KẾT HỢP PHÁT HUY DÂN CHỦ VÀ TĂNG CƯỜNG KỶ CƯƠNG - GIẢI PHÁP QUAN TRỌNG CHO CÔNG TÁC XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG HIỆN NAY
Từ thực tiễn phát triển và lãnh đạo đất nước, Đảng ta luôn xác định vai trò quan trọng, then chốt của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trước yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, việc tìm kiếm và thực hiện giải pháp hiệu quả để tạo được chuyển biến rõ rệt trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng tiếp tục được đặt ra; trong đó, kết hợp phát huy dân chủ và tăng cường kỷ cương là một giải pháp quan trọng.
Kết hợp giữa phát huy dân chủ và tăng cường kỷ cương - yêu cầu bức thiết của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đòi hỏi áp dụng đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó kết hợp giữa phát huy dân chủ và tăng cường kỷ cương là một giải pháp có ý nghĩa quan trọng. Sự cần thiết của giải pháp này xuất phát từ nhiều lý do, cụ thể như sau:
Thứ nhất, mối quan hệ biện chứng giữa dân chủ và kỷ cương.
Sự phát triển bền vững của mọi thiết chế chính trị đều đòi hỏi bảo đảm thống nhất giữa hai mặt trong vận hành là dân chủ và kỷ cương. Giữa dân chủ và kỷ cương thực sự là mối quan hệ biện chứng: Trong “dân chủ” đã bao hàm yếu tố “kỷ cương” và hướng đến kỷ cương; đồng thời, trong “kỷ cương” đã bao hàm đặc tính “dân chủ” và là điều kiện bảo đảm cho việc thực thi dân chủ. Nếu dân chủ có mục đích sâu xa là phát huy năng lực sáng tạo của mọi đảng viên, tạo lập sự đoàn kết, đồng thuận giữa những người đồng chí thì kỷ luật, kỷ cương là quy tắc, quy định, quy chế được đặt ra nhằm duy trì một trật tự nghiêm minh, tự giác, nhất quán của tổ chức. Nếu dân chủ không đi liền với kỷ cương thì sẽ thành “dân chủ quá trớn”, “dân chủ vô tổ chức”; nếu kỷ cương mà thiếu dân chủ thì sẽ là sự độc đoán, chuyên quyền. “Dân chủ quá trớn” sẽ tạo điều kiện cho kẻ cơ hội, phản động tự do làm điều xấu, phá nát tổ chức; kỷ cương hà khắc, độc đoán sẽ triệt tiêu sự sáng tạo và gây ra sự mất đoàn kết. Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ cũng chính là vi phạm kỷ luật đảng vì đây là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Kết hợp chặt chẽ giữa dân chủ và kỷ cương là điều kiện để bảo đảm mục tiêu “ổn định, đổi mới và phát triển”.
Thứ hai, sự trung thành với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về các nguyên tắc hoạt động của một đảng kiểu mới và mối quan hệ giữa tự do và tất yếu, quyền lợi và nghĩa vụ của người đảng viên.
Sức mạnh của một đảng cách mạng luôn gắn liền với các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của đảng đó. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin coi tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức hàng đầu nên khi thành lập Quốc tế Cộng sản, V.I. Lê-nin đã nhấn mạnh: “Các đảng gia nhập Quốc tế cộng sản phải được xây dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ”(1), tức là sự tập trung phải được xây dựng trên nền tảng dân chủ và dân chủ phải hướng tới lãnh đạo tập trung. Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê-nin cũng khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa tự do và tất yếu, rằng con người chỉ có tự do khi nhận thức rõ cái tất yếu và hành động theo cái tất yếu. C. Mác còn đúc kết một chân lý về mối quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ: “Không có quyền lợi nào mà không có nghĩa vụ, không có nghĩa vụ nào mà không có quyền lợi”(2). Những quan điểm mang tính nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lê-nin nêu trên, tựu trung, đều hàm ý nhấn mạnh mối quan hệ giữa dân chủ và kỷ cương, tự do và trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ của người cộng sản. Kết hợp chặt chẽ giữa phát huy dân chủ và tăng cường kỷ cương chính là sự phát triển các nguyên tắc đó vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
Thứ ba, sự kế thừa quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mối quan hệ thống nhất giữa dân chủ và kỷ cương.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh: Dân chủ nghĩa là “dân là chủ và dân làm chủ”; “dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau”(3); “phải thật sự thi hành dân chủ trong Đảng và trong quần chúng”(4). Rất đề cao dân chủ, đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định, dân chủ phải gắn liền với tập trung bởi nếu thiếu một trong hai yếu tố, Đảng sẽ rơi vào “căn bệnh” hoặc tự do quá trớn, vô tổ chức (ở bên dưới) hoặc độc đoán, chuyên quyền, quan liêu. Người nhấn mạnh: “Trong nội bộ Đảng có dân chủ rộng rãi, đồng thời có kỷ luật nghiêm khắc”(5), và khi “đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý”(6). Người còn nhấn mạnh: “Không nên hiểu lầm dân chủ. Khi chưa quyết định thì tha hồ bàn cãi. Nhưng khi đã quyết định rồi thì không được bàn cãi nữa, có bàn cãi cũng chỉ là để bàn cách thi hành cho được, cho nhanh, không phải để đề nghị không thực hiện. Phải cấm chỉ những hành động tự do quá trớn ấy”(7).
Thứ tư, bài học rút ra từ sự đổ vỡ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô.
Vào thập niên 80 của thế kỷ XX, khi thế giới bước vào xu thế toàn cầu hóa và cách mạng khoa học - công nghệ thì Liên Xô xuất hiện các dấu hiệu khủng hoảng. M. Goóc-ba-chốp - Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, một lãnh đạo trẻ, cấp tiến đã đề ra một chương trình cải cách sâu rộng với tên gọi “Cải tổ”. Đại hội XXVII Đảng Cộng sản Liên Xô (tháng 2-1986) đã chính thức thông qua đường lối này. Tuy nhiên, đường lối cải tổ có nhiều sai lầm. Cải cách chính trị đã diễn ra với các khẩu hiệu “Dân chủ hơn nữa”, “Công khai hơn nữa”, nhưng thiếu “cái phanh” là kỷ cương, nguyên tắc nên càng cải cách càng trở nên chắp vá, mất phương hướng. Sự đổ vỡ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô để lại cho Đảng ta một bài học sâu sắc: Đổi mới, nhưng không được “đổi màu, đổi hướng” và kết hợp phát huy dân chủ với tăng cường kỷ cương là nguyên tắc hàng đầu mà đảng cộng sản cần tuân thủ.
Thứ năm, điều kiện quan trọng cho việc nâng cao sức mạnh, bản lĩnh lãnh đạo của Đảng để đưa đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc.
Lịch sử đã chứng minh, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: Đổi mới “thành công hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”(8). Tháng 4-2024, trong bài viết “Giải quyết mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”, đồng chí Tô Lâm nhấn mạnh: “Pháp chế xã hội chủ nghĩa khi được xác lập sẽ có sức mạnh góp phần thiết lập trật tự, kỷ cương, thúc đẩy và bảo vệ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi phá hoại quyền làm chủ của nhân dân, nhờ đó thúc đẩy xã hội phát triển”(9). Sau gần 40 năm tiến hành đổi mới, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay, nhưng đổi mới càng đi vào chiều sâu thì càng xuất hiện những vấn đề mới. Đại hội XIII của Đảng đặt ra mục tiêu xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Một đất nước phồn vinh, hạnh phúc tất yếu phải là một đất nước vừa dân chủ, vừa kỷ cương. Hơn nữa, đúng như Đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm từng khẳng định, “sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị. Sự nghiệp đó chỉ hoàn thành được mục tiêu khi người dân ý thức được quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ của mình với tinh thần dân chủ, thượng tôn pháp luật”(10). Văn hóa trong Đảng chính là nền tảng để xây dựng văn hóa trong xã hội, nên thực hành dân chủ và tăng cường kỷ cương trong Đảng tất yếu phải được tiến hành.
Nhận thức của Đảng về mối quan hệ giữa phát huy dân chủ và tăng cường kỷ cương trong thời kỳ đổi mới và kết quả thực hiện
Khi đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, với trách nhiệm trước dân tộc, Đại hội VI của Đảng tuyên bố tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện; trong đó, đổi mới tổ chức và hoạt động của Đảng là vấn đề cấp bách. Trên cơ sở thừa nhận yếu kém khi thực thi dân chủ và kỷ cương trong Đảng, Đại hội VI của Đảng quyết tâm tiến hành đồng thời 2 nhiệm vụ: Vừa lập lại kỷ cương, kỷ luật, vừa mở rộng sinh hoạt dân chủ trong Đảng. Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh: “Bất cứ người lãnh đạo nào cũng không được tự đặt mình ra ngoài tổ chức, tự cho mình quyền nói và làm khác quyết định của tập thể... Người lãnh đạo phải bình tĩnh lắng nghe những ý kiến trái với ý kiến của mình. Ý kiến khác nhau phải được nói hết, nói thẳng, và trải qua thảo luận dân chủ mà đi đến chân lý”(11). Trước việc các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tiến hành cải cách với ngọn cờ “Dân chủ”, nhưng thực chất là xa rời những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (tháng 3-1989) đã nhấn mạnh: “Dân chủ phải đi đôi với tập trung, với kỷ luật, pháp luật, với ý thức trách nhiệm công dân. Dân chủ phải có lãnh đạo, lãnh đạo để phát huy dân chủ đúng hướng; mặt khác phải lãnh đạo bằng phương pháp dân chủ trên cơ sở phát huy dân chủ”(12).
Sự đổ vỡ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu có nguyên nhân từ sự dân chủ quá trớn, buông lỏng kỷ cương nên Đại hội VII của Đảng (năm 1991) đã rút ra bài học: Dân chủ phải có lãnh đạo; nếu chạy theo dân chủ cực đoan hay thực hiện dân chủ mà không gắn liền với kỷ luật, kỷ cương, không tính toán đến tình hình cụ thể thì mọi ý định tốt đẹp về phát huy dân chủ chẳng những không thể thực hiện, mà còn làm tổn hại sâu sắc đến lợi ích của nhân dân. Đại hội VIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ và cảnh báo: “Mọi hoạt động vô tổ chức, vô kỷ luật, không chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng, gây chia rẽ bè phái trong Đảng đều phải bị xử lý nghiêm minh”(13). Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh chủ trương phát huy dân chủ trong mọi hoạt động, công tác của Đảng; đồng thời, khẳng định: “Đảng viên có quyền được bảo lưu ý kiến nhưng phải nói và làm theo nghị quyết của Đảng. Chống dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan hoặc lợi dụng dân chủ để mưu cầu lợi ích riêng, cục bộ, bản vị”(14). Đến Đại hội X, Đảng đã nêu rõ quyền lợi và trách nhiệm của người đảng viên trong việc gắn kết dân chủ với kỷ cương: “Mọi cán bộ, đảng viên có quyền tham gia quyết định công việc của Đảng; quyền được thông tin, thảo luận, tranh luận, nêu ý kiến riêng, bảo lưu ý kiến trong tổ chức; khi Đảng đã có nghị quyết thì phải nói và làm theo nghị quyết. Lãnh đạo các cấp phải lắng nghe ý kiến của cấp dưới, của đảng viên và nhân dân”(15). Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh yêu cầu thực sự phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, giữ nghiêm kỷ luật trong Đảng và thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Đảng nhận rõ “căn bệnh” dân chủ hình thức, tập trung quan liêu hay vô tổ chức, vô kỷ luật có nơi, có lúc vẫn đang tồn tại cùng sự nguy hại của nó. Đại hội XII của Đảng có quan điểm mới là gắn kết dân chủ - kỷ cương với đạo đức xã hội. Sự bổ sung này hết sức cần thiết bởi luật pháp, kỷ cương dù chi tiết đến đâu cũng không bao quát hết được mọi vấn đề của đời sống xã hội; cần phải lấy đạo đức xã hội làm phương tiện phê phán, góp phần ngăn chặn cái sai, cái xấu, cái ác. Hơn nữa, đạo đức cách mạng có vững thì kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước mới nghiêm và dân chủ mới đi vào thực chất. Cũng tại Đại hội XII của Đảng, lần đầu tiên “cơ chế kiểm soát quyền lực” đã được đề cập với mục đích ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, kỷ luật, kỷ cương. Đến Đại hội XIII, Đảng đã nâng quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội thành mối quan hệ lớn thứ 10. Đây là một trong các mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới của Đảng ta. Ý thức rõ rằng, từ nhận thức, ý thức đến hành động luôn tồn tại khoảng cách và dân chủ cũng như kỷ cương chỉ có giá trị khi nó được thực hiện trong thực tiễn nên Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Thực hành dân chủ trong Đảng gắn liền với tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng”(16). Thực hành dân chủ chính là tổ chức, triển khai thực thi dân chủ trên thực tế để mỗi đảng viên được phát huy vai trò và thực hiện quyền lợi, trách nhiệm của mình. Thực hành dân chủ đã thể hiện sự quyết tâm của Đảng trong việc thúc đẩy dân chủ với tư cách là một giá trị cốt lõi của chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa. Như vậy, cùng với tiến trình đổi mới, nhận thức của Đảng về mối quan hệ không thể tách rời giữa dân chủ và kỷ cương và trong xã hội ngày càng sâu sắc hơn.
Được dẫn dắt bởi lý luận ngày càng hoàn thiện, việc thực thi dân chủ và kỷ cương đã đạt được một số thành tựu. Có nhiều minh chứng cho việc mở rộng dân chủ: Dự thảo các văn kiện Đại hội XI, XII, XIII của Đảng đều được đưa ra lấy ý kiến rộng rãi trong đảng viên và nhân dân; quy trình công tác cán bộ ngày càng công khai; sinh hoạt chi bộ cũng được đổi mới theo hướng tăng cường sự thảo luận, tranh luận; việc chất vấn và lấy phiếu tín nhiệm đối với chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị đã được tiến hành ...
Để tăng cường kỷ luật, kỷ cương, rất nhiều chỉ thị, nghị quyết, quy chế về việc kiểm tra, kiểm soát cán bộ, đảng viên, chống chạy chức, chạy quyền, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật đã được ban hành và thực hiện nghiêm túc. Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã được tiến hành theo nguyên tắc “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ” và đạt được hiệu quả rõ rệt.
Tuy nhiên, vì nhiều lý do, có nơi, có lúc vẫn xảy ra tình trạng vừa thiếu dân chủ, vừa thiếu kỷ luật. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh từng nhấn mạnh: “Từ chỗ thiếu dân chủ đến dân chủ hình thức thì tình hình cũng chẳng tốt đẹp gì hơn. Thiếu dân chủ hoặc dân chủ hình thức làm yếu sự tập trung thống nhất, kỷ cương, kỷ luật không nghiêm”(17). Hiện nay, “căn bệnh” dân chủ hình thức có nơi, có lúc vẫn hiện hữu. Đó là việc góp ý, học tập, triển khai nghị quyết hoặc các văn bản liên quan trong tổ chức đảng có nơi, có lúc diễn ra còn chiếu lệ. Công tác lý luận đôi khi còn rơi vào tình trạng chỉ thuyết minh, tuyên truyền một chiều cho nghị quyết, đường lối; sự phản biện đường lối hoặc đề xuất phát kiến mới còn rất hạn chế. Công tác tự phê bình và phê bình chưa đi vào thực chất vì e ngại trong phê bình cấp trên, hay việc phê bình tiến hành theo kiểu “dễ người, dễ ta”, “bằng mặt không bằng lòng”. Trong công tác cán bộ còn có tình trạng “đúng quy trình, nhưng không đúng người”; vấn nạn “chạy chức, chạy quyền” vẫn tồn tại một cách rất tinh vi, nhức nhối...
Cũng chính “căn bệnh” dân chủ hình thức có lúc, có nơi đã làm cho “tập trung” biến thành quan liêu, độc đoán, chuyên quyền. Một số người đứng đầu cấp ủy đã lạm dụng quyền lực để vô hiệu hóa tập thể. Họ đưa ra quyết định theo ý chí và tham vọng cá nhân, nhưng luôn nhân danh tập thể và vì lợi ích chung. Thực tế cho thấy, nhiều cán bộ cao cấp thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý bị thi hành kỷ luật đảng và truy cứu trách nhiệm hình sự đều vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ. Công tác kiểm tra, giám sát dù được tăng cường và đổi mới, nhưng vẫn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu làm trong sạch tổ chức đảng, bởi cơ chế phòng ngừa chưa thật hiệu quả. Việc tự kiểm tra, chủ động phát hiện và xử lý nghiêm vi phạm của nhiều cấp ủy, tổ chức đảng vẫn là khâu yếu. Việc thi hành kỷ luật ở một số nơi, nhất là cấp cơ sở, còn chưa nghiêm; đây đó vẫn còn hiện tượng bao che, nể nang. Sự phối hợp công tác giữa ủy ban kiểm tra với các cơ quan liên quan, như thanh tra, kiểm toán, công an, viện kiểm sát, tòa án... có lúc, có việc còn thiếu chặt chẽ. Theo đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm, “giải quyết tốt mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội sẽ góp phần đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(18) nên đây là việc nhất thiết phải làm thật tốt.
Giải pháp thúc đẩy sự kết hợp giữa thực hành dân chủ và tăng cường kỷ cương hiện nay
Để dân chủ và kỷ cương được lan tỏa trong các tổ chức đảng, đảng viên, cần tập trung thực hiện hệ thống giải pháp sau đây:
Một là, nâng cao nhận thức của toàn hệ thống chính trị về mối quan hệ biện chứng giữa phát huy dân chủ và tăng cường kỷ cương. Do vai trò tiên phong, gương mẫu của Đảng trước dân tộc, toàn thể đảng viên phải đồng lòng xây dựng văn hóa dân chủ; đồng thời, tự giác “chỉ làm những gì pháp luật cho phép”. Lúc này, phải làm tốt công tác giáo dục lý luận để toàn thể cán bộ, đảng viên nắm vững bản chất, nội dung, phương thức thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, kỷ cương sao cho phù hợp với giai đoạn hiện nay và công việc được giao. Cán bộ, đảng viên phải nhận thức sâu sắc rằng, thực hành kỷ cương vừa là nghĩa vụ, trách nhiệm, vừa có ý nghĩa rất quan trọng với chính họ, vì bảo đảm cho họ sự an toàn về pháp lý và sinh mệnh chính trị. Ngoài ra, thực hành dân chủ gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương là nhằm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh trên cả 5 lĩnh vực (chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ), không đơn thuần chỉ là củng cố Đảng về tổ chức.
Hai là, phát huy vai trò gương mẫu của đảng viên, đặc biệt là của người đứng đầu. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi sự gương mẫu, tiên phong của người đảng viên là một phương thức lãnh đạo của Đảng, nên Đại hội XIII của Đảng đã yêu cầu: “Cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức nêu gương thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức xã hội”(19). Cán bộ lãnh đạo là nguồn nhân sự đặc biệt, là người đứng đầu tổ chức; cho nên, sự thực hành dân chủ, tuân thủ kỷ cương của họ quyết định rất lớn đến hiệu quả thực hiện dân chủ, kỷ cương.
Ba là, đẩy mạnh công tác kiểm tra việc thực hành dân chủ và tăng cường kỷ cương. Kiểm tra, giám sát vừa là nội dung lãnh đạo, vừa là một phương thức lãnh đạo của Đảng. Sai phạm trong thực hành dân chủ và kỷ cương sẽ được ngăn chặn nếu làm tốt, làm sớm công tác kiểm tra. Do đó, cần xác định nội dung trọng tâm trong kiểm tra, giám sát. Tiến hành đổi mới phương pháp, quy trình, kỹ năng công tác kiểm tra để bảo đảm tính khách quan, dân chủ, công khai, thống nhất, chính xác. Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra của Đảng có bản lĩnh chính trị, có nghiệp vụ tinh thông, có đạo đức và khả năng lôi cuốn nhân dân tham gia giám sát việc thực hành dân chủ và kỷ cương. Đồng thời, để nâng cao kỷ cương thì rất cần phòng, chống tiêu cực trong các cơ quan chống tiêu cực. Bên cạnh đó, công tác kiểm tra phải đi liền với công tác khen thưởng - kỷ luật một cách nghiêm minh.
Bốn là, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn việc thực hành dân chủ và kỷ cương.
Thực hành dân chủ và kiểm soát quyền lực trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền đòi hỏi phát huy tính chủ động, sáng tạo, đề cao tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành gắn với cơ chế kiểm soát quyền lực. Điều này đòi hỏi sự chú trọng đối với công tác tổng kết thực tiễn việc thực hành dân chủ và kỷ cương, góp phần tổng kết, đúc rút kinh nghiệm, nâng kinh nghiệm thực hành dân chủ và kỷ cương thành lý luận để tiếp tục soi đường cho thực tế.
Năm là, thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa; mở rộng dân chủ phải gắn với giữ vững kỷ luật, kỷ cương. C. Mác đã nói rất đúng rằng, nếu con người là sản phẩm của hoàn cảnh thì phải làm cho hoàn cảnh ngày càng có tính người nhiều hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh, “Đảng ta không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra”(20). Cùng với sự phát triển của xã hội, dân chủ và kỷ cương ngày càng trở thành đặc tính căn cốt của xã hội văn minh; mục tiêu đổi mới về chính trị ở nước ta là để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; vì thế, phát huy dân chủ và kỷ cương trong xã hội sẽ giúp việc thực hiện dân chủ và kỷ cương đạt hiệu quả cao và bền vững hơn./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét