Thứ Năm, 31 tháng 7, 2025
ĐỀ NGHỊ XỬ LÝ NGHIÊM: SẼ RA SAO NẾU MỘT BỘ PHẬN NGƯỜI VIỆT NAM CỨ ĐỂ SỰ "TẨY CHAY" TRỞ THÀNH "TREND ĐẠO ĐỨC" NGẮN HẠN!?
DĨ BẤT BIẾN, ỨNG VẠN BIẾN LÀ CHỦ TRƯƠNG KHÔN NGOAN CỦA VIỆT NAM! NHÌN MYANMAR ĐỂ THẤY CHÚNG TA RẤT TINH ANH!
CẢNH BÁO LỪA ĐẢO QUA CÁC TRANG FACEBOOK “DUYỆT BINH NHÍ MỪNG QUỐC KHÁNH 2/9”!
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: NHỮNG TRƯỜNG QUÂN ĐỘI TUYỂN NỮ HỌC VIÊN!
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: "THỦ TỤC CẤP THIẾT CHO NHÂN DÂN KHÔNG ĐỂ CHẬM MUỘN, PHẢI ĐI LẠI NHIỀU LẦN"!
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TỔNG BÍ THƯ TÔ LÂM: ĐẠI HỘI 14 SẼ LÀ ĐẠI HỘI LỊCH SỬ!
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TỔNG BÍ THƯ TÔ LÂM, BÍ THƯ QUÂN ỦY TRUNG ƯƠNG CHỦ TRÌ HỘI NGHỊ THƯỜNG VỤ QUÂN ỦY TRUNG ƯƠNG!
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: 🇷🇺🤝🇻🇳NGA KHÁNH THÀNH QUẢNG TRƯỜNG HỒ CHÍ MINH TẠI THÀNH PHỐ SAINT PETERSBURG ❤️♥️🇻🇳
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TỔNG BÍ THƯ TÔ LÂM GẶP MẶT CÁN BỘ LÃO THÀNH CÁCH MẠNG, BÀ MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG, TƯỚNG LĨNH, ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN!
VIỆT NAM - THẾ GIỚI: THIỆU ĐỀ NGHỊ CỦA PHÍA MALAYSIA, THỦ TƯỚNG PHẠM MINH CHÍNH VỪA CÓ CUỘC ĐIỆN ĐÀM VỚI THỦ TƯỚNG MALAYSIA ANWAR IBRAHIM!
LUẬN ĐIỆU PHẢN ĐỘNG CỦA NHỮNG KẺ MẠO DANH LỰC LƯỢNG CỨU QUỐC!
KHÔNG NGỪNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN ĐỂ ĐẢNG NGÀY CÀNG VỮNG MẠNH!
Thứ Tư, 30 tháng 7, 2025
NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG TƯ TƯỞNG QUÂN SỰCỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
Theo Hồ Chí Minh: “Chữ người,
nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả
nước. Rộng hơn là cả loài người”[1].
Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng tuyệt đối ở khả năng tự giải phóng của con người
và không ngừng rèn luyện, phát huy khả năng ấy thành sức mạnh để lật đổ giai
cấp thống trị, giành lấy độc lập, tự do và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để thực
hiện mục tiêu cao cả ấy, nhất thiết phải dùng sức mạnh của quần chúng nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Người khẳng định: "Trong công cuộc kháng chiến
kiến quốc, lực lượng chính là ở dân"[2].
Đây là nét nổi bật xuyên suốt trong tư tưởng cách mạng và tư tưởng quân sự của
Hồ Chí Minh. Khác hẳn với các quan điểm quân sự phong kiến, tư sản thường nhấn
mạnh vai trò tài năng tướng lĩnh, dựa vào quân đội nhà nghề, binh khí kỹ thuật
tối tân, hiện đại. Hồ Chí Minh dựa chắc vào dân, khơi nguồn lực lượng và sức
sáng tạo của nhân dân. Người khẳng định có dân là có tất cả. Dân khí mạnh thì không súng ống nào
chống lại nổi. Cách mạng phải động
viên, giác ngộ con người để họ đứng lên tự giải phóng và đem lại hạnh phúc cho
mình. Không sức mạnh nào có thể tiêu diệt được sức mạnh của quần chúng nhân dân
khi họ đã được tổ chức, lãnh đạo nhất tề đứng lên để tự giải phóng mình.
Hồ Chí Minh coi khởi nghĩa vũ
trang và chiến tranh cách mạng là sản phẩm của sức mạnh, sức sáng tạo của quần
chúng nhân dân; sự vùng dậy của quần chúng lao động dưới ngọn cờ của Đảng là
nhân tố quyết định thắng lợi trong sự nghiệp chống lại áp bức, bóc lột và nô
dịch của chủ nghĩa đế quốc. Người nói: Cách mệnh là việc chung của dân chúng
chứ không phải việc của một, hai người. Cách mệnh thì phải đoàn kết dân chúng
bị áp bức để đánh đổ cả cái giai cấp áp bức mình, chứ không phải chỉ chờ năm,
bảy người giết hai, ba anh vua, chín, mười anh quan là được. Người phê phán
những xu hướng manh động, phiêu lưu, khủng bố cá nhân. Bởi vì, ám sát là làm
liều và kết quả ít, vì giết thằng này còn thằng khác, giết sao cho hết.
Nêu cao ngọn
cờ đại nghĩa, Người chăm lo giáo dục toàn dân hiểu tại sao phải làm cách mạng,
tại sao phải kháng chiến. Người nói: Thà chết được tự do còn hơn sống làm nô
lệ. Người xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân
trong mặt trận dân tộc thống nhất trên cơ sở liên minh công nông, động viên sức
mạnh của toàn dân vào công cuộc kháng chiến cứu quốc. Hồ Chí Minh đánh giá cao
vai trò của quần chúng nhân dân trong khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách
mạng. Người tin tưởng vững chắc vào ý chí quyết tâm, khả năng vô tận, sức mạnh
vô địch của quần chúng nhân dân. Để tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám
năm 1945, Người kêu gọi: “Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải
phóng cho ta”.
Trong kháng chiến chống Pháp,
Người nêu rõ: Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng xung
quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường
đó, chúng cũng phải thất bại. Người kêu gọi: bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ
người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, hễ là người Việt
Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Trong kháng chiến chống
Mỹ, Người nêu rõ: chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi
người Việt
Công việc quân sự không phải chỉ
là việc riêng của quân đội mà được đồng bào cả nước thực hiện dưới sự lãnh đạo
của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đấu tranh vũ trang, chiến tranh cách mạng,
chiến tranh yêu nước không còn là lĩnh vực riêng của quân đội, mà toàn dân tộc
ta đã tự giác đứng lên chiến đấu vì độc lập, tự do, vì thống nhất Tổ quốc dưới
sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Coi sức mạnh giải phóng là sức
mạnh của cả dân tộc đứng lên "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta".
Khởi nghĩa vũ trang là khởi nghĩa toàn dân, chiến tranh yêu nước là chiến tranh
nhân dân, đó là sự thể hiện sâu sắc tính nhân văn, dân chủ, nhân đạo trong tư
tưởng quân sự Hồ Chí Minh.
Mặt khác, phương thức tiến hành
khởi nghĩa và chiến tranh cách mạng của Hồ Chí Minh mang đậm tinh thần dân chủ,
sáng tạo trong việc động viên toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến. Từ
góc độ triết lý nhân văn, kháng chiến toàn dân chính là sự giải phóng động lực
nội tại của một cộng đồng dân tộc, quốc gia, giải phóng năng lực trí tuệ, sức
sáng tạo của toàn thể những con người có khát vọng sống trong tự do, độc lập.
Toàn dân kháng chiến gắn với toàn diện kháng chiến, chủ trương trên nhằm phát
huy hết mọi sức mạnh của toàn dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, không chỉ kháng
chiến bằng quân sự mà cả bằng chính trị, địch vận, ngoại giao, kinh tế và văn
hoá, tăng gia, sản xuất hay tản cư, phá hoại “làm vườn không nhà trống” cũng là
kháng chiến.
Trải qua hơn nửa thế kỷ đấu tranh
cách mạng, Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm
quý giá về sử dụng sức mạnh của quần chúng nhân dân với các hình thức đấu tranh
cách mạng. Đối với quân đội, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và bổ sung, phát
triển nhiều nội dung quan trọng của Học thuyết Mác - Lênin về quân đội phù hợp
với điều kiện lịch sử cụ thể của cách mạng nước ta. Trên cơ sở xây dựng lực
lượng chính trị rộng khắp của quần chúng để xây dựng các lực lượng vũ trang
nhân dân từ thấp đến cao, từ thô sơ đến hiện đại. Quân đội ta từ nhân dân mà
ra, vì nhân dân mà chiến đấu, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Quán triệt quan điểm của C.Mác,
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về bản chất quân đội, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: quân sự
không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại. Quân đội nhân dân
Việt Nam phải được xây dựng thành một đội quân cách mạng, mang bản chất giai
cấp công nhân, có tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc; quân đội của nhân dân,
do nhân dân xây dựng, vì nhân dân mà chiến đấu; một đội quân chiến đấu, sản
xuất, công tác.
Hồ Chí Minh giải quyết hết sức
đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa con người và vũ khí. Với quan điểm “người
trước, súng sau”, “vũ khí là cần, nhưng quan trọng hơn là người vác súng”. Do
đó, Người hết sức quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội, Người
chỉ thị cho ngành cung cấp (hậu cần) là phải làm thế nào để một bát gạo, một
đồng tiền, một viên đạn, một viên thuốc, một tấc vải, phải đi thẳng đến chiến
sỹ. Người yêu cầu cán bộ phải hết sức chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần
của cấp dưới và chiến sĩ. Cùng với khẳng định vai trò quyết định của nhân tố
con người trong sức mạnh chiến đấu của quân đội, Hồ Chí Minh không hề coi nhẹ
vai trò vũ khí, kỹ thuật. Ngay từ khi thành lập quân đội, Người đã chọn nhiều
cán bộ khoa học có phẩm chất, năng lực, trí tuệ, đặt nền móng vững chắc xây
dựng và phát triển ngành quân giới để bảo đảm vũ khí, kỹ thuật cho chiến đấu;
xây dựng cơ quan, đơn vị, nhà trường quân đội; xây dựng các quân chủng, binh
chủng ngày càng hiện đại, đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc giải phóng đất
nước trước đây cũng như sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ngày nay.
Đặc biệt, Hồ Chí Minh đã giải quyết thành công mối quan hệ giữa chính
trị và quân sự; trong mối quan hệ ấy “quân sự phục tùng chính trị” và “chính
trị biểu hiện ra trong lúc đánh giặc”[3].
Do đó, trong xây dựng quân đội và lực lượng vũ trang phải tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng, tăng cường công tác đảng, công tác chính trị; tăng cường huấn
luyện, rèn luyện để bộ đội phải tinh, sức chiến đấu phải mạnh; xây dựng kỷ
luật; xây dựng đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân, đoàn kết quốc tế.. Đồng
thời, Người căn dặn cán bộ phải học tư tưởng chiến lược, chiến thuật, học cách
dạy bộ đội đánh giặc, học phương pháp chỉ huy chiến đấu; phải kế thừa truyền
thống, kinh nghiệm quý báu của dân tộc, tinh hoa quân sự thế giới, khoa học -
nghệ thuật quân sự của giai cấp vô sản.
Hồ Chí Minh đã giáo dục cho quân
đội ta phải giúp đỡ mọi mặt đối với cách mạng các nước anh em. Người viết thư
động viên và nhắc nhở bộ đội: giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình.
Phải coi việc giúp bạn như chính việc của mình, phải tôn trọng, kính yêu bạn,
không được có tư tưởng ban ơn, bao biện làm thay.
Đối với nhân dân và quân đội các
nước xã hội chủ nghĩa, quân đội ta luôn thể hiện tinh thần đoàn kết quốc tế
trong sáng. Những lời huấn thị của Người luôn nhắc nhở quân đội ta làm tốt
nhiệm vụ quốc tế của mình. Đó là những biểu hiện rực rỡ của tính quốc tế và
tính thời đại của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh trong xây dựng, lãnh đạo Quân
đội nhân dân và lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quân đội mãi mãi soi sáng quá
trình xây dựng, trưởng thành, chiến đấu và chiến thắng của quân đội ta, một
quân đội luôn trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc
lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó
khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Cán bộ, chiến sỹ thương yêu
nhau như ruột thịt, chia ngọt, xẻ bùi. Quân với dân như cá với nước, đoàn kết,
học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau. Quân đội ta có tinh thần yêu nước chân chính và tinh
thần quốc tế cao cả.
Quân đội nhân dân Việt Nam trong suốt gần 80 năm chiến đấu, xây dựng, trưởng thành xứng đáng là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng ta, Nhà nước ta; là đội quân chiến đấu, đội quân sản xuất, đội quân công tác; giữ vững và tăng cường sự đoàn kết giữa Đảng với nhân dân, quân đội với nhân dân. Quân đội nhân dân Việt nam mãi mãi là của dân, do dân, vì dân, vì nhân dân mà chiến đấu; mãi mãi là “Bộ đội Cụ Hồ”; Quân đội nhân dân Việt Nam trở thành một di sản quân sự mang đậm tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
NHẬN DIỆN BẢN CHẤT CỦA “BẤT TUÂN DÂN SỰ”
TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
Rạng sáng 11/6/ 2023 Nhóm đối tượng dùng
vũ khí tấn công trụ sở UBND xã Ea Tiêu, Ea Ktur, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk đã
gây ra tổn thất nghiêm trọng về người và ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh,
trật tự tại địa phương...Đây là một hành động hết sức dã man cần được phân tích
sâu rộng, chỉ rõ nguồn gốc, bản chất của
hành động mà ngay cả những kẻ trực tiếp hành động cũng phải được biết.
Có thể khẳng định đây là một trong những
hành động “Bất tuân dân sự”. Vậy bản chất của “Bất tuân dân sự”tại Việt Nam
hiện nay là gì? Bài viết sau đây làm rõ vấn đề cần đề cập ở trên.
“Bất tuân dân sự” là khái niệm quen thuộc được sử dụng trong đời sống
chính trị các nước phươmg Tây. “Bất tuân dân sự” ra đời từ cách đây hơn 2000
năm, trải qua thời gian dài được nghiên cứu, bổ sung, áp dụng vào thực tiễn nên
nội hàm của khái niệm này ngày càng được hoàn thiện. Trong những năm gần đây,
“Bất tuân dân sự” đã hiện diện trên thực tế tại Việt Nam. Do nhiều nguyên nhân
khác nhau, cả chủ quan và khách quan, “Bất tuân dân sự” đã trở thành một trào
lưu nguy hiểm trong xã hội khi nó đã và đang kháng cự lại sự quản lý của chính
quyền các câp. Đặc biệt nguy hiểm hơn, khi “Bất tuân dân sự” đã có dấu hiệu sự
can dự, hướng lái của các thế lực thù địch, tiềm ẩn nguy cơ đe dọa đến sự tồn
vong của Đảng, của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Nhận diện bản chất của “Bất tuân dân sự” không chỉ
giúp lãnh đạo, chỉ huy đơn vị, các cơ quan chức năng, cán bộ, đảng viên, mọi
quân nhân, công nhân viên chức, người lao động nhận diện, phân biệt rõ ràng về
bản chất các hoạt động chống đối chính quyền của “Bất tuân dân sự”, mà còn giúp
xây dựng các biện pháp phòng ngừa, đối phó hiệu quả, kịp thời là vấn đề cấp
thiết hiện nay.
Qua nghiên cứu các quan điểm,
hoạt động và quá trình hình thành “Bất tuân dân sự”, có thể rút ra: “Bất tuân
dân sự” tại Việt Nam là hành động phản kháng của người dân khi quyền và lợi ích
bị xâm hại, bị các thế lực thù địch lợi dụng kích động tạo thành mâu thuẫn đối
kháng giữa người dân với chính quỵền, từ đó hình thành các phong trào phản
kháng Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ XHCN ở nước ta. “Bất tuân dân sự” tại Việt
Nam hiện nay đã ở mức nguy hiểm, có xu hướng phát triển thành phong trào, trở
thành nguy cơ tiềm ẩn đe dọa đến sự tồn vong của chế độ.
Về bản chất,
“Bất tuân dân sự” tại Việt Nam là những hoạt động nhằm vô hiệu hóa một hoặc nhiều
quyết sách của chính quyền bằng “sức mạnh hòa bình” của quần chúng; vô hiệu hoặc
làm giảm khả năng sử dụng công cụ bạo lực của chính quyền; thường được bắt đầu
một cách “tự phát”, “vô hại”, nhỏ lẻ, nhưng sau đó lây lan và được tổ chức khá
chặt chẽ. “Bất tuân dân sự” tại Việt Nam là hệ quả của quá trình tác động, thẩm
thấu, “chuyển hóa” lâu dài. Trong đó, các thế lực thù địch đã thẩm thấu các giá
trị, tư tưởng trái ngược lại quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của
Nhà nước Việt Nam khiến cho quần chúng nhân dân “nhờn luật”, hình thành tư tưởng
“phản kháng ý thức hệ” khi bị kích động hoặc xung đột về lợi ích và sự nhũng
nhiễu của một bộ phận tha hóa trong bộ máy công quyền…
Tăng cường dân chủ hóa đời sống xã hội
Trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã nhận thức rõ vai trò của dân chủ và tập
trung xây dựng thiết chế, hoàn thiện thể chế, đổi mới cơ chế và chính sách để
bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân. Nhận thức ngày càng rõ
vai trò, sức mạnh của dân chủ, tại Đại hội XII, lần đầu tiên “Phát huy dân chủ
xã hội chủ nghĩa” đã trở thành một thành tố của chủ đề Đại hội và tiêu đề của
Báo cáo Chính trị.
Phát huy nguồn lực
con người và dân chủ hóa đời sống xã hội có mối quan hệ và tác động biện chứng
lẫn nhau. Đó là hai vấn đề có chung một mục đích là tôn trọng con người, vì sự
phát triển toàn diện của con người. Dân chủ chủ hóa các lĩnh vực của đời sống
xã hội, tạo ra một môi trường xã hội lành mạnh, tự do để con người hoạt động
trong khuôn khổ pháp luật. Dân chủ hóa đời sống xã hội, tác động vào nhu cầu
chủ đạo của con người, vào khát vọng ngàn đời của người lao động là tự do và
công bằng xã hội. Thực tiễn lịch sử đã có không ít những bằng chứng hùng hồn về
sức mạnh rời non, lấp biển từ nhu cầu tự do của con người, của các giai cấp,
các dân tộc. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, nhu cầu đó cũng
có những yêu cầu và nội dung khác nhau. Vấn đề ở chỗ, muốn huy động được tối đa
năng lực của nhân dân lao động vào sự nghiệp cách mạng, các Đảng Cộng sản phải
luôn luôn quan tâm đến nhu cầu hàng đầu đó của người lao động.
Dân chủ hóa đời
sống xã hội, góp phần quan trọng vào việc khắc phục, hạn chế những tiêu cực kìm
hãm sự phát triển của con người, xâm phạm quyền con người, coi thường nhân phẩm
con người, do đó, kích thích tính tích cực, chủ động của con người, làm cho con
người và hoạt động của họ hướng tới cái thiện, cái đẹp và tính nhân đạo trong
cuộc sống của mình; có tinh thần trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm công dân cao
hơn trong lời nói và việc làm của họ. Một xã hội dân chủ thực sự của người lao
động vừa là điều kiện cơ bản, vừa đặt ra yêu cầu cao đối với việc không ngừng
hoàn thiện nhân cách của mỗi con người.
Cùng với tiến trình
đổi mới, quá trình dân chủ hóa đã diễn ra trong mọi lĩnh vực của đất nước. Về
kinh tế, mô hình kinh tế quan liêu bao cấp từng bước được thay thế bằng mô hình
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế là giá đỡ vật chất cho
dân chủ và quá trình dân chủ hóa. Trong nền kinh tế thị trường, người dân được
tự do kinh doanh những gì mà pháp luật không cấm và được khuyến khích làm giàu
hợp pháp, đảng viên cũng được làm kinh tế tư nhân. Xung lực to lớn mà dân chủ
trong kinh tế mang lại đã góp phần giải phóng tiềm lực trong dân, đưa nước ta
thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và danh sách nước nghèo.
Về chính trị, việc
đổi mới chính trị được tiến hành đồng bộ với đổi mới kinh tế đã tạo ra quá
trình dân chủ hóa của hệ thống chính trị. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng
định: “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” là một đặc trưng
và cũng là một phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Theo
đó, Nhà nước đảm nhiệm vai trò tạo dựng hành lang pháp lý và quản lý vĩ mô, còn
quản lý sản xuất và kinh doanh thuộc về các doanh nghiệp. Nền hành chính quốc
gia đã từng bước theo hướng nhà nước phục vụ, nhà nước kiến tạo. Quốc hội không
chỉ đóng vai trò là cơ quan lập pháp mà còn ngày càng thực hiện tốt vai trò
giám sát và phản biện chính sách. Hoạt động của Tòa án và Viện Kiểm sát cũng có
nhiều đổi mới như tăng cường vai trò của luật sư và sự tranh tụng tại tòa để
hạn chế sự oan sai.
Để quá trình dân chủ hóa tiếp tục được thực thi trên thực tế, cần tập trung giải quyết tốt một số nội dung, biện pháp, đó là: Nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về vấn đề dân chủ. Đổi mới công tác tổ chức cán bộ; tránh các hiện tượng “mua quan, bán tước”, minh bạch hóa công tác cán bộ, phải đổi mới hơn nữa công tác bầu cử, đẩy mạnh công tác tranh cử, phải coi trọng sự đánh giá của nhân dân về cán bộ và phát huy vai trò gương mẫu của người đứng đầu. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra và truyền thông để kịp thời ngăn chặn các hiện tượng phản dân chủ. Hoàn thiện thiết chế, chế tài phù hợp để hiện thực hóa vai trò, trách nhiệm phản biện của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
Thực hiện chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người
Chính sách xã hội
được coi là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách của Đảng và Nhà
nước; là động lực to lớn, phát huy tính năng động, sáng tạo của nhân dân trong
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng ta khẳng định: “Chính sách xã hội là chính sách chăm lo cho con người, vì
con người, lấy con người làm trung tâm, là chủ thể, mục tiêu, động lực, nguồn lực
để phát triển bền vững đất nước; là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng,
Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn xã hội; thể hiện đặc trưng, bản chất tốt đẹp
của chế độ xã hội chủ nghĩa; tăng trưởng kinh tế gắn với bảo đảm chính sách xã
hội; tạo điều kiện để Nhân dân được thụ hưởng thành quả của sự nghiệp đổi mới,
phát triển đất nước, nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc”[1].
Thực hiện chính
sách xã hội đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn phát triển của chủ nghĩa xã hội,
trước hết, có tác dụng kích thích tính tích cực, sáng tạo của con người. Động
lực quan trọng và chủ yếu nhất, thúc đẩy tính tích cực và sáng tạo của con
người là lợi ích. Phạm trù lợi ích ở đây được hiểu theo nghĩa rộng rãi nhất,
bao gồm lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần, lợi ích trước mắt và lợi ích lâu
dài, lợi ích của mỗi cá nhân và lợi ích tập thể, cộng đồng. Con người hoạt động
tích cực để cải tạo thế giới quan xung quanh mình, tác động vào tự nhiên và xã
hội là do sự thúc đẩy của lợi ích sống còn của họ, C. Mác chỉ rõ, mọi tư tưởng
sẽ tự làm nhục mình nếu tách rời khỏi lợi ích. Bất cứ lĩnh vực hoạt động sống
nào của con người mà ở đó họ không tìm thấy lợi ích của mình thì ở đó không thể
có bất cứ một thái độ tích cực và sáng tạo nào có tính chất bền vững. Chính
sách xã hội không chỉ quan tâm đến lợi ích của xã hội và tập thể lao động nói
chung, mà còn quan tâm đến lợi ích của mỗi con người cụ thể trong mối quan hệ
với lợi ích tập thể, lợi ích xã hội. Hoạt động tích cực và sáng tạo của nhân
dân lao động là vì lợi ích của mỗi con người trong mối quan hệ với lợi ích tập
thể và xã hội. Sự tuyệt đối hoá lợi ích tập thể và xã hội trước đây, đã làm hạn
chế tính tích cực, chủ động, sáng tạo của con người trong chủ nghĩa xã hội.
Để phát huy tốt hơn
nữa nguồn lực con người, cần tập trung thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội,
chính sách xoá đói, giảm nghèo nhằm giảm dần khoảng cách chênh lệch giữa các
tầng lớp dân cư, giữa các vùng miền. Tập trung giải quyết những vấn đề cấp bách
về lao động, việc làm, thu nhập, để người lao động có điều kiện nâng cao trình
độ tri thức, tay nghề, có môi trường rèn luyện phấn đấu, cống hiến và nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần. Phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện
công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng
suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến
khích nhân dân làm giàu hợp pháp. Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm
an toàn và vệ sinh lao động, phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho người
lao động. Thực hiện đồng bộ chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ, nếp sống,
nhằm tăng tuổi thọ và phát triển giống nòi.
[1] Đảng
Cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Hội nghị lần thứ Tám, Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội - 2023






















