 trong 6 nước có tỷ lệ bao phủ tiêm vắc xin cao nhất trên thế giới.

Có thể thấy rằng, các đối tượng phản động luôn không từ thủ đoạn để thực hiện âm mưu phá hoại đất nước ta, chúng sẵn sàng đưa ra những luận điểm sai trái, vô căn cứ để xuyên tạc, nói xấu Đảng, Nhà nước. Do đó, mỗi chúng ta cần phải nâng cao cảnh giác trước những thông tin tuyên truyền sai sự thật, xuyên tạc về Đảng, Nhà nước ta; tiếp nhận thông tin một cách khoa học, có chọn lọc từ các nguồn báo đài chính thống; cảnh giác trước những thông tin gây hoang mang, dẫn dắt dư luận trên mạng xã hội; tăng cường vốn hiểu biết và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, đặc biệt là Luật An ninh mạng khi đăng tải, chia sẻ, bình luận trên mạng xã hội.

 

Đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc Ngày giải phóng Miền Nam 30/4/1975 và cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

 

Cứ đến ngày giải phóng Miền Nam 30/4 hàng năm, các thế lực thù địch, phản động luôn tìm mọi cách đăng tải, chia sẻ, phát tán xuyên tạc, phủ nhận sự kiện chiến thắng ngày 30/4/1975 và thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với những luận điệu hết sức phi lý, thâm độc, phản động với mức độ ngày càng nghiêm trọng, phạm vi ngày càng mở rộng, tính chất ngày càng phức tạp, tinh vi hơn. Song những luận điệu xuyên tạc đó là hết sức vô lý, thâm độc, đi lại lợi ích của nhân dân Việt Nam. Do vậy, nhiệm vụ đấu tranh, phản bác, làm thất bại các luận điệu, thông tin sai trái là một yêu cầu quan trọng, góp phần bảo vệ giá trị lịch sử, bảo vệ nền tảng tư tưởng.

Luận điệu của các đối tượng phản động

Trong khi cả dân tộc ta vui mừng, tổ chức các hoạt động kỷ niệm, thì các thế lực thù địch, phản động bao gồm: các học giả tư sản, các trung tâm truyền thông phương tây có tư tưởng, thù địch chống Việt Nam, các đài phát thanh hải ngoại (phụ đề tiếng Việt) như: VOA, RFA, RFI, BBC… , các tổ chức phản động lưu vong người Việt Nam tại Hải ngoại (Việt Tân, Chính phủ Quốc gia Việt Nam Lâm Thời”…), tàn dư cũ, phần tử cực đoan mới của chế độ vong nô Ngụy quân, Ngụy quyền sinh sống tại các quốc gia phương Tây (Mỹ, Canada, Anh, Đức, Australia…), các đối tượng cơ hội, bất mãn chính trị trong nước ra sức sử dụng các diễn đàn, hội thảo, đặc biệt lợi dụng internet, mạng xã hội để đăng tải, chia sẻ, phát tán xuyên tạc, phủ nhận sự kiện chiến thắng ngày 30/4/1975 và thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với những luận điệu hết sức phi lý, thâm độc, phản động với mức độ ngày càng nghiêm trọng, phạm vi ngày càng mở rộng, tính chất ngày càng phức tạp, tinh vi hơn. Đồng thời, chúng kêu gọi, tập hợp lực lượng, biểu tình, tưởng niệm cái gọi là “Ngày Quốc hận 30/4”. Có thể khái quá một số âm mưu, những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về ngày giải phóng Miền Nam 30/4/1975 và cuộc khánh chiến chống Mỹ, cứu nước như sau:

Một là, đánh tráo bản chất lịch sử Mỹ xâm lược Việt Nam, biện minh cho tội ác xâm lược của Mỹ, cho rằng đây cuộc nội chiến đau thương hai miền Nam-Bắc. Chúng ra sức biện hộ cho hành động xâm lược tàn bạo của Mỹ ở Việt Nam, chúng cho rằng: Mỹ chỉ tiến hành can thiệp vào Việt Nam là để giúp “Việt Nam tiếp cận văn minh phương Tây, bảo vệ nền dân chủ, giá trị tự do”; cuộc chiến tranh Việt Nam là cuộc nội chiến đau thương hai miền Nam - Bắc và ngày giải phóng Miền Nam 30/4/1975 là ngày “Quốc hận”, đất nước thống nhất nhưng lòng người chia cắt….đây là những luận điệu hết sức thâm độc, nằm trong chiến lược “xét lại lịch sử”, “lật sử” nhằm “rửa mặt cho ngụy, rửa nhục cho Mỹ”  của các thế lực thù địch đối với Việt Nam.

Lịch sử chiến tranh Việt Nam đã chứng minh: Để tiến hành một cuộc chiến tranh tổng lực, hủy diệt, tàn bạo chống nhân dân Việt Nam, Mỹ đã tiêu tốn 676 tỷ USD, đưa chiến tranh Việt Nam trở thành một trong những cuộc chiến tốn kém nhất trong lịch sử nước Mỹ. Mỹ đã rải xuống Việt Nam gần 8 triệu tấn bom, gấp 3 lần sử dụng trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và 85 triệu lít chất độc hóa học có chứa đi-ô-xin. Trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống Mỹ cứu nước, hơn 3 triệu đồng bào, chiến sĩ của ta đã ngã xuống, máu của quân, dân ta đã nhuộm đỏ từng tấc đất; hàng ngàn làng mạc, thành phố đã bị san phẳng; đến nay, nhiều di chứng của cuộc chiến tranh, nhất là chất độc màu da cam vẫn thể khắc phục.

Qua các sự kiện, con số, chúng ta khẳng định một tính tất yếu, khách quan lịch sử đó là: Mỹ là kẻ thù gây lên chiến tranh, tội ác đối với dân tộc Việt Nam, và dân tộc Việt Nam phải đánh Mỹ, thắng Mỹ và bè lũ tay sai để giành độc lập, thống nhất nước nhà. Năm 2000, trong lần gặp Tổng thống Mỹ Bill Clinton, Cố Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã trả lời đanh thép về cuộc chiến tranh kháng chiến chống Mỹ của Nhân dân Việt Nam với Tổng thống Mỹ Bill Clinton rằng: “Thưa ngài, cái mà ngài gọi là “chiến tranh Việt Nam” thì nhân dân Việt Nam chúng tôi gọi đó là “Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước...”. Mọi âm mưu xét lại lịch sử, bôi đen lịch sử, biện minh cho tội ác của đế quốc Mỹ, xét lại lịch đều là giả dối, bẩn thỉu, đớn hèn.

Hai là, ca ngợi chế độ tay sai Ngụy Sài Gòn; kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thổi phồng, xuyên tạc tình hình đất nước

Chiến tranh đã lùi xa 50 năm, trải qua gần 40 năm đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, với tinh thần đoàn kết, sáng tạo, phát huy nội lực, tranh thủ thời cơ, tăng cường hợp tác quốc tế, Việt Nam đã giành được những thành tựu kinh tế, xã hội to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Việt Nam đã trở thành hình mẫu của thế giới về xóa đói giảm nghèo và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, ngày càng đóng góp nhiều hơn cho hòa bình, ổn định tại khu vực và thế giới. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn mang nặng tâm lý “hận thù dân tộc”, điên cuồng tuyên truyền, gọi ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là “ngày quốc hận”, “tháng 4 đen tối”; “chiến thắng đưa dân tộc vào khổ đau”; chúng vẫn tiếc nuối; ca ngợi chế độ Ngụy quyền Sài Gòn là chính quyền dân chủ, vì dân, cuộc sống hoa lệ của Miền Nam…Đồng thời, ra sức lợi dụng các vấn đề chống tham nhũng, các yếu kém, tồn tại trong quản lý nhà nước, công tác phòng, chống dịch Covid -19 để xuyên tạc tình hình Việt Nam, nhất là luôn rêu rao cái gọi là “dưới chế độ Đảng Cộng sản cầm quyền nhân dân Việt Nam không có dân chủ, không có tự do, bị đàn áp”, “Một chế độ đảng trị, cường quyền, tham nhũng”, “Con đường CNXH mà Đảng đang xây dựng là con đường sai lầm”, “Muốn đất nước phát triển, hòa hợp dân tộc phải xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, phải theo chế độ đa nguyên, đa đảng”; xuyên tạc chính sách đại đoàn kến dân tộc của Đảng, Nhà nước… Đồng thời, chúng triệt để lợi dụng sự nhẹ nhẹ cả tin, kém hiểu biết lịch sử của mọi người, nhất là thế hệ trẻ để tổ chức các buổi tọa đàm, hội thảo, lễ tưởng niệm và lồng ghép vào đó là quyên góp từ thiện, tài trợ để tiến hành các hoạt động chống phá Việt Nam….

Thực tế lịch sử đã chứng minh chế độ Ngụy quyền Sài Gòn là một chính quyền tay sai, bù nhìn, con rối chính trị do Mỹ dựng lên nhằm khủng bố, đàn áp lòng yêu nước, ý chí thống nhất Tổ quốc của Nhân dân ta; nó chưa bao giờ đại diện có ý chí, nguyện vọng của đồng bào Miền Nam; nền kinh tế Miền Nam được sinh ra bởi những đồng tiền dơ bẩn của cỗ máy chiến tranh của Mỹ và các nước chư hầu, một nền kinh tế, văn hóa được xây dựng trên nền tảng thuốc phiện, gái điếm, buôn lậu, tội ác chiến tranh.

Chiến thắng của dân tộc ta trong ngày 30/4/1975 và 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng Miền Nam, thống nhất nước nhà là một sự kiện trọng đại của dân tộc, một chiến thắng nối tiếp lịch sử hào hùng của Bặc Đằng, Chi Lăng, Đống Đa, biểu tượng sáng ngời cho trí tuệ, lương tâm, danh dự, phẩm giá con người Việt Nam, thắng lợi đó còn là thắng lợi chung của nhân dân các dân tộc bị áp bức, cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trên toàn thế giới. Những âm mưu xuyên tạc, hạ thấp, bôi đen ý nghĩa, bản chất chính nghĩa, tính dân tộc, tính thời đại của chiến thắng 30/4/1975 và cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc ta là xúc phạm sự hy sinh anh dũng của đồng bào và chiến sỹ, là phủ nhận lịch sử để kích động hận thù dân tộc, phá hoại đoàn kết dân tộc, phá hoại sự ổn định của đất nước, bôi nhọ hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế, là cơ sở để các thế lực thù địch móc nối, tập hợp lực lượng trong - ngoài tiến hành các chiến dịch chống phá Việt Nam, gây rối an ninh trật tự, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Do vậy, hơn bao giờ hết, Nhân dân ta cần nêu cao tinh thần cảnh giác, trách nhiệm với lịch sử, kiên quyết đấu tranh, làm thất bại âm mưu thâm độc nhằm bôi đen, hạ thấp ý nghĩa của Ngày giải phóng Miền Nam 30/4/1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, bảo vệ lịch sử chân chính, anh dũng của, bảo vệ giá trị, ý nghĩa trường tồn, vĩ đại của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

 

 

Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng viên qua tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”

 

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa cá nhân là những quan điểm, quan niệm tuyệt đối hoá vai trò và lợi ích cá nhân, đề cao tự do cá nhân, đặt lợi ích cá nhân lên trên hết, trước hết và đối lập với lợi ích tập thể.

Description: https://snv.bacgiang.gov.vn/documents/21451/16752076/1683880249452_z4335724859840_f6fc2d9e6d1910cf4f51808cdc94a34d.jpg/1a540885-505e-4299-8cd4-4243a9354b14?t=1683880249455

Chủ nghĩa cá nhân được Hồ Chí Minh sử dụng lần đầu tiên trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” với bút danh X.Y.Z, viết xong tháng 10/1947.

Khái niệm chủ nghĩa cá nhân

Chủ nghĩa cá nhân được Hồ Chí Minh sử dụng lần đầu tiên trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” (năm 1947) và dần được bổ sung cùng với quá trình lãnh đạo cách mạng của Người. Theo Hồ Chí Minh, “Chủ nghĩa cá nhân là đặt lợi ích riêng của mình, của gia đình mình lên trên, lên trước lợi ích chung của dân tộc”. Chủ nghĩa cá nhân là “so bì đãi ngộ: lương thấp, cao, quần áo đẹp, xấu, là uể oải, muốn nghỉ ngơi, hưởng thụ, an nhàn” hoặc “Chủ nghĩa cá nhân, lợi mình hại người, tự do vô tổ chức, vô kỷ luật và những tính xấu khác... Như vậy, theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa cá nhân là những quan điểm, quan niệm tuyệt đối hoá vai trò và lợi ích cá nhân, đề cao tự do cá nhân, đặt lợi ích cá nhân lên trên hết, trước hết và đối lập với lợi ích tập thể. Chủ nghĩa cá nhân, dù xem xét ở góc độ nào thì cũng là đề cao, tuyệt đối hóa lợi ích cá nhân, làm gì cũng nghĩ đến mình trước hết, muốn mọi người vì mình mà không muốn mình vì mọi người. Chủ nghĩa cá nhân là trái ngược với đạo đức cách mạng, trái với chủ nghĩa tập thể, cái gì trái với đạo đức cách mạng đều là chủ nghĩa cá nhân.

Nguồn gốc, bản chất và biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân

Hồ Chí Minh cho rằng, chủ nghĩa cá nhân là sản phẩm tất yếu của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Người viết: Trong xã hội cũ, bọn phong kiến địa chủ, bọn tư bản và đế quốc thẳng tay áp bức, bóc lột những tầng lớp người khác, nhất là công nhân và nông dân. Người cho rằng, thói quen và truyền thống lạc hậu nảy sinh từ nền nông nghiệp tiểu nông lúa nước vẫn còn tồn tại trong cách nghĩ cách làm của một bộ phận nhân dân, cán bộ, đảng viên.

Bên cạnh những nguồn gốc khách quan nói trên, chủ nghĩa cá nhân còn nảy sinh từ những nguyên nhân chủ quan. Ở đây, Hồ Chí Minh chỉ rõ nguyên nhân chủ quan làm nảy sinh chủ nghĩa cá nhân bao gồm hai mặt. Một mặt, theo Người, do cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện và học tập để chủ nghĩa cá nhân phát triển, chi phối. Họ nặng tính thực dụng, thiếu tu dưỡng rèn luyện thường xuyên nên ý thức giác ngộ, lập trường giai cấp phai nhạt, tư tưởng hưởng thụ, bệnh gia trưởng, hẹp hòi ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân trỗi dậy chi phối suy nghĩ và hành vi. Do lười học tập, nghiên cứu lý luận chính trị, dẫn tới nhận thức, giác ngộ về hệ tư tưởng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong không ít cán bộ, đảng viên yếu kém, vì thế họ ngày càng xa dân, không được nhân dân ủng hộ trong thực tế. Đó là nguy cơ lớn liên quan đến sự tồn vong của Đảng và chế độ ta. Có thể thấy, việc thiếu tu dưỡng, rèn luyện và học tập để nâng cao năng lực, phẩm chất cách mạng vừa là biểu hiện, vừa là nguyên nhân hình thành chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng viên…

Bản chất của chủ nghĩa cá nhân theo quan điểm của Hồ Chí Minh chính là sự tuyệt đối hóa lợi ích cá nhân, tách rời, coi thường và đối lập với lợi ích chung của cộng đồng, xã hội, thể hiện: Đối với lý tưởng cách mạng, chủ nghĩa cá nhân đặt lợi ích riêng của mình, của gia đình mình lên trên, lên trước lợi ích chung của dân tộc, cái gì cũng chỉ biết có mình và gia đình mình chứ ít khi nghĩ đến cái gia đình lớn là dân tộc. Đối với nhân dân, chủ nghĩa cá nhân là đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, xa rời nhân dân, là quan liêu, hách dịch đối với nhân dân. Đối với nhiệm vụ cách mạng, chủ nghĩa cá nhân là sợ khó, sợ khổ; tự do chủ nghĩa, luôn đặt lợi ích riêng lên trên lợi ích chung, rồi sinh ra vô kỷ luật, vô tổ chức, tham địa vị, tham danh vọng, bè phái, tham ô, lãng phí, quan liêu. Đối với mình, chủ nghĩa cá nhân là tự tư, tự lợi, tự kiêu, tự mãn, tranh công đổ lỗi, công thần; đòi hưởng thụ, đãi ngộ, tham lam, lười biếng, hiếu danh, hẹp hòi; thực dụng. Do vậy, chủ nghĩa cá nhân là mặt trái, là yếu tố kìm hãm sự phát triển của cá nhân trong xã hội mới, văn minh, hiện đại, bởi nó gây tác hại nghiêm trọng không chỉ cho bản thân cá nhân mà còn cho xã hội. Theo Hồ Chí Minh, biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân được thể hiện thông qua các hành vi của mỗi con người: chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng chỉ lo cho lợi ích của riêng mình, không quan tâm đến lợi ích chung của cách mạng, của nhân dân; là tham danh trục lợi, thích địa vị, quyền hành, tham nhũng quyền lực; quan liêu, mệnh lệnh; xa rời quần chúng.

Tác hại của chủ nghĩa cá nhân

Về chính trị, theo Hồ Chí Minh, tác hại lớn nhất mà chủ nghĩa cá nhân gây ra đó là làm mất lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, với cách mạng. Những cán bộ mắc căn bệnh cá nhân chủ nghĩa dễ đi đến phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng, phủ nhận tính đúng đắn của sự lựa chọn con đường phát triển dân tộc. Họ bằng lòng với những nhận thức giản đơn, mơ hồ về chủ nghĩa Mác - Lênin, về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Về kinh tế, những cán bộ, đảng viên bị ảnh hưởng của chủ nghĩa cá nhân thì tiền của của Nhà nước, của Nhân dân không chỉ bị biến thành tài sản riêng của cá nhân mà thậm chí còn bị lãng phí và thất thoát lớn. Ở mức độ thấp hơn, một số cán bộ, đảng viên lạm dụng quyền hạn, chức vụ trong khi thi hành công vụ, nhũng nhiễu, hạch sách, làm mất thời gian, công sức, tiền bạc của Nhân dân. Hồ Chí Minh từng khẳng định: khi gặp công việc không biết tìm đủ cách giải thích cho dân hiểu... song, vì muốn làm cho được việc, rồi dùng cách hạ mệnh lệnh, cách áp bức, phạm vào thói quan liêu, quân phiệt, đến nỗi Chính phủ hoặc Đảng phải trừng phạt.

Về văn hóa - xã hội, chủ nghĩa cá nhân làm tha hoá đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, xâm phạm, thậm chí làm thay đổi, đảo lộn những chuẩn mực đạo đức xã hội. Khi chuẩn mực xã hội bị phá vỡ càng làm cho chủ nghĩa cá nhân phát triển. Cán bộ, đảng viên sa vào chủ nghĩa cá nhân do được thúc đẩy bởi những lợi ích phi pháp, bất chính sẽ sẵn sàng bẻ cong, chà đạp hoặc phá vỡ các quy tắc, yêu cầu của các chuẩn mực xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự xã hội.

Yêu cầu và giải pháp đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Để chống chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh đã xác định rõ chủ thể của cuộc đấu tranh này là: tổ chức (bao gồm Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền từ Trung ương đến cơ sở, cơ quan, đơn vị, các đoàn thể xã hội); bản thân mỗi cán bộ, đảng viên và đông đảo các tầng lớp nhân dân. Đồng thời để phát huy hiệu quả trong cuộc đấu tranh này càn phải quán triệt các nguyên tác đó là: Phải đảm bảo tính toàn diện, hệ thống; phải thường xuyên, kiên trì, cụ thể và phải có quyết tâm cao; phải tôn trọng, bảo vệ, khuyến khích động lực cá nhân chính đáng và phải kết hợp chặt chẽ giữa chống chủ nghĩa cá nhân với xây dựng đạo đức cách mạng cho mỗi cán bộ, đảng viên. Trên cơ sở những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới cùng với những nhận thức sâu sắc về bản chất cũng như sự nguy hiểm của chủ nghĩa cá nhân đối với một đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đã đưa ra những biện pháp chủ yếu để đẩy lùi và tẩy trừ căn bệnh này.

Một là, phát huy vai trò của Đảng và tổ chức đảng trong đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân.

Phải thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng. Việc chỉnh đốn Đảng, thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng là một trong những biện pháp hết sức quan trọng. Mỗi cơ quan lãnh đạo, mỗi người lãnh đạo phải làm sao để cho các đảng viên và cán bộ dám nói ý kiến của mình, dám phê bình. Trong một tổ chức, nếu cách lãnh đạo không được dân chủ thì dẫn đến cán bộ, đảng viên không dám nói ra những điều họ nghĩ, rồi sinh ra uất ức, chán nản từ đó nảy sinh ra thói “không nói trước mặt, chỉ nói sau lưng”, sinh ra nhiều thói xấu khác, từ đó dẫn đến cấp trên với cấp dưới cách biệt nhau, quần chúng với Đảng xa rời nhau.

Hai là, thực hành tự phê bình và phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng.

Thực hiện tốt tự phê bình và phê bình, con người sẽ làm chủ và điều chỉnh được mọi hoạt động của bản thân. Khi cán bộ, đảng viên nhận thức được sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội một cách tự giác, xét ở góc độ nhân cách, đó còn là lòng tự trọng, nghĩa là họ hành động do sự thôi thúc của chính mình, coi đó là nhu cầu sống và lẽ sống, chứ không bởi sự hối thúc của ngoại cảnh; và khi đạt tới trạng thái tự do trong tự phê bình và phê bình, thì quan hệ giữa mỗi cán bộ, đảng viên sẽ mang đậm tính nhân bản, chứa đựng tính nhân văn sâu sắc. Triết lý tự phê bình và phê bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh thực chất là triết lý tu thân, một triết lý đậm tính nhân văn cao cả và sâu sắc; triết lý này góp phần quan trọng làm nên lẽ sống, lối sống của người Cộng sản, đồng thời, là một nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng Cộng sản. Theo đó, tự phê bình và phê bình là việc phải làm thường xuyên như “rửa mặt hàng ngày” của mỗi cán bộ, đảng viên. Vì vậy, mỗi đảng viên, mỗi cán bộ, cần phải tự xét mình và xét đồng chí mình, ai có khuyết điểm nào, thì phải thật thà cố gắng tự sửa chữa và giúp sửa chữa lẫn nhau. Tự phê bình và phê bình cho đúng chẳng những không làm giảm thể diện, uy tín của cán bộ, của Đảng, trái lại nó còn làm cho sự lãnh đạo mạnh mẽ hơn, thiết thực hơn, do đó mà uy tín và thể diện càng tăng thêm.

Ba là, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng phải chặt chẽ; kỷ luật Đảng phải nghiêm minh, tự giác.

Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng chặt chẽ; chế độ sinh hoạt và kỷ luật đảng nghiêm minh, tự giác luôn là một trong những biện pháp hữu hiệu để góp phần chống chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng viên của Đảng. Sinh hoạt và kỷ luật đảng nghiêm minh, tự giác giúp cho mỗi tổ chức đảng, mỗi đảng viên luôn ý thức được vai trò, trách nhiệm và nghĩa vụ của mình. Đặc biệt, trong điều kiện Đảng cầm quyền, ở những vị trí lãnh đạo chủ chốt trong bộ máy nhà nước đều là đảng viên. Họ là những người cán bộ có chức, có quyền; trong đó gắn liền với chức, quyền là danh và lợi. Do đó, nếu đảng buông lỏng kỷ luật sẽ dễ làm nảy sinh đầu óc cá nhân chủ nghĩa trong mỗi cán bộ, đảng viên.

Bốn là, phát huy vai trò của Nhân dân trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân.

Hồ Chí Minh viết: lực lượng của dân chúng nhiều vô cùng. Kinh nghiệm trong nước và các nước tỏ cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có thì việc gì làm cũng không xong. Theo Hồ Chí Minh, biện pháp quan trọng hàng đầu để phát huy vai trò của quần chúng trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân là phải giáo dục tư tưởng cho quần chúng. Đồng thời, Chính phủ và Nhà nước cần không ngừng nâng cao dân trí, nâng cao hiểu biết của người dân để họ phát huy quyền làm chủ của mình trong cuộc đấu tranh này. Theo đó, Người yêu cầu, báo chí phải góp phần quan trọng trong công tác tuyên truyền, giáo dục; phải phân tích cho người dân thấy tác hại nghiêm trọng của chủ nghĩa cá nhân và giúp họ thấy sự cần thiết của việc chống lại căn bệnh này; cần sớm hoàn thiện cơ chế để huy động được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân.

Năm là, phát huy tính tích cực, tự giác của bản thân cán bộ, đảng viên trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân.

Đối với mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng, tu dưỡng đạo đức cá nhân là một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu để chống chủ nghĩa cá nhân. Bởi, đạo đức cách mạng là đạo đức dấn thân, đạo đức trong hành động vì độc lập tự do của dân tộc, hạnh phúc của Nhân dân. Chỉ có trong hành động, đạo đức cách mạng mới bộc lộ rõ những giá trị của mình. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà trong tác phẩm “Đường kách mệnh”, Hồ Chí Minh đưa phần giáo dục đạo đức lên hàng đầu, trong đó trước hết phải xử lý mối quan hệ với chính mình, phải tu dưỡng cá nhân. Chỉ có ra sức học tập và rèn luyện, mỗi người mới trở thành người tốt hơn, đạo đức hơn. Để phát huy tinh thần tự giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cá nhân, Hồ Chí Minh cho rằng, phải làm sao để mỗi cán bộ, đảng viên tự nhận thấy việc trau dồi đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân là một việc “sung sướng, vẻ vang nhất trên đời”. Mỗi cán bộ, đảng viên phải tự giác rèn luyện thông qua hoạt động thực tiễn, trong công việc, trong các mối quan hệ của mình, phải nhìn thẳng vào mình, không tự lừa dối, huyễn hoặc; phải thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện của mình để phát huy và thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác của mình để khắc phục; phải kiên trì rèn luyện, tu dưỡng suốt đời như công việc rửa mặt hàng ngày./.

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, lãnh tụ thiên tài của Đảng và Nhân dân Việt Nam

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh - Vị anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất, vị lãnh tụ thiên tài của Đảng và Nhân dân Việt Nam. Không chỉ vậy, Hồ Chí Minh còn là chiến sĩ cách mạng kiên cường và là người bạn rất thân thiết của các dân tộc trên thế giới. Người đã hiến dâng trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và góp phần to lớn vào sự nghiệp cách mạng của Nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, lớn lên đi học lấy tên là Nguyễn Tất Thành, hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc) sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình nhà nho yêu nước, tại làng Hoàng Trù, xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động của đất nước. Nhiều cuộc khởi nghĩa, đấu tranh anh dũng, bất khuất giành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc đều lần lượt thất bại, phong trào cứu nước của Nhân dân ta đứng trước khủng hoảng sâu sắc về đường lối. Chứng kiến cảnh nước mất nhà tan, Người đã sớm hun đúc ý chí và khát vọng cháy bỏng giành độc lập tự do cho dân, cho nước. Ngày 5/6/1911 với tên gọi mới là Văn Ba, Người đã lên tàu Amiran Latusơ Tơrêvin, rời bến cảng Nhà Rồng đi Mác xây (Pháp).

Với khát vọng cháy bỏng giành độc lập, tự do cho dân, cho nước, Người đã bôn ba khắp năm châu bốn biển, vừa lao động, học tập, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, Người hiểu rõ cội nguồn những khổ đau của Nhân dân lao động là ở sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản đế quốc và hình thành nên ý thức giai cấp rõ rệt.

Tháng 7/1920, Hồ Chí Minh tiếp cận, nghiên cứu “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin. Đây là sự kiện đánh dấu sự chuyển hướng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Người đã tìm thấy ở đó những vấn đề cơ bản của đường lối giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội Đảng Xã hội Pháp. Tại đây, Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam.

Với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam do Người sáng lập vào năm 1930, cùng Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, đường lối cách mạng Việt Nam đã cơ bản được hình thành, con đường cứu nước đúng đắn của Việt Nam đã cơ bản được xác định. Điều này không chỉ khai thông bế tắc trong đường lối giải phóng dân tộc mà còn giải quyết đúng đắn, sáng tạo và lãnh đạo thực hiện thắng lợi các vấn đề trọng yếu của cách mạng Việt Nam.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ Hồ Chí Minh, Nhân dân Việt Nam đã gắn kết thành một khối, phát huy cao độ sức mạnh toàn dân tộc, làm nên thắng lợi Cách mạng tháng Tám năm 1945, lật đổ chế độ thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Trong bản Tuyên ngôn độc lập đọc ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân, đồng bào và toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”.

Ngay sau khi giành độc lập, chính quyền cách mạng non trẻ của ta đứng trước tình thế vô cùng khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng toàn Đảng đã sáng suốt đề ra đường lối đúng đắn, chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua thác ghềnh, bảo vệ Đảng và giữ vững chính quyền cách mạng. Trên cơ sở đường lối kháng chiến “toàn dân”, “toàn diện”, “trường kỳ”, “dựa vào sức mình là chính”, phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước của toàn dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo Nhân dân lần lượt đánh bại mọi âm mưu, kế hoạch xâm lược của kẻ thù, đặc biệt là thắng lợi trong Chiến cuộc Đông Xuân 1953 - 1954 với đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ (năm 1954), chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, “không có gì quý hơn độc lập, tự do”; thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người; trên cơ sở đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng, với sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thu giang sơn về một mối, hoàn thành sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ miền Bắc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Đi theo con đường cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra; trong bất cứ hoàn cảnh nào, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, vận dụng phát triển, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng nâng cao uy tín, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch của đất nước sau gần 35 năm đổi mới và hội nhập quốc tế là minh chứng sinh động khẳng định đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng; khẳng định sự đúng đắn về đường lối cách mạng Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra và chính trong quá trình vận động của cách mạng, tư tưởng, đường lối đó ngày càng được bổ sung, phát triển và hoàn thiện, trở thành ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ thiên tài của Đảng và Nhân dân ta, Người là tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng, hết lòng, hết sức cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.

Những năm qua, việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn có sức lan tỏa sâu rộng, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của cấp ủy, chính quyền các cấp, các ngành và các tầng lớp Nhân dân. Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) gắn với Chỉ thị 05-CT/TW trên địa bàn tỉnh đã trở thành nội dung thường xuyên trong sinh hoạt đảng, sinh hoạt cơ quan và trở thành một tiêu chí quan trọng để đánh giá phân loại tổ chức cơ sở đảng và đảng viên hằng năm. Qua đó, nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị đạo đức, lối sống; kịp thời sửa chữa, khắc phục những khuyết điểm, yếu kém; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Trong quá trình thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW đã xuất hiện nhiều gương “người tốt - việc tốt”, mô hình mới, cách làm sáng tạo đem lại hiệu quả thiết thực, góp phần tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh tại địa phương./.

Đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

 

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Việt Nam kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Quá trình đổi mới tư duy, bổ sung, hoàn thiện cả về lý luận cũng như thực tiễn về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta được xác định ngày càng rõ hơn. Lợi dụng vấn đề này, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị ra sức tung ra nhiều quan điểm, luận điệu sai trái nhằm kích động, phủ nhận vai trò, tính chất pháp quyền của nhà nước Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là sự vận dụng sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của đất nước; đồng thời được thực hiện xuyên suốt trong tiến trình kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhà nước tuân thủ nguyên tắc chủ quyền nhà nước thuộc về nhân dân, thực hiện phân quyền, pháp quyền, dân chủ, tôn trọng quyền con người và quyền công dân…

Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam thì quyền và nghĩa vụ của công dân không chỉ được pháp luật thừa nhận, tôn trọng, mà còn được bảo đảm thực hiện, thúc đẩy trong khuôn khổ pháp luật; quyền con người, quyền công dân, sự bình đẳng của mọi cá nhân không chỉ được khẳng định mà còn được bảo vệ, tôn trọng trong việc thụ hưởng và phát triển, không có sự phân biệt đối xử. Những nguyên tắc này không chỉ được khẳng định trong các bản Hiến pháp, mà còn được bổ sung, điều chỉnh và ngày càng hoàn thiện, đảm bảo để mọi người dân đều được tôn trọng, thụ hưởng, bảo vệ ngày càng đầy đủ hơn.

Tuy nhiên, với mưu đồ chống phá, nhiều đối tượng xấu đã xuyên tạc, công kích, đưa ra các quan điểm, luận điệu làm sai lệch bản chất vấn đề nhằm kích động nhân dân. Chúng cho rằng đã là Nhà nước pháp quyền thì không thể đi đôi với xã hội chủ nghĩa, đưa ra “kiến nghị” đòi bỏ nội dung xã hội chủ nghĩa trong đề án xây dựng Nhà nước pháp quyền. Thậm chí, chúng còn vu cáo rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam hiện “đứng trên pháp luật” nên không thể có Nhà nước pháp quyền; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam chỉ có “đảng trị” chứ không có tính pháp quyền “pháp trị”, xã hội không có tự do, dân chủ, nhân quyền… Đây là những luận điệu vô căn cứ, phi lý, đi ngược cả về lý luận và thực tiễn về Nhà nước pháp quyền nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng, thể hiện rõ ý đồ chống phá chế độ, chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa giữ một vị trí đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Người nhấn mạnh: “Nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”; “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là chủ”. Toàn bộ quyền lực Nhà nước là từ Nhân dân, do Nhân dân, phụng sự lợi ích của Nhân dân. Người quan niệm, pháp luật không phải là để trừng trị con người, mà là công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người. Tư tưởng pháp quyền đó thấm đượm bản chất nhân văn, chăm lo ấm no, hạnh phúc của Nhân dân, lòng nhân ái, nghĩa đồng bào, truyền thống đạo lý quý báu của dân tộc. Đó thật sự là giá trị dân chủ sâu sắc và triệt để của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng ta xác định: Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững. Nhà nước pháp quyền đấu tranh, bảo vệ các quyền tự do, dân chủ và lợi ích hợp pháp của nhân dân, giải quyết hài hòa, kịp thời những yêu cầu, kiến nghị hợp pháp, chính đáng của nhân dân theo đúng quy định của pháp luật. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố cơ bản, quyết định tính định hướng chính trị của Nhà nước.

Trên thực tế, Nhà nước pháp quyền là Nhà nước hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của Nhân dân, không phụ thuộc vào ý chí, quan điểm chủ quan của cá nhân, một nhóm hoặc tổ chức nào. Pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân. Vì thế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nguyện vọng và sự lựa chọn của nhân dân, phù hợp với xu hướng phát triển nhà nước trên thế giới, đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cân nhắc, vận dụng và triển khai phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Xây dựng và bảo vệ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, của toàn hệ thống chính trị, trong đó Quân đội nhân dân là một trong những lực lượng nòng cốt. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là yếu tố cơ bản đảm bảo cho việc giữ vững và thực thi có hiệu quả quyền lực chính trị, là yếu tố cơ bản đảm bảo cho Nhân dân có thực quyền tham gia vào quản lý, kiểm soát bộ máy Nhà nước, đồng thời, bảo vệ quyền và lợi ích hợp phát của Nhân dân, phát huy sức mạnh của Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta là minh chứng sinh động, thể hiện ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, vì mục tiêu ấm no, tự do, hạnh phúc của Nhân dân, thực tế này chính là sự đáp trả mạnh mẽ, đập tan những luận điệu xuyên tạc về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

 

Một số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác chuẩn bị đại hội đảng các cấp

 

Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025–2030, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, là sự kiện chính trị có ý nghĩa hết sức quan trọng, đánh dấu giai đoạn phát triển mới của đất nước, của tỉnh. Đây không chỉ là dịp để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhìn lại chặng đường đã qua, đánh giá kết quả đạt được và những tồn tại hạn chế, mà còn là thời điểm đặt nền móng cho các chủ trương chiến lược, định hướng phát triển đất nước và địa phương trong thời kỳ mới. Vì vậy, công tác chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng các cấp cần được thực hiện với tinh thần trách nhiệm cao nhất, cấp ủy các cấp cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo khoa học, bài bản và nghiêm túc.

Ngay từ những ngày đầu năm mới 2025, toàn hệ thống chính trị đã phải gấp rút triển khai thực hiện các đề án sắp xếp tổ chức bộ máy theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”. Song bên cạnh đó, một nhiệm vụ không kém phần quan trọng là chuẩn bị cho đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Có thể nói, công tác chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng các cấp trong bối cảnh này đóng vai trò vô cùng quan trọng, không chỉ quyết định thành công của kỳ đại hội mà còn góp phần quyết định cho sự thành công của cả nhiệm kỳ.

Vì vậy, để công tác chuẩn bị đại hội đảng các cấp được bảo đảm một cách đầy đủ, chu đáo, các cấp ủy đảng nêu cao vai trò lãnh đạo, chỉ đạo và phát huy tối đa tinh thần trách nhiệm trong từng nhiệm vụ, trọng tâm là:

Thứ nhất, tập trung quán triệt sâu sắc các chỉ thị, hướng dẫn của Trung ương, của Tỉnh ủy liên quan đến công tác tổ chức đại hội đảng các cấp như: Chỉ thị 35-CT/TW, ngày 14/6/2024 của Bộ Chính trị về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng; Hướng dẫn số 08-HD/TU, ngày 30/9/2024 của Tỉnh ủy về một số nội dung Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 14/6/2024 của Bộ Chính trị và Kế hoạch số 320-KH/TU, ngày 10/7/2024 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Những nội dung cốt lõi và những điểm mới trong các văn bản trên cần được phổ biến đến từng tổ chức đảng cấp dưới và đến từng cán bộ, đảng viên để tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng bộ đối với kỳ Đại hội.

Thứ hai, chú trọng lãnh đạo công tác tuyên truyền trên cả hai mặt: nội dung và hình thức. Về nội dung, công tác tuyên truyền cần bám sát Hướng dẫn số 176-KH/BTGTW, ngày 10/12/2024 của Ban Tuyên giáo Trung ương và Kế hoạch số 363-KH/TU, ngày 30/12/2024 của Tỉnh ủy về tuyên truyền đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng; trước đó, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đã cụ thể hóa một số nội dung quan trọng tại Hướng dẫn số 173-HD/BTGTU, ngày 24/10/2024 về những chủ đề lớn, trọng tâm từ nay đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Về hình thức, việc tổ chức các hoạt động tuyên truyền cần được tiến hành bằng nhiều hình thức thiết thực, hiệu quả, sinh động, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm đúng quy định và phù hợp với tình hình thực tế, bám sát chỉ đạo, định hướng chính trị, tư tưởng của các cấp ủy đảng; gắn với tuyên truyền triển khai thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, của tỉnh và các phong trào thi đua yêu nước, nêu bật những thành tựu, định hướng phát triển và giải pháp vượt qua khó khăn… qua đó làm cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân nhận thức sâu sắc mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của đại hội đảng bộ các cấp; khơi dậy tâm thế tích cực, phấn khởi, đồng thuận trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân.

Thứ ba, tập trung triển khai các nội dung hướng dẫn liên quan đến thảo luận và góp ý vào dự thảo các văn kiện Đại hội Đảng theo tinh thần Kế hoạch số 39-KH/TU, ngày 18/12/2024 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về thảo luận, góp ý vào dự thảo các văn kiện Đại hội XIV của Đảng và dự thảo văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV. Quá trình tổ chức thảo luận, các cấp ủy chú trọng phát huy trí tuệ tập thể, lắng nghe những ý kiến đóng góp tâm huyết của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân; đồng thời hết sức cầu thị, lắng nghe, tôn trọng ý kiến lẫn nhau, tạo sự đoàn kết, thống nhất cao, nhất là đối với những vấn đề mới, vấn đề khó, để từ đó có sự chắt lọc, tổng hợp những nội dung góp ý vào các văn kiện, góp phần để các chủ trương, định hướng chiến lược phát triển của Đảng bộ tỉnh và Trung ương được xây dựng trên cơ sở khoa học và thực tiễn, đáp ứng yêu cầu phát triển của địa phương, đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Thứ tư, về công tác nhân sự, cần xác định đây là yếu tố then chốt, có ý nghĩa quyết định sự thành công của đại hội và việc tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng sau đại hội. Do đó, các cấp ủy đảng cần bám sát nội dung quy định trong Chỉ thị số 35-CT/TW, đồng thời lưu ý tiêu chuẩn cấp ủy viên nhiệm kỳ 2025 – 2030 còn phải bảo đảm tiêu chuẩn nêu tại Chỉ thị 35 của Bộ Chính trị khóa XII, Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII; tiêu chuẩn cán bộ nêu tại Quy định số 89-QĐ/TW ngày 4/8/2017 và Quy định số 214-QĐ/TW ngày 2/1/2020 của Bộ Chính trị và các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Song song với đó, cần chú ý nắm bắt tình hình tư tưởng trong nội bộ, xử lý kịp thời các đơn thư khiếu nại, tố cáo để giữ vững đoàn kết trong Đảng. Đây không chỉ là yêu cầu về mặt tổ chức mà còn là yếu tố quan trọng để xây dựng niềm tin trong toàn Đảng bộ.

Thứ năm, công tác kiểm tra, giám sát cũng cần được tăng cường với tinh thần chủ động và nghiêm minh. Căn cứ các nội dung của Hướng dẫn số 08-HD/UBKTTW, ngày 18/11/2024 của Ủy ban Kiểm tra Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, các cấp ủy lãnh đạo việc thực hiện kiểm tra, giám sát mọi khâu trong quá trình chuẩn bị và tổ chức đại hội, nhằm phát hiện sớm và khắc phục kịp thời những sai sót. Điều này không chỉ đảm bảo các kỳ đại hội diễn ra đúng quy định, mà còn thể hiện trách nhiệm của các cấp ủy trong việc giữ vững kỷ luật và sự thống nhất của Đảng.

Ngoài những nội dung trên, trong quá trình chuẩn bị cho đại hội, cấp ủy cũng cần quan tâm đến việc lập dự toán chi và trang trí, khánh tiết cho đại hội, bảo đảm để các nội dung này được thực hiện một cách tiết kiệm, hiệu quả, đúng quy định, nhưng vẫn đảm bảo tính trang trọng và đúng quy định của Điều lệ Đảng.

Thời gian tiến hành đại hội các cấp đang đến gần. Theo Chỉ thị số 35-CT/TW, đại hội cấp cơ sở sẽ bắt đầu từ tháng 4/2025 và hoàn thành trước 30/6/2025; đại hội cấp huyện hoàn thành trước 31/8/2025 và đại hội cấp trực thuộc Trung ương trước 31/10/2025. Trước thời điểm đó, các cấp ủy đảng cần nỗ lực cao nhất để hoàn thành công tác chuẩn bị. Việc thực hiện tốt các nhiệm vụ này sẽ không chỉ củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng mà còn tạo nền tảng vững chắc để Đảng tiếp tục lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thách thức, vững bước trên con đường đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững trong thời gian tới./.