Giai cấp công nhân là giai cấp những người lao động sản xuất trực tiếp hoặc
gián tiếp trong các ngành công nghiệp thuộc các trình độ kỹ thuật khác nhau, mà
địa vị kinh tế - xã hội tùy thuộc vào chế độ xã hội đương thời.Trong quá trình nghiên cứu về giai cấp vô sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã sử
dụng nhiều thuật ngữ khác nhau để chỉ giai cấp công nhân như: Giai cấp vô sản,
giai cấp lao động làm thuê, giai cấp công nhân, hay các thuật ngữ có nội dung
hẹp hơn để chỉ công nhân trong các ngành khác nhau: công nhân nông nghiệp, công
nhân công nghiệp, công nhân cơ khí, công nhân khai khoáng... Trong tác phẩm
“Tình cảnh giai cấp lao động ở Anh”, Ph.Ăngghen đã viết: “tôi thường dùng những
từ: người lao động hoặc công nhân (working men) và người vô sản, giai cấp công
nhân, giai cấp không có của, giai cấp vô sản như những từ đồng nghĩa”[1]. Mặc dù
có nhiều cách gọi khác nhau, song theo C.Mác và Ph.Ăngghen, có hai tiêu chí cơ bản để phân biệt giai cấp
công nhân với
những người lao động khác.Về phương thức lao động, phương thức sản xuất:Giai cấp công nhân là những người lao động trực tiếp hoặc gián tiếp vận
hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại. Đây là
tiêu chí cơ bản xác định rõ tính chất nghề nghiệp và môi trường
lao động của công nhân là các ngành công nghiệp có trình độ kỹ thuật khác nhau,
từ thủ công đến cơ khí và trình độ rất cao hiện nay. Trong đó, lực lượng công
nhân hiện đại gắn với nền đại công nghiệp là bộ phận cơ bản, hạt nhân của giai
cấp công nhân và ngày càng phát triển. C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định: “Tất cả
các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công
nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”[2].
Hiện nay, khoa học và
công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ, làm cho lực lượng sản xuất phát triển
nhanh chóng với tính chất xã hội hoá ngày càng cao, cơ cấu của nền sản xuất
công nghiệp có sự thay đổi. Bên cạnh các ngành công nghiệp truyền thống, đã
xuất hiện ngày càng nhiều các ngành sản xuất và dịch vụ mới. Cùng với công nhân
của nền công nghiệp cơ khí, đã xuất hiện công nhân của nền công nghiệp với
trình độ kỹ thuật cao ở các dây chuyền sản xuất tự động hoá, làm cho giai cấp
công nhân cũng có sự phát triển mới về nghề nghiệp. Xét theo tiêu chí nghề
nghiệp, những người lao động trong các ngành dịch vụ mà phần lớn là dịch vụ
công nghiệp vẫn là công nhân. Như vậy, giai cấp công nhân hiện đại vẫn tồn tại
và ngày càng phát triển chứ không hề mất đi trong điều kiện khoa học và công
nghệ ngày càng phát triển mạnh mẽ.Về vị trí trong quan hệ sản xuất:Trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những
người lao động không có tư liệu sản xuất, phải làm thuê, bán sức lao động cho
nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư. C.Mác và
Ph.Ăngghen đặc biệt nhấn mạnh tiêu chí này, vì chính điều này khiến cho những người công
nhân trở thành giai cấp đối kháng trực tiếp với giai cấp tư sản: “Giai cấp tư sản, tức là tư bản, mà lớn lên thì giai
cấp vô sản, giai cấp công nhân hiện đại - tức là giai cấp chỉ có thể sống với
điều kiện là kiếm được việc làm, và chỉ kiếm được việc làm, nếu lao động của họ
tăng thêm tư bản cũng phát triển theo. Những công nhân ấy, buộc phải tự bán
mình để kiếm ăn từng bữa một, là một hàng hoá, tức là một món hàng đem bán như
bất cứ một món hàng nào khác; vì thế họ phải chịu hết mọi sự may rủi của cạnh
tranh, mọi sự lên xuống của thị trường với mức độ như nhau”[3]. Mâu thuẫn cơ bản về lợi ích giữa giai
cấp công nhân và giai cấp tư sản không thể điều hòa và chỉ có thể được giải
quyết bằng việc xóa bỏ chế độ bóc lột giá trị thặng dư trên cơ sở xác lập một
quan hệ sản xuất mới mang tính chất xã hội hóa những tư liệu sản xuất chủ yếu.
Hiện nay, cùng với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại, cơ cấu, số lượng và chất lượng giai cấp công nhân
đều có sự phát triển mới. Bên cạnh công nhân của nền công nghiệp cơ khí truyền
thống đã xuất hiện công nhân trí thức của nền công nghiệp tự động hoá do việc
áp dụng phổ biến khoa học và công nghệ hiện đại vào sản xuất. Do cơ cấu kinh tế
trong nền sản xuất của xã hội tư bản phát triển, ngành dịch vụ được mở rộng, từ
đó hình thành đông đảo công nhân dịch vụ. Trong xã hội tư bản hiện đại, xuất
hiện một số công nhân có cổ phần trong các xí nghiệp tư bản, nhưng tình hình ấy
không làm thay đổi một sự thật là toàn bộ tư liệu sản xuất cơ bản nhất, quyết
định nhất đối với nền sản xuất tư bản vẫn nằm trong tay giai cấp tư sản, còn
giai cấp công nhân về cơ bản vẫn không có tư liệu sản xuất, họ phải bán sức lao
động cho giai cấp tư sản và bị bóc lột giá trị thặng dư với các hình thức ngày
càng tinh vi.
Khác với giai cấp công
nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân ở các nước xã hội chủ
nghĩa đã trở thành giai cấp cầm quyền và lãnh đạo công cuộc đấu tranh cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới. Họ
là
người làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu của nền sản xuất mới, cùng với
nhân dân lao động hợp tác, lao động cho chính mình. Tuy nhiên, trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế, còn sở hữu
tư nhân thì một bộ phận công nhân ít nhiều vẫn bị những chủ sở hữu bóc lột giá
trị thặng dư.
Những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về hai tiêu chí cơ bản của giai cấp công
nhân đến nay vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là cơ sở
phương pháp luận để nghiên cứu giai cấp công nhân hiện đại và làm sáng tỏ sứ
mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân trong thời đại hiện nay.
[1] C.Mác và Ph.Ăng ghen, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị
quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 1995, tr. 328.
[2] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội - 1995, tr. 610.
[3] C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn
tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 1995, tr. 604.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét