Nội dung cơ bản của tư tưởng nhà nước pháp quyền là: nhà nước mà trong đó mọi chủ thể (kể cả các cơ quan nhà nước) đều phải nghiêm chỉnh phục tùng pháp luật, một pháp luật có tính pháp lý cao, phù hợp với lý trí, thể hiện đầy đủ những giá trị cao cả nhất của xã hội, của con người. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền, đã có từ lâu đời trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Tuy nhiên, nhà nước và pháp luật đều là công cụ thống trị của một giai cấp đối với toàn xã hội, do vậy tư tưởng nhà nước pháp quyền trong các chế độ xã hội không thể giống nhau. Do vậy, tìm hiểu tư tưởng nhà nước pháp quyền của Đảng cộng sản Việt Nam, giúp chúng ta quán triệt tư tưởng của Đảng, góp sức mình biến tư tưởng của Đảng thành hiện thực. Đặc biệt trong tình hình hiện nay khi mà tệ tham nhũng, quan liêu đang trở thành quốc nạn, thì tư tưởng nhà nước pháp quyền của Đảng là cơ sở lý luận để xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, xứng đáng là nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Cùng với những
thành tựu to lớn về nhiều mặt của
công cuộc đổi mới, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng nhà nước ngày
càng sáng rõ, cho phép Đảng ta khẳng định quyết tâm xây dựng nhà nước pháp
quyền của dân, do dân, vì dân. Đảng cộng
sản Việt Nam đã khẳng định: Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nước ta là
công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân, là nhà nước pháp quyền
của dân, do dân, vì dân.
Quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý
xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có
nghĩa vụ chấp hành hiến pháp và pháp luật.
Những luận điểm nêu trên thể hiện những nội dung cơ bản nhất về: bản chất, đặc điểm,
tổ chức của nhà nước pháp quyền ở nước
ta. Đó là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa, vừa là tiếp thu có chọn lọc tư
tưỏng và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền đã có trong lịch sử, phù hợp
với đặc điểm và quá trình xây dựng nhà nước ở Việt Nam trong thời kỳ mới.
Xây dựng nhà nước thực sự của dân, do vì dân là quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam
trong toàn bộ tiến trình cách mạng. Vì vậy, xây dựng nhà nước pháp quyền hiện
nay thực chất là xây dựng nhà nước thực
sự của dân, do dân, vì dân. Nhà nước
pháp quyền mà chúng ta xây dựng là nhà nước xã hội chủ nghĩa. Bản chất giai
cấp của nhà nước pháp quyền ở nước ta
vẫn là bản chất giai cấp công nhân, khác hẳn với bản chất của nhà nước pháp quyền tư sản .
Trong nhà nước pháp quyền ở nước ta, nhân dân thực sự
là chủ thể của quyền lực nhà nước, là
người tổ chức ra nhà nước, kiểm tra giám sát hoạt động của nhà nước; nhà nước là hình thức quyền lực của nhân dân, thông qua nhà nước mà quyền
lực của nhân dân mang tính quyền lực nhà
nước và có hiệu lực trên thực tế ở phạm vi cả nước. Sức mạnh và quyền lực của nhà nước đều bắt nguốn từ nhân dân, chứ
không phải nhà nước là người ban quyền lực cho nhân dân. Nhân dân là người uỷ
quyền cho nhà nước, nhà nước và cán bộ công chức của nhà nước phải thực thi đúng quyền lực mà
nhân dân giao cho.
Hồ Chí Minh đã căn dặn: các cơ quan của chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng,
đều là công bộc của dân, nghĩa là ngánh
vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như thời kỳ dưới quyền
thống trị của Nhật, Pháp. Việc gì có lợi
cho dân, ta phải hết sức làm, việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Thấu
suốt tư tưởng của Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định: nhà nước
là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân. “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của chính phủ
từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc
chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ thống trị của
Pháp, Nhật.
Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm.Việc gì
có hại cho dân, ta phải hết sức tránh.Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân
mới yêu ta, kính ta.”
Khi bàn về chế độ dân chủ Các Mác cho rằng: chế độ dân
chủ thực chất là chế độ do dân tự quy định nhà nước. Vì vậy, với tư cách là
công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải chủ động tạo môi trường, cơ chế
và điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia quản lý nhà nước, thực hiện quyền
làm chủ của mình trong tất cả các phương
diện của đời sống xã hội.
Trước hết, nhà nước phải tổ chức tốt quá trình dân chủ hoá trên các
phương diện: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Về hoạt động lập pháp: cần tổ chức
lấy ý kiến của nhân dân vào các dự án
luật, tổ chức trưng cầu ý kiến nhân dân về các vấn đề quan trọng của đất nước; tổ chức quá trình làm chủ trực
tiếp bằng các hình thức nhân dân tự quản, các quy ước, hương ước tại cơ sở phù
hợp với luật pháp. Về hoạt động hành pháp: tổ chức cho nhân dân đóng góp ý kiến
vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội,
vào các quá trình qủan lý; thu hút nhân dân tham gia thực hiện quản lý theo
ngành, theo lãnh thổ; tổ chức cho nhân tham gia giải quyết những tranh chấp, khiếu nại, tố cáo của công dân trong quá trình thực hiện quản
lý nhà nước.
Về hoạt
động tư pháp: thu hút, huy động tối đa khả năng
của nhân dân, của các tổ chức xã
hội và tổ chức nghề nghiệp tham gia rộng rãi các hoạt động tư pháp, thông qua
đó năng cao năng lực làm chủ nhà nước và trách nhiệm chính trị của nhân dân đối với nhà nước; tạo điều kiện
để nhân dân làm quen với công việc quản lý nhà nước.
Nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân ở nước ta, tất cả quyền lực mà nhân dân uỷ
thác cho nhà nước phải được tổ chức phù
hợp để phát huy sức mạnh của nhân dân và
tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân thực sự làm chủ trong kiểm tra, giám sát
hoạt động của các cơ quan nhà nước,
tránh sự lạm dụng quyền lực từ phía nhà nước. Do đó, quyền lực nhà nước là tập
trung, thống nhất, không phân chia quyền lực cho các cơ quan nhà nước theo kiểu
chế ước lẫn nhau như nhà nước pháp quyền
tư sản. Mặt khác tập trung quyền lực luôn gắn chặt với sự phân công quyền lực
cho các cơ quan nhà nước, phối hợp thực thi các chức năng lập pháp, hành pháp,
tư pháp.
Để tạo
khuôn khổ cho quá trình thực hiện quyền làm chủ
của nhân dân, nhà nước phải thường xuyên quan tâm xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ nghiêm kỹ cương
xã hội. Nhà nước thể chế hoá đướng lối, chủ trương lãnh đạo của Đảng, thể chế hoá quyền, nghĩa vụ, lợi
ích chính đáng của nhân dân trong hệ
thống pháp luật để khi ban hành nó có hiệu lực pháp lý cao, buộc mọi cơ quan,
tổ chức, cán bộ công chức và mọi công dân phải có nghĩa vụ chấp hành.
Mọi hành vi vi phạm pháp luật phải được xử lý
nghiêm minh đó là nguyên tắc của nền
pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hồ Chí Minh đã dạy: giải quyết mọi công
việc phải thấu lý trọn tình, phải có
lòng khoan dung độ lượng, nhưng pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kể kẻ đó ở địa vị nào, làm
nghề nghiệp gì.
Trong quá
trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta
đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế thị trường cũng đang thường xuyên
tác động đến mọi mặt của đời sống xã
hội, đặc biệt là tệ quan liêu tham nhũng trong bộ máy nhà nước. Không ít cán
bộ, công chức nhà nước lợi dụng chức quyền để thực hiện hành vi tham nhũng, móc
ngoặc tạo thành vây cánh để che chắn cho nhau trước pháp luật.
Tệ tham
nhũng đã trở thành một quốc nạn, là một trong bốn nguy cơ de doạ đến sự tồn
vong của chế độ xã hội chủ nghĩa mà
chúng ta đang xây dựng. “Bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt diễn biến phức
tạp…tệ quan liêu, tham nhũng lãng phí chưa bị đẩy lùi”. Một giải pháp có
tính chất chiến lược để đấu tranh chống tệ quan liêu và tham nhũng là phải xây
dựng được một nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do dân, vì dân.
Muốn xây dựng nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do dân, vì dân thì vấn đề quan trọng
hàng đầu là yếu tố con người. Phải lựa chọn, đào tạo những con người có đủ phẩm chất và năng lực đứng
vững trước những cám dỗ, cạm bẫy của cơ
chế thị trường. Mỗi giai đoạn cách mạng khác nhau, đòi hỏi phải có tiêu chuẩn
khác nhau đối với những cán bộ của bộ máy nhà nước. Hơn bao giờ hết, hiện
nay chúng ta càng thấm thía lời dạy của
Lê-nin: “ Trong vấn đề cải tiến bộ máy
nhà nước, những yêu cầu đối với con
người không hoàn toàn giống như những
yêu cầu đối với thời chiến tranh”. Muốn xây dựng bộ máy nhà nước
thật sự có chất lượng, xứng đáng với với danh hiêụ nhà nước xã hội chủ nghĩa,
yêu cầu đầu tiên đối với con người là
phải có trình độ văn hoá cần thiết.
Muốn có đủ
trình dộ văn hoá cần thiết, cần phải học tập và chỉ có học tập, cứ không thể
chỉ sử dụng bất cứ một trong những đức
tính tốt đẹp nhất của con người; không
thể thay thế kiến thức, học thức bằng sự sốt sắng, hấp tấp, vội vàng. Đồng thời
việc học tập không phải nhằm mục đích tự thân; những kiến thức đã học phải thực sự gắn với cuộc
sống, phải trở thành một bộ phận khăng khít
của cuộc sống phục vụ đắc lực cho cuộc sống. Để phát huy hiệu quả của đào tạo, phải bố trí sử dụng hợp lý, phù
hợp với yêu cầu nhiệm vụ và năng lực của
từng người.
Thực tế
hiện nay ở nước ta còn có khoảng cách rất lớn giữa đào tạo và sử dụng trong
toàn xã hội nói chung cũng như trong bộ máy nhà nước; nơi thừa, nơi thiếu, làm
việc không đúng chuyên môn được đào tạo, làm lãng phí thời gian và tiền
bạc của từng cá nhân cũng như toàn xã
hội, hiệu quả công tác thấp. Để khắc phục được thực trạng nêu trên cân phải
thực hiện nguyên tắc: xuất phát từ việc để bố trí người chứ không phải từ người
mà bố trí việc.
Để xây dựng nhà nước pháp quyền thực sự
của dân, do dân ,vì dân thì một nội dung không kém phần quan trọng là: đội ngũ cán bộ công chức nhà nước
phải được đãi ngộ một cách xứng đáng với lao động của họ. Thu nhập của cán bộ công chức nhà nước bảo đảm để họ
có sống cao hơn mặt bằng chung của xã
hội. Tất nhiên, các khoản thu nhập phải được công khai hoá, tiền tệ hoá, chống
các thu nhập có tính chất đặc quyền, đặc lợi. Với mức thu nhập như vậy, không
cần tham nhũng cán bộ công chức vẫn sống
đàng hoàng.
Đi cùng với
chế độ đãi ngộ xứng đáng thì cũng cần phải có những chế định về pháp luật và
kinh tế, để cán bộ công chức nhà nước không dám tham nhũng. Trước hết về pháp
luật cần quy định khung hình phạt nặng hơn đối với cán bộ, công chức nhà nước
vi phạm pháp luật; cùng một hành vi vi phạm, nhưng cán bộ giữ cương vị càng cao
thì hình phạt càng nặng. Về kinh tế, nếu cán bộ công chức nhà nước tham nhũng
gây thiệt hại về kinh tế thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại về kinh
tế; để tránh tẩu tán tài sản cho con, cháu, họ hàng, pháp luật cũng cần có quy
định: con, cháu, họ hàng của người tham
nhũng phải chứng minh được tính hợp pháp tài sản của mình, nếu không tài sản của con, cháu, họ hàng sẽ bị tịch thu để bồi
thường thiệt hại kinh tế mà người tham
nhũng đã gây ra.
Để chống tham
nhũng có hiệu quả cần phải tạo ra cơ chế để những người muốn tham nhũng cũng không thể tham
nhũng được. Muốn vậy phải thực hiện công khai, minh bạch mọi hoạt động của bộ máy nhà nước: công khai công tác cán
bộ; công khai thu nhập, quyền lợi và nghĩa vụ
của cán bộ, công chức nhà nước; công khai thu chi tài chính… Đồng thời
với công khai phải phát huy được vai trò
của tổ chức Đảng, các tổ chức quần chúng trong việc giám sát mọi hoạt
động của cán bộ và công chức nhà nước.
Đặc biệt là
phải phải phát huy được vai trò giám sát của nhân dân, vì không có một hành vi nào có thể qua được tai
mắt của quần chúng nhân dân. Tuy nhiên,
để nhân dân tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng, cần phải có
những hình thức và biện pháp có hiệu quả
để bảo vệ những người dũng cảm đứng ra tố cáo những hành vi tham nhũng. Tham nhũng là quốc nạn,
là giặc nội xâm, vì vậy những người dũng cảm chống tham nhũng phải được khen
thưởng xướng đáng kể cả vật chất và tinh thần, phải được tặng thưởng những danh hiệu cao quý của nhà nước. Thực hiện những nội dung trên
đây chính là tạo ra một cơ chế để cán bộ, công chức nhà nước không cần, không
dám, không thể tham nhũng.
Sự nghiệp
đổi mới của nước ta hiện nay, đòi hỏi phải đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt
động của bộ máy nhà nước theo định hướng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
và đấu tranh chống tệ quan liêu tham nhũng.
“ Xây dựng Nhà nước pháp quyền phải tiến hành đồng bộ
cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và phải được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ
thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực hiệu quả; gắn với đổi mới kinh
tế, văn hóa, xã hội. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật”. Quá trính đó đòi hỏi Đảng ta phải
trung thành với học thuyết Mác- Lênin về nhà nước pháp luật; trung thành với tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân; tiếp thu có phê
phán tư tưởng, thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền và kinh nghiệm đấu tranh
chống tham nhũng của các nước trên thế
giới. Trên cơ sở đó, phải không ngừng đổi mới tư duy, vận dụng sáng tạo, định
ra phương hướng chủ trương giải pháp cụ thể để từng bước hoàn thiện nhà nước
pháp quyền Việt Nam thực sự là nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, mang
tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc, đủ sức mạnh hoàn thành sứ mệnh vẻ vang
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét