Từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951, tại căn cứ địa Việt Bắc (huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang), Đại hội lần thứ II của Đảng được tổ chức. Thành công của Đại hội không chỉ đưa Đảng ra hoạt động công khai với tên gọi Đảng Lao động Việt Nam, mà tầm vóc, ý nghĩa của Đại hội là ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam tiến lên giành những thắng lợi mới, trực tiếp là đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và để lại nhiều giá trị lý luận, thực tiễn đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước hiện nay.
Đưa Đảng ra hoạt động công khai
Từ Đại hội lần thứ Nhất (3-1935, tại Ma Cao, Trung Quốc), đến năm 1951, Đảng Cộng sản Đông Dương đã trải qua 16 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Lào và Campuchia giành được nhiều thắng lợi quan trọng. Song, sự nghiệp cách mạng của ba nước phát triển không đều và có những đặc điểm riêng, đòi hỏi phải có đường lối chính trị và tổ chức lãnh đạo thích hợp đối với mỗi nước, để phát huy động lực dân tộc của từng quốc gia, đưa cách mạng vững bước tiến lên giành thắng lợi.
Nhằm giải quyết những yêu cầu mới của cách mạng ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia, Đảng Cộng sản Đông Dương tổ chức Đại hội lần thứ II, từ ngày 11 đến 19-2-1951, tại xã Vinh Quang (nay là Kim Bình), huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Tham dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết, đại diện cho hơn 76 vạn đảng viên thuộc các Đảng bộ Việt Nam, Lào và Campuchia. Khách quốc tế có đại biểu Đảng Cộng sản Trung Quốc và đại biểu Đảng Cộng sản Xiêm (Thái Lan). Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 19 ủy viên chính thức và 10 ủy viên dự khuyết.
Báo cáo Chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày, tổng kết những kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng và xác định phương hướng, nhiệm vụ mới của cách mạng Việt Nam là: “1. Đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. 2. Tổ chức Đảng Lao động Việt Nam”. “Nhiệm vụ thứ nhất, nhiệm vụ cấp bách nhất của Đảng ta ngày nay là phải đưa kháng chiến đến thắng lợi. Các nhiệm vụ khác đều phải phụ thuộc vào đó”.
Đại hội lần thứ II của Đảng có ý nghĩa lịch sử quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đảng Lao động Việt Nam ra hoạt động công khai với cương lĩnh và đường lối, chính sách phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Thành công của Đại hội đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc và toàn diện, nhất là về tư tưởng, đường lối cách mạng của Việt Nam, mặt khác, cũng đánh dấu sự trưởng thành của các lực lượng cách mạng ở Lào và Campuchia.
Tầm vóc, ý nghĩa Đại hội II trong tiến trình cách mạng Việt Nam
Thực tiễn cho thấy, những quyết sách của Đại hội II và những nội dung của Chính cương Đảng Lao động Việt Nam là ngọn đuốc soi đường cho dân tộc ta tiến lên giành những thắng lợi to lớn. Đặc biệt, những nội dung Đại hội xác định như: “… phải tập trung mọi lực lượng để kháng chiến, đặng hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc”. “Tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại can thiệp Mỹ” (…), “Đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn” đã trở thành kim chỉ nam cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Từ năm 1951 đến năm 1954, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã đẩy mạnh kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giành thắng lợi từng bước tiên lên giành thắng lợi hoàn toàn với Chiến dịch Điện Biên Phủ (7-5-1954). Tiếp đó, nhân dân Việt Nam bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ kéo dài 21 năm chống đế quốc Mỹ xâm lược (1954 - 1975) và giành thắng lợi trọn vẹn với đỉnh cao là thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (30-4-1975).
Bước ra khỏi cuộc chiến tranh sau 21 năm, dân tộc Việt Nam phải gánh chịu những hậu quả hết sức nặng nề trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Chỉ tính riêng về người và tài sản, bom đạn Mỹ đã giết hại hơn 3 triệu người, làm 30 vạn người mất tích và hơn 2 triệu người bị thương tật. Ngoài ra, còn có hàng triệu người bị nhiễm chất độc màu da cam với những di chứng hết sức nặng nề. Theo thống kê, trong những năm đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, chúng đã phá hủy hầu hết các cơ sở kinh tế và quốc phòng: 100% nhà máy điện, 1.500/1.600 công trình thủy lợi, 6 tuyến xe lửa, 66/70 nông trường quốc doanh, 6 thành phố lớn và hàng trăm thị xã, 1.500 bệnh viện, bệnh xá, 1.300 trường học cùng hàng nghìn chùa chiền, nhà thờ bị phá hoại nghiêm trọng. Bom đạn Mỹ cũng đã phá hủy hàng vạn ngôi nhà, cày xới hàng triệu héc-ta hoa màu,v.v… khiến cả miền Bắc trở thành đống đổ nát.
Trong khi đó tại miền Nam, sau ngày đất nước thống nhất, tàn tích chiến tranh để lại hết sức nặng nề: Hơn 50 vạn héc-ta đất bị bỏ hoang, hàng triệu héc-ta rừng bị hủy diệt, nhiều thị trấn, làng mạc bị san phẳng, hàng nghìn gia đình bị ly tán, hàng chục vạn lưu manh, gái điếm, thương, phế binh và trẻ em mồ côi,v.v… đã trở thành vấn nạn xã hội gây nhức nhối trên toàn miền Nam. Đặc biệt, những năm này, nhân dân Việt Nam còn phải đương đầu với cuộc chiến tranh xâm lược ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc.
Nhưng, với bản lĩnh của một Đảng cầm quyền, kế thừa kinh nghiệm lãnh đạo qua các kỳ đại hội, đặc biệt là từ Đại hội lần thứ II của Đảng, Đảng Lao động Việt Nam, sau đó là Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân từng bước khắc phục hậu quả chiến tranh, phát triển kinh tế, xã hội, đánh thắng hai cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù ở hai đầu biên giới, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; đồng thời, từng bước khảo nghiệm, tìm tòi con đường phát triển cho cách mạng Việt Nam.
Như vậy, những quyết sách của Đại hội lần thứ II của Đảng có ý nghĩa trực tiếp đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới.
Tuy nhiên, ý nghĩa của Đại hội lần thứ II của Đảng còn thể hiện rõ nét trong công tác xây dựng Đảng. Đại hội lần thứ II của Đảng chỉ rõ: “Muốn xây dựng, củng cố và phát triển Đảng…, phải phát triển phê bình và tự phê bình”. Đây là vấn đề có giá trị lý luận thực tiễn sâu sắc, vì trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam kể từ Đại hội II tới nay, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, vấn đề tự phê bình và phê bình luôn được đặt ra trong các Nghị quyết của Đảng. Cùng với phê bình và tự phê bình, để xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh, Đại hội II nhấn mạnh phải “Đề cao công tác lý luận trong Đảng”.
Trong khi “Đề cao công tác lý luận của Đảng”, Đại hội II chỉ rõ phải “… tổng kết kinh nghiệm để luôn luôn bồi bổ cho chính sách của Đảng và định ra những chính sách cụ thể của Đảng, đúc những kinh nghiệm lớn thành lý luận vận động cách mạng của Đảng ta”. Đây là nội dung mang ý nghĩa thời đại sâu sắc, vì mọi đường lối của Đảng luôn xuất phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo kiểm nghiệm lý luận, nhờ đó mà đủ sức soi đường, chỉ lối, đưa sự nghiệp cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Ngoài những nội dung trên, Đại hội II chỉ rõ phải “Xúc tiến công tác tổ chức của Đảng, chú trọng cải tiến tổ chức đảng… Đưa khả năng tổ chức lên ngang nhu cầu chính trị, làm cho công tác tổ chức bảo đảm được việc thi thành chính sách của Đảng”. Đó chính là xây dựng Đảng về tổ chức, một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng, được tiến hành thường xuyên, liên tục trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Nhờ vậy, trải qua các thời kỳ lịch sử từ năm 1951 đến nay với những đặc điểm khác nhau, tổ chức của Đảng ngày càng lớn mạnh và công tác tổ chức cũng để lại nhiều kinh nghiệm quý báu mà ngày nay chúng ta cần phát huy.
Một nội dung quan trọng được Đại hội II chỉ ra là phải “Ra sức đào tạo cán bộ”. Đây là sự hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ. Sinh thời, Người nhấn mạnh: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém” và “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Từ Đại hội II đến nay, nhất là trong những nhiệm kỳ gần đây, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng.
Thời gian lùi xa, nhưng tầm vóc, ý nghĩa của Đại hội lần thứ II vẫn mãi là dấu mốc đặc biệt quan trọng trong chặng đường 95 xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Đảng Cộng sản Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Góp phần vào những thành tựu to lớn đó, những quyết sách của Đại hội II có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc./.
ST.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét