Đồng chí Lê Duẩn là nhân vật lịch sử lớn của cách mạng Việt Nam. Điều đó đã được lịch sử xác nhận. Đặc biệt đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược, vai trò của Đồng chí Lê Duẩn là đặc biệt lớn lao và xuất sắc!
Đây là một con người rất đặc sắc và thú vị. Nếu các nhà văn, các nhà điện ảnh đổ công khai thác, chắc chắn sẽ thu được nhiều thành quả cũng rất đặc sắc và rất thú vị.
Không ai dám nói mình hiểu hết về Đồng chí Lê Duẩn, bởi cuộc đời của ông quá phong phú, quá dữ dội và nhiều sóng gió, nên muốn thực sự hiểu ông, không là chuyện đơn giản, dễ dàng. Nhưng mỗi người một góc nhìn, một cách cảm nhận, chúng ta có thể mạnh dạn nói lên lòng mình, suy nghĩ của mình đối với nhân vật kiệt xuất này, hầu tìm hiểu thấu đáo một con người sáng chói, qua đó rút ra được những bài học bổ ích cho nhân dân, cho đất nước lâu dài.
Khi Đồng chí Lê Duẩn – mà nhân dân Nam bộ quen gọi thân tình là Anh Ba Lê Duẩn – lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam bộ thì tôi mới là một đứa trẻ còn ngồi ghế nhà trường. Nhưng từ đó, tôi đã bắt đầu in vào lòng mình ấn tượng về Anh Ba Lê Duẩn. Nhân lần đến thăm trường chúng tôi, Anh Ba bất ngờ đưa ra một câu hỏi rất độc đáo, khiến ai cũng “ngẩn tò te”. Anh Ba hỏi:
- Ở đây, em nào đủ 18 tuổi?
Nhiều cánh tay giơ lên.
- Các em có quyền ký hiệp ước với các nước hay không?
Tất cả đều im lặng, không biết nói sao.
Anh Ba vui vẻ trả lời giúp:
- Có chứ! Có quyền ký, thông qua các đại biểu Quốc hội mà mình bầu ra!
Chúng tôi đều “nổ lỗ tai”. Từ nào giờ, tôi chưa từng nghe ai nói về quyền dân chủ giản đơn và dễ hiểu như vậy.
Sau khi ra trường, tôi được đưa về nhận công tác tại Văn phòng Chánh ủy khu 9. Đây là cơ quan đầu não của quân đội, cấp quân khu. Ở đây có nhiều sách báo, nhiều tư liệu mật mà chúng tôi được phép tiếp xúc. Qua đó, tôi càng có điều kiện để tích lũy dần những ấn tượng tốt đẹp về Anh Ba. Hồi ấy, Anh Ba làm Chính ủy Bộ Tư lịnh Nam bộ (Tư lịnh là trung tướng Nguyễn Bình).
Từ lâu, tôi nghe đồn nhiều về cái danh hiệu lạ lẫm “200 bu-gi” (ám chỉ một ngọn đèn cực sáng) để tôn kính một con người xuất chúng. Tôi đã bức xúc, muốn biết con người ấy là ai? Đến đây thì tôi được biết đích xác: đó là Anh Ba Lê Duẩn. Anh là một con người sống rất giản dị, chân tình và rất thương người. Anh có đặc điểm nói nhanh và hơi lắp, lại là tiếng Quảng Trị nên nghe hơi khó. Anh là một người rất giàu tình cảm. Chẳng hạn như, Anh từng nói: “Một người cách mạng mà nhìn đứa trẻ mặc áo rách không thấy nhột da mình thì người ấy đã thiếu mất nhiệt tình cách mạng rồi”. Sống trong nhà một cơ sở cách mạng giữa lòng địch có một cháu bé hay khóc. Người nhà sợ lắm. Mỗi lần cháu bé khóc thì người lớn thường bụm miệng nó, khiến nó vùng vẫy phản ứng mạnh. Anh Ba bảo mọi người: “Cứ để cho nó khóc! Nhà có trẻ con mà không nghe tiếng khóc mới lạ, càng dễ lộ bí mật”. Và Anh Ba bế cháu lên, dỗ dành nó.
Người ta kể cho nhau nghe vô số những điều gần gũi, thậm chí vụn vặt, nhưng rất con người của Anh, khiến cho ai cũng mến phục. Anh ăn rất ít, mỗi bữa chỉ một chén cơm, nhưng cần có một củ khoai hấp, nhỏ thôi, để Anh đỡ nhớ mẹ già, vì nhà Anh nghèo lắm.
Có lần, các cán bộ lãnh đạo ở Nam bộ bàn nhau, bây giờ giá mà đưa Anh Ba ra làm chủ tịch Nam bộ thì hay quá. Chuyện đó tới tai Anh Ba và bị Anh Ba “rầy”. Anh nói: “Nam bộ có nhiều trí thức nổi tiếng, tài năng. Tự nhiên chọn một anh nói tiếng “trọ trẹ” làm chủ tịch, coi sao được! Tầm bậy!”. Một cách nói rất trực tính, rất chân thành, ai nghe không quen có thể hơi khó chịu, nhưng nó lại rất hợp lỗ tai người dân Nam bộ, những người vốn chuộng sự thẳng thắn, bộc trực, “ruột để ngoài da” như vậy.
Anh rất thương các chiến sĩ cận vệ, cần vụ của mình và rất dễ tha thứ. Một lần đi ban đêm bằng xuồng. Anh em có một thói quen tốt là luộc một nồi khoai để sáng ra có cái mà lót dạ. Anh Ba cũng ăn như anh em. Hôm ấy gặp gió ngược, khói bếp luộc khoai cứ bay vào mắt người chèo xuồng. Anh này bực quá, đá nồi khoai bay xuống sông. Tới sáng, chẳng có gì ăn, Anh Ba vẫn thản nhiên xách cặp đi họp, không phàn nàn một câu.
Một lần khác, cũng đi ban đêm. Tới quá khuya, anh em mệt quá, ngủ thiếp đi một lúc. Khi tỉnh dậy, hốt hoảng không biết đi hướng nào, nhè chèo ngược lại hướng đi, tới gần sáng mới hay mình đã đi ngược; anh em lật đật quay xuồng lại, hộc tốc chèo. Đến nơi thì đã muộn giờ họp. Anh Ba chỉ nhắc một câu: “Lần sau, nhớ cẩn thận hơn!”.
Cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, Trung ương điều Anh Ba ra Việt Bắc làm việc một thời gian theo lệnh Bác. Anh được cấp một con ngựa để làm chân cho đỡ vất vả. Một hôm, người cần vụ trèo hái lá tre cho ngựa ăn bị té xuống đất bất tỉnh. Anh dứt khoát trả con ngựa lại cho cơ quan. Anh bảo: “Chịu khó đi bộ cũng được!”.
Sau Hiệp định Genève về Việt Nam, người ta càng thấy tầm vóc lãnh đạo sáng chói của Anh Ba, tầm nhìn chiến lược hiếm có của một nhà lãnh đạo hàng đầu của Đảng. Theo Hiệp định đề ra thì 2 năm sau khi ký kết, nước Việt Nam sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do để thành lập chính phủ theo ý nguyện của toàn dân. Hầu hết mọi người, ai cũng tin như thế. Anh Ba thì không, vì quá dạn dày kinh nghiệm đấu tranh với bọn thực dân, đế quốc nên Anh khẳng định phải 20 năm nữa (chứ không phải 2 năm), Nam Bắc mới sum họp một nhà. Ngày chia tay tập kết, tiễn các bạn ra Bắc, còn Anh ở lại lãnh đạo miền Nam theo yêu cầu của Trung ương, Anh đã nói với một đồng chí lãnh đạo cao cấp đi ra Bắc: “Hai mươi năm nữa, chúng ta mới gặp nhau!”.
Thực tiễn cho thấy nhận định của Anh Ba là chính xác. Kẻ thù càng ngày càng bộc lộ bản chất cướp nước của chúng, cùng với một lũ tay sai sẵn sàng bán nước bán dân cho giặc.
Năm 1957, Anh Ba lại được Bác gọi ra Bắc để nhận nhiệm vụ mới. Anh mang theo bản “Đề cương cách mạng miền Nam” mà Anh đã ấp ủ từ khi kẻ thù rắp tâm xé bỏ Hiệp định Genève. Lập trường của Anh trước sau như một là “phải đấu tranh vũ trang cách mạng” ở miền Nam thì mới giành được thắng lợi. Đó là một tư tưởng lớn, sáng tạo và rất cách mạng. Nhưng để biến nó thành quyết tâm chung, còn phải tốn nhiều công phu. Cho đến khi cả nước nhất trí đồng tình thì sức mạnh của cả nước trở thành một dòng thác lớn, cuốn phăng mọi kẻ thù, dù cho chúng có gian manh, xảo quyệt đến mấy.
Sau cuộc Đồng khởi lịch sử của nhân dân miền Nam, cả nước cầm súng ra chiến trường. Miền Nam trở thành tiền tuyến lớn, được sự chi viện, hỗ trợ hết lòng của hậu phương lớn miền Bắc – với Trung ương, Bác và Anh Ba túc trực ở đó.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta gian khổ cực kỳ. Một cuộc đọ sức quá chênh lệch về vũ khí và tiền bạc.
Cả nhân loại nhìn về chúng ta, với yêu thương và lo lắng ngập tràn. Người thì nể phục, cổ vũ, kẻ thì kiềm chế, thờ ơ. Nhưng việc của ta thì ta phải làm cái đã, há đợi chờ ai!
Trong những lúc hiểm nghèo như thế, ta xúc động đón nhận những lời khích lệ như tiên đoán của Bác Hồ:
“Nực cười, châu chấu đá xe
Tưởng rằng chấu ngã, ai dè xe lăn”
Hay là:
“Nay tuy châu chấu đá voi
Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra”
Lòng tin mãnh liệt của một dân tộc là như thế. Văn hóa Việt Nam là thế. Ta không gây hấn với ai, nhưng không ai được xâm phạm Tổ quốc ta. Trước mọi kẻ thù xâm lược, ta đều nhất định thắng.
Nhưng nói thì đơn giản vậy, còn khi đi vào thực tế thì không đơn giản một chút nào. Nhớ câu của Gớt – thi hào Đức đã nói: “Lý thuyết thì xám xịt, cây đời mãi mãi xanh tươi”. Ta đánh giặc, quyết định là ở chiến trường chứ không phải ở trí tưởng tượng.
Quân thù cố dùng mọi cách, mưu sâu kế độc để cướp cho được nước ta. Ta phải khôn ngoan và dũng cảm đánh lui chúng từng bước, đánh bại chúng từng phần, thắng chúng qua nhiều keo ác liệt. Địch không ngừng bị động, thất bại và sa lầy. Chiến tranh đặc biệt phá sản, chúng phải tiến hành chiến tranh cục bộ, đưa hơn nửa triệu quân viễn chinh Mỹ vào Việt Nam, bắn phá miền Bắc tơi bời, cày xới tan hoang cả dãy Trường Sơn, thế rồi vẫn thua, vẫn bế tắc, cuối cùng phải trở lại “Việt Nam hóa chiến tranh”. Đó là dấu hiệu hùng hồn nhất của tư tưởng chiến bại của kẻ thù.
Đánh giá kẻ thù một cách khách quan, khoa học không nhầm lẫn. Đấu trí, đấu lực vừa khôn khéo vừa kiên cường, Anh Ba cùng Trung ương và toàn dân, toàn quân ta đã buộc địch phải xuống thang từng nấc và cuối cùng chịu thất bại hoàn toàn. Điều đó trên thế gian này không phải ở đâu cũng có, nếu không có một nhân dân anh hùng, một Đảng lãnh đạo sáng suốt, kiên cường và vị thuyền trưởng tuyệt vời giữ vững tay lái cho con tàu cách mạng đi tới đích.
Ngay sau ngày toàn thắng, tại thành phố Sài Gòn vừa mới giải phóng, Anh Ba đã nói những lời rất chân tình để nhắc nhở tất cả chúng ta:
- Thắng lợi này là của toàn dân chúng ta mà trước hết là của những người nằm xuống. Ai nói công tôi, công anh là có tội.
Đó là những gì Anh Ba hằng mong mỏi ở chúng ta./.Ảnh: Đồng chí Lê Duẩn báo cáo với Chủ tịch Hồ Chí Minh về tình hình cách mạng miền Nam (1967).
Yêu nước ST.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét