Thứ nhất,
cần thay đổi nhận thức về việc học tập lý luận nhằm nâng cao trình độ tư duy lý
luận, chống giáo điều về lý luận, tăng tính thực tiễn trong học tập lý
luận.
Tăng tính
thực tiễn là gắn các tri thức lý luận với thực tiễn công tác, thực tiễn đất
nước, làm cho thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm tăng hiệu quả hoạt động
thực tiễn công tác của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê phán việc học tập lý
luận mà không gắn với thực tiễn của cán bộ, đảng viên, là coi việc học tập lý
luận chỉ để gắn cái “mác”, để có cái “bằng”, học tập để nói cho “có vẻ” lý
luận; học lý luận để biết “dăm câu ba chữ” dùng làm “trang sức” hoặc để lòe
người khác, chứ không để nâng cao trình độ lý luận, nâng cao trình độ tư duy
lên tầm lý luận; giải thích và chỉ đạo, hướng dẫn thực tiễn bằng lý luận. Chủ
tịch Hồ Chí Minh yêu cầu chống và phê phán kiểu học thuộc lòng chủ nghĩa Mác -
Lênin, đó chính là cách “học sách vở Mác - Lênin nhưng không học tinh thần Mác
- Lênin”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, học tập chủ nghĩa Mác-Lênin là “phải học
tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin, học tập lập trường, quan điểm và phương pháp
của chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà
giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”.
Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần phải tăng tính thực tiễn trong học tập
lý luận, nghĩa là học lý luận để phục vụ thực tiễn làm việc, từ đó khắc phục
được bệnh giáo điều lý luận. Người chỉ ra: “Học tập chủ nghĩa Mác-Lênin là học
tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình,
là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-Lênin để áp dụng một cách
sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm”. Học tập chủ nghĩa
Mác-Lênin trước hết để biết, để làm người, rồi mới làm cán bộ và phụng sự Tổ
quốc, nhân dân, giai cấp. Người cán bộ, đảng viên phải có thái độ đúng đắn mới
có thể khắc phục được bệnh giáo điều trong nghiên cứu, học tập lý luận. Như vậy,
thay đổi nhận thức về việc học tập lý luận là quán triệt quan điểm thực tiễn để
chống bệnh giáo điều trong học tập lý luận.
Thứ hai, cần
vận dụng lý luận một cách sáng tạo và hiệu quả vào thực tiễn để nâng cao hiệu
quả công tác.
Học tập lý
luận cốt là vận dụng vào thực tiễn, phục vụ cải tạo thực tiễn, nếu không sẽ trở
nên giáo điều về lý luận. Vận dụng ở đây không đơn giản là dùng những kiến thức
lý luận đã học để áp dụng vào thực tế mà để phân tích, mổ xẻ thực tiễn. Phải
đem những điều học được để phân tích và giải quyết các vấn đề thực tế trong
công tác của bản thân mình và của Đảng, như vậy thì việc nghiên cứu, học tập,
vận dụng lý luận mới có hiệu quả. Khi đem những kiến thức lý luận áp dụng vào
thực tiễn phải phân tích những điều kiện cụ thể của thực tiễn để lựa chọn lý
luận nào và kinh nghiệm thực tiễn nào vào cải tạo thực tiễn.
Người căn
dặn cán bộ, đảng viên: khi nghiên cứu, học tập và vận dụng kinh nghiệm của các
nước vào thực tiễn cách mạng nước ta phải căn cứ vào thực tiễn đất nước để tìm
ra hướng đi riêng cho mình; biết lựa chọn kinh nghiệm nào cho phù hợp, nếu
không sẽ phạm phải giáo điều khi vận dụng kinh nghiệm: “Không chú trọng đến đặc
điểm của dân tộc mình trong khi học tập kinh nghiệm của các nước anh em, là sai
lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều”. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh
yêu cầu ngoài việc nâng cao nhận thức trong học tập lý luận, cán bộ, đảng viên
phải luôn luôn nhấn mạnh nguyên tắc lý luận liên hệ với thực tế và tính lịch sử
cụ thể khi vận dụng kinh nghiệm của các nước vào nước mình.
Thứ ba,
thường xuyên tổng kết kinh nghiệm để bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận,
làm giàu tri thức.
Chủ tịch Hồ
Chí Minh thường xuyên nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải biết tổng kết kinh nghiệm
thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả công tác “… công việc gì bất kỳ thành công
hoặc thất bại, chúng ta cần phải nghiên cứu đến cội rễ, phân tách thật rõ ràng
rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái thìa khoá phát triển công việc và để giúp
cho cán bộ tiến tới”. Người nhấn mạnh: “… cần phải nghiên cứu kinh nghiệm cũ để
giúp cho thực hành mới, lại đem thực hành mới để phát triển kinh nghiệm cũ, làm
cho nó đầy đủ dồi dào thêm”. Đó chính là quá trình tổng kết kinh nghiệm thực
tiễn, đúc rút kinh nghiệm để bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận. Làm được
như vậy có nghĩa là làm cho lý luận được “bổ sung bằng những kết luận mới rút
ra từ trong thực tiễn sinh động”. Đồng thời, thực tiễn mới sẽ được chỉ đạo, soi
đường, dẫn dắt bởi lý luận mới. Đây là biểu hiện sinh động của việc quán triệt
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, “tổng
kết để làm cho nhận thức của chúng ta đối với các vấn đề đó được nâng cao hơn
và công tác có kết quả hơn”.
Phong cách
thực tiễn là một trong những nét nổi bật trong hệ thống phong cách của Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Phong cách thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dựa trên thực
tiễn và xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn Việt Nam để tiếp thu chọn lọc những
gì hợp lý, đúng đắn và định hướng cho quá trình tìm ra hệ thống lý luận cũng
như phương pháp cách mạng để giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam. Đó
là một phong cách hành động khoa học, lấy thực tiễn là cơ sở, điểm xuất phát
của quá trình nhận thức chân lý. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, trong đó nghiên cứu và học tập phong cách thực tiễn của Người là rất cần
thiết đối với mỗi người, bởi đó là phương thức góp phần loại bỏ căn bệnh giáo
điều trong cán bộ, đảng viên hiện nay./.
T1.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét