Chủ Nhật, 23 tháng 6, 2024

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

 Nhân kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại và chào mừng ngày bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026, Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Ðảng Cộng sản Việt Nam có bài viết quan trọng "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam".

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Xuất phát từ góc nhìn thực tiễn của Việt Nam, bài viết của Tổng Bí thư đặt ra nhiều vấn đề vừa trước mắt vừa cơ bản, lâu dài. Một trong những vấn đề lý luận và thực tiễn cốt tủy của bài viết là tác giả chỉ rõ dưới ánh sáng của chủ nghĩa xã hội khoa học do Mác, Ăng-ghen, Lê-nin sáng lập, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội và định hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nêu lên những gam màu chủ đạo như là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng Bí thư khẳng định "chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ðảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi". Một luận điểm căn cốt trong bài viết của người đứng đầu Ðảng ta là: "Ðộc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh".

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nhằm cung cấp thêm những luận cứ khoa học để củng cố niềm tin vững chắc cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện khát vọng phát triển một nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, hùng cường, cùng nhịp bước với thời đại, sánh vai với các cường quốc năm châu, thực hiện thành công tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh và ước vọng của toàn dân tộc ta.

Như chúng ta đều biết, các phong trào giải phóng dân tộc theo con đường phong kiến và con đường tư sản cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đều không giành được thắng lợi. Hệ tư tưởng phong kiến và hệ tư tưởng tư sản bất lực trước các nhiệm vụ lịch sử. Các phong trào đó thiếu một giai cấp tiên tiến đủ sức lãnh đạo cách mạng, dẫn tới sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước.

Trong khi các con đường cứu nước chưa tìm được lối ra, với lòng nồng nàn yêu nước thương dân, khát vọng giải phóng dân tộc, Nguyễn Tất Thành tự chọn con đường đi của mình. Thông qua tìm hiểu các con đường cứu nước khác nhau, khảo sát, hoạt động thực tiễn và nghiên cứu lý luận, đến tận các nước tư bản phát triển, sống trong phong trào công nhân và các dân tộc bị áp bức, nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản điển hình trên thế giới, cuối cùng sau mười năm tìm đường, Nguyễn Ái Quốc đã chọn giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản, tức độc lập dân tộc đi tới chủ nghĩa xã hội. Người khẳng định chỉ chủ nghĩa Mác - Lê-nin là chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất. Nhớ lại con đường từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Lê-nin, Người nói "Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lê-nin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ".

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, những cuộc cách mạng tư bản, tuy thành công nhưng không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, nhưng kỳ thực thì nó vẫn đi tước đoạt công nông, áp bức thuộc địa, nhân dân vẫn cực khổ, lo tính cách mạng lần nữa. Từ thực tiễn sống động đó, Nguyễn Ái Quốc rút ra kết luận "Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc".

Cần phải nhắc lại rằng 72 năm từ lúc thực dân Pháp xâm lược đến khi Ðảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thời gian đủ để khảo nghiệm các con đường cứu nước. Trong các con đường đó có cả con đường tư sản với những gương mặt tiêu biểu như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh. Nhưng như chính Phan Bội Châu đã tự nói về mình, "rằng đời tôi trăm thất bại mà không một thành công, là bởi tôi có lòng mà thật bất tài". Cái "bất tài" mà cụ Phan nói đến là cụ chưa nhận ra con đường tư sản không phù hợp với xu thế của lịch sử lúc bấy giờ, không hợp quy luật khách quan trong thời đại mới được mở ra từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười. Phan Bội Châu nói đại ý rằng, hiện nay đã có người khác giỏi hơn chúng tôi nhiều đứng ra đảm đương công việc để làm trọn cái việc mà lớp chúng tôi không làm xong. Ðó chính là Nguyễn Ái Quốc. Nếu Nam Ðàn có Thánh thì chính là ông Nguyễn Ái Quốc chứ không phải là ai khác. Phan Châu Trinh cũng đặt kỳ vọng khi khẳng định Nguyễn Ái Quốc như cây đương lộc, nghị lực có thừa, dày công học hỏi, lý thuyết tinh thông. Nhắc lại sự kiện đó để chúng ta có cơ sở chắc chắn bác bỏ ý kiến cho rằng chúng ta đã chọn con đường đi sai.

Năm 1930, trong các văn kiện thành lập Ðảng, Hồ Chí Minh khẳng định "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Ðó chính là độc lập dân tộc đi tới chủ nghĩa xã hội. Một trong những vấn đề lý luận cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh là giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Theo Người, với xã hội Việt Nam thuộc địa, giành độc lập dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, là điều kiện tiên quyết để phát triển đất nước. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì, tức là độc lập dân tộc phải đi tới chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là thước đo giá trị của độc lập dân tộc.

Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam từ khi có Ðảng. Nhờ sức mạnh của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đã giành được thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, giải phóng miền nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Giải quyết mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một đột phá lý luận rất cơ bản, thể hiện bản lĩnh, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ðảng ta.

Cống hiến đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ ở chỗ khẳng định tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chủ nghĩa nhân văn và văn hóa, phát triển, tiến bộ không ai ngăn cản được, mà còn sớm trả lời câu hỏi "chủ nghĩa xã hội là gì?", đi đến khẳng định đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Theo Người, chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh; làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng; là nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; là làm cho mọi người được ăn no, mặc ấm, được sung sướng, tự do; là gắn với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và văn hóa. Chủ nghĩa xã hội là một chế độ không có người bóc lột người, một xã hội bình đẳng, ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng, trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con. Chủ nghĩa xã hội là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, địa vị cao nhất là dân;...

Chủ nghĩa xã hội trong kho tàng tư tưởng Hồ Chí Minh là một xã hội do nhân dân làm chủ và là chủ, quyền lực thuộc về nhân dân; một xã hội vì con người, do con người; con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của chủ nghĩa xã hội. Ðảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, bảo đảm tự do, hạnh phúc của nhân dân. Chủ nghĩa xã hội như vậy bao gồm phát triển kinh tế, văn hóa, đạo đức, xã hội và môi trường, cho hôm nay và mai sau. Với tầm nhìn khởi xướng sự nghiệp xóa đói, giảm nghèo, tăng giàu, phát triển kinh tế đi liền với tiến bộ và công bằng xã hội, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, chữa bệnh, Hồ Chí Minh đặt nền móng cho phát triển bền vững khi Người chú trọng ba trụ cột: kinh tế, xã hội và môi trường với những quan điểm về xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực, quan tâm giáo dục tiểu học, thực hiện bình đẳng nam nữ và nâng cao vị thế cho phụ nữ, giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em, phòng, chống bệnh tật, chăm lo sức khỏe cho bà mẹ và nhân dân, hợp tác kinh tế quốc tế, thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì phát triển. Di sản Hồ Chí Minh đặt nền móng và là chỉ dẫn để Ðảng ta đề ra cương lĩnh, đường lối xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh.

Hồ Chí Minh là một nhà lý luận - thực tiễn. Dưới ánh sáng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng và hành động của Người luôn xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, nhận thức đúng và hành động theo quy luật khách quan. Người đưa ra hệ giải pháp khoa học để thực hiện có hiệu quả mục đích của chủ nghĩa xã hội. Nhận thức đúng đắn về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam do điểm xuất phát thấp của một nước nông nghiệp lạc hậu, khoa học - kỹ thuật kém phát triển, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, Hồ Chí Minh chỉ rõ chúng ta không được chủ quan, nóng vội, duy ý chí; không giáo điều, bảo thủ; không rập khuôn, máy móc. Phải làm dần dần từng bước, vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Tự lực cánh sinh kết hợp với học hỏi sáng tạo kinh nghiệm các nước, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước bạn. Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của cả hệ thống chính trị, của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Ðảng. Xây dựng và phát huy nhân tố con người có hàm lượng cao về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, bản lĩnh, tư duy đổi mới, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm. Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học - kỹ thuật, xây dựng nền văn hóa dân tộc, khoa học, đại chúng, nhân văn, hướng đến các giá trị chân - thiện - mỹ. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân. Chủ nghĩa xã hội phải gắn kết chặt chẽ giữa xây cái đúng, cái tốt, cái đẹp với chống cái sai, cái ác, cái xấu, đặc biệt phải xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu và những hư hỏng, bệnh tật khác.

Hồ Chí Minh là nhà tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn sâu sát, khoa học. Nhờ tư tưởng, đạo đức, phong cách và phương pháp của Người trong chỉ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội mà chỉ trong khoảng mười năm (1954 - 1964), miền bắc đã tiến những bước dài chưa từng có. Ðất nước, xã hội và con người đều đổi mới. Thành quả của chủ nghĩa xã hội không chỉ là mong ước tốt đẹp của dân tộc ta, mà đó còn là giá trị đích thực của chế độ xã hội chủ nghĩa, tạo nên sức mạnh và nguồn cảm hứng to lớn đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, để lại dấu ấn tốt đẹp trong lòng bè bạn quốc tế.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được hình thành, từng bước phát triển từ thập kỷ 20 của thế kỷ 20, nhưng vẫn vẹn nguyên giá trị, mở đường đổi mới, soi sáng tương lai, trường tồn cùng dân tộc và nhân loại. Qua 35 năm đổi mới, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đất nước đã tiến những bước dài chưa từng có, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Ðại hội XIII của Ðảng khẳng định: "Ðất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay".

Với tư cách là một nhà biện chứng, có tầm dự báo chiến lược thiên tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy trước nhiệm vụ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn là rất to lớn, nặng nề, khó khăn, phức tạp. Người coi đó là một cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Theo Người, muốn giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ đó, phải tập trung trước tiên là chỉnh đốn lại Ðảng với tư cách là Ðảng cầm quyền; giữ gìn sự đoàn kết trong Ðảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình; thực hành dân chủ rộng rãi; thường xuyên, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình; cán bộ, đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Ðảng ta thật trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Phải chăm lo công việc đối với con người, chú trọng bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau vừa hồng vừa chuyên. Cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân.

Ðó cũng chính là những khía cạnh căn cốt mà Ðại hội XIII của Ðảng đề cập, được Tổng Bí thư nhấn mạnh trong phần cuối của bài viết theo tinh thần "Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững đã và đang được những nhà cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học".

                                                                                        Nguon: nhandan.vn

Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong tác phẩm Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

 Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một trong những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản, có nội dung rộng lớn, phong phú, phức tạp. Trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Đảng ta luôn bổ sung, phát triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó có nhận thức về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vấn đề này một lần nữa được làm sâu sắc hơn trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.


Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Nhà máy chè Sen Cha, Công ty cổ phần đầu tư phát triển chè Tam Đường ở xã Bản Bo, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu_Ảnh: TTXVN


Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Nhà máy chè Sen Cha, Công ty cổ phần đầu tư phát triển chè Tam Đường ở xã Bản Bo, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu_Ảnh: TTXVN

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của đất nước, từng bước xây dựng, hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó có quan niệm về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, trước đây quan niệm về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam còn bộc lộ một số hạn chế; về cơ bản chưa đề ra được cách thức, biện pháp của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Hệ quả, kinh tế - xã hội rơi vào khủng hoảng ngày càng trầm trọng vào cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX.


Để đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới (năm 1986), mà trước hết là đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Chính vì vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lần đầu tiên Đảng ta phác thảo ra mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong đó có nhận thức mới về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Qua các kỳ Đại hội sau đó, Đảng ta tiếp tục bổ sung, phát triển, làm cho “lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”(1). Vấn đề này một lần nữa được làm sáng rõ, sâu sắc hơn trong tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.


Trước hết, nội dung trong tác phẩm đã khẳng định tính tất yếu của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh… Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định: Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam”(2).


Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội là gì và bằng cách nào để đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện Việt Nam là một vấn đề không hề đơn giản cả về lý luận và thực tiễn, “đó là điều mà chúng ta luôn luôn trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi, lựa chọn để từng bước hoàn thiện đường lối, quan điểm và tổ chức thực hiện, làm sao để vừa theo đúng quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam”(3). Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(4).


Chủ nghĩa Mác - Lê-nin cho rằng, để chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội đã lỗi thời, lạc hậu lên hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn phải trải qua một thời kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ quá độ dài hay ngắn tùy thuộc vào điều kiện, đặc điểm, cách thức, biện pháp đi lên xây dựng chế độ mới của từng quốc gia - dân tộc. Vậy, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như thế nào? Đây là vấn đề không đơn giản, bởi trước đổi mới chúng ta còn nhiều hạn chế trong nhận thức và hành động, muốn đốt cháy giai đoạn. Tổng kết thực tiễn cách mạng, nhất là thực tiễn của công cuộc đổi mới xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội; từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như: đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản...”(5). Vì vậy, “quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn và phức tạp, vì nó phải tạo sự biến đổi sâu sắc về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách chống phá nên càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển”(6).


Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải thực hiện đồng thời các phương hướng, nhiệm vụ:


Một là, “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức”(7). Đây là nhiệm vụ cơ bản của thời kỳ quá độ, chuẩn bị đầy đủ điều kiện kinh tế - xã hội của chủ nghĩa xã hội. Để chăm lo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân trước hết phải đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, trong đó công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là nội dung cốt lõi để thực hiện mục tiêu đó, nhất là trong điều kiện chịu tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thì vai trò của kinh tế tri thức ngày càng quan trọng. Để thực hiện mục tiêu này, phải phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, từng bước hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nước ta trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.


Hai là, “phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”(8). Cùng với quá trình phát triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội ngày càng đúng, đầy đủ, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, thì nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng từng bước được hình thành và phát triển. Theo đó, “đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới. Theo nhận thức của Đảng ta, “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ)”(9).


Bốc, xếp hàng hóa xuất khẩu tại cảng Hải Phòng_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn


Bốc, xếp hàng hóa xuất khẩu tại cảng Hải Phòng_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng còn chỉ rõ, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay “có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội”(10).


Ba là, “xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”(11). Xây dựng nền văn hóa và con người xã hội chủ nghĩa là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong thời kỳ quá độ lên xây dựng chế độ mới. Xóa bỏ những tàn dư, yếu tố văn hóa lạc hậu cản trở sự phát triển của xã hội; giữ gìn, phát huy giá trị bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao”(12).


Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người. Vì vậy, trong phát triển kinh tế phải gắn với nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Theo đó, “phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(13).


Bốn là, “bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”(14). Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội gắn liền với bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong đó, phương châm đặt ra cần thực hiện là phải bảo đảm tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Đây là điều kiện góp phần ổn định chính trị, xã hội để phát triển đất nước trong điều kiện đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.


Năm là, “thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”(15). Thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở trên tinh thần chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, vì lợi ích của mỗi quốc gia - dân tộc và lợi ích của toàn nhân loại. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội, để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Đảng lãnh đạo và cầm quyền, trong khi xác định phương hướng chính trị và đề ra quyết sách, không thể chỉ xuất phát từ thực tiễn của đất nước và dân tộc mình, mà còn phải nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm từ thực tiễn của thế giới và thời đại. Trong thế giới toàn cầu hóa như hiện nay, sự phát triển của mỗi quốc gia - dân tộc không thể biệt lập, đứng bên ngoài những tác động của thế giới và thời đại, của thời cuộc và cục diện của nó. Chính vì vậy, chúng ta phải chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi”(16).


Sáu là, “xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại”(17). Dân chủ hóa đời sống xã hội đang là xu thế chung của sự phát triển loài người. Để thể hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ, mở rộng quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội. Tạo ra sự đồng thuận xã hội, củng cố, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam”(18). 


Bảy là, “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”(19). Cùng với quá trình phát triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thì nhận thức về vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân cũng từng bước được hình thành và phát triển. Theo đó, “chúng ta nhận thức rằng, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư sản là ở chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”(20). Vì vậy, “chúng ta chủ trương không ngừng phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng; có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp và dân chủ đại diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã hội”(21).


Tám là, “xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện”(22). Yếu tố quyết định nhất của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phải xây dựng Đảng xứng đáng là hạt nhân của hệ thống chính trị, lãnh đạo, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý phát triển đất nước. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa… Đảng ta kiên trì lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên; thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ. Ý thức được nguy cơ đối với đảng cầm quyền là tham nhũng, quan liêu, thoái hóa..., nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra yêu cầu phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, thoái hóa,... trong nội bộ Đảng và trong toàn bộ hệ thống chính trị”(23). 


Như vậy, để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, phải xác định đúng đặc điểm, nội dung, thực chất của thời kỳ quá độ, để từ đó đề ra phương hướng, nhiệm vụ cần thực hiện đúng định hướng. Đây là thời kỳ có sự đấu tranh, đan xen giữa cái cũ và cái mới, giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Đảng ta nhận thức rằng, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình xây dựng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số lĩnh vực. Sự đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và quyết liệt trong điều kiện cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế. Bên cạnh thành tựu, những mặt tích cực, sẽ luôn có những mặt tiêu cực, thách thức cần được xem xét một cách tỉnh táo và xử lý một cách kịp thời, hiệu quả. Đó là cuộc đấu tranh rất gay go, gian khổ, đòi hỏi phải có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sức sáng tạo mới. “Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình không ngừng củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa để các nhân tố đó ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành công hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”(24). Đây là những chỉ dẫn có ý nghĩa rất quan trọng đối với Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình lãnh đạo phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân cần tiếp tục nghiên cứu, quán triệt trong nhận thức và hành động để từng bước hiện thực hóa chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

                                                                                                                        Nguon: Baokhanhhoa.vn


Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đáp ứng đúng khát vọng của nhân dân Việt Nam

 rao đổi với Báo Điện tử Chính phủ về bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam", PTS.TS Đỗ Thị Thạch, nguyên Viện trưởng Viện Chủ nghĩa Xã hội Khoa học-Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến yếu tố con đường đi lên CNXH dù có khó khăn, phức tạp, đối với những nước có điểm xuất phát thấp thì còn khó khăn, phức tạp hơn nhiều lần nhưng không thể nóng vội bởi xã hội xã hội chủ nghĩa là hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người

PGS.TS Đỗ Thị Thạch

"Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử", những luận điểm trong bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ điều trên, từ đó góp phần giúp toàn Đảng, toàn dân nhận thức đầy đủ hơn và kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, bà có nhận xét như thế nào về vấn đề này, thưa bà?

PGS.TS Đỗ Thị Thạch: Đây là luận điểm hết sức khoa học, bởi vì, cả về lý luận và thực tiễn đã khẳng định: CNXH và sự lựa chọn con đường đi lên CNXH của Đảng ta và của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đáp ứng đúng khát vọng của nhân dân Việt Nam, hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.

Trước hết, CNXH có mục tiêu cao cả là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện; là một chế độ xã hội mà con người được tự do, sống hòa bình và hữu ái giữa các cộng đồng, không còn áp bức, bóc lột, bất công, một xã hội thực sự vì con người. Là một xã hội như đồng chí Tổng Bí thư đã viết: “… phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội…, nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn…, phát triển bền vững, hài hòa để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai…”.

Rõ ràng, đây là những khát vọng, mong ước tốt đẹp không chỉ của nhân dân Việt Nam mà của cả nhân loại.

Thứ hai, thực tiễn lịch sử cũng đã chứng minh, nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, hy sinh chống lại sự cường quyền, áp bức của các thế lực ngoại xâm để giành và giữ nền độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Đường lối xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH”. Ngay trong bài của Tổng Bí thư cũng đã viết: Chỉ có CNXH mới có thể giải quyết căn cơ vấn đề độc lập cho dân tộc và cuộc sống tự do, hạnh phúc cho số đông nhân dân. Thực tiễn Việt Nam, từ khi có Đảng Cộng sản, có Nhà nước XHCN, nhất là 35 năm đổi mới đã chứng minh điều này.

Thứ ba, hiện nay, chủ nghĩa tư bản (CNTB), nhất là ở một số nước tư bản phát triển đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế, khoa học và công nghệ; có sự điều chỉnh nhất định về sở hữu, an sinh xã hội… làm cho diện mạo của CNTB khác nhiều so với trước đây. Tuy nhiên, như ý kiến của Tổng Bí thư, “CNTB không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó”, do vậy các cuộc khủng hoảng về nhiều mặt tiếp tục diễn ra. Chẳng hạn là khủng hoảng trong việc giải quyết dịch bệnh COVID–19 hiện nay đang làm trầm trọng thêm các mâu thuẫn, xung đột, bạo lực dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, biểu tình, bãi công… không chỉ ở thế giới tư bản, mà còn đặt ra nhiều thách thức vô cùng to lớn cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại.

Chắc chắn đây không phải là chế độ xã hội mà nhân dân Việt Nam mong đợi, càng không phải là tương lai của nhân loại. Nhân dân Việt Nam cần một xã hội “mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người…”.

Cuối cùng, thực tiễn 35 năm đổi mới đất nước, những thành tựu đạt được trên các lĩnh vực, có thể nói, “xét trên nhiều phương diện, người dân Việt Nam ngày nay có các điều kiện sống tốt hơn so với bất cứ thời kỳ nào trước đây”. Rõ ràng “phát triển theo định hướng XHCN không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản có cùng mức phát triển kinh tế”.

Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, do điểm xuất phát và hoàn cảnh đi lên CNXH của nước ta có rất nhiều khó khăn, đặc thù, do vậy, cần có sự nỗ lực, quyết tâm rất lớn của toàn Đảng, toàn dân và cần có một thời gian quá độ không ngắn, mới có thể đạt tới xã hội XHCN như mong muốn.

Thưa bà, trong bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có nhấn mạnh, trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích, xin bà có thể nói rõ hơn về vấn đề này?

PGS.TS Đỗ Thị Thạch: Như chúng ta đã biết, hệ thống chính trị của hầu hết các nước trên thế giới ngày nay đều được cấu trúc bởi chủ thể: Đảng chính trị, Nhà nước và nhân dân là ba chủ thể cấu thành nên. Tùy theo vai trò, chức năng và mối quan hệ giữa các chủ thể này mà hình thành nên những hệ thống chính trị có những đặc điểm và bản chất chính trị khác nhau ở các nước trên thế giới. Ở nước ta, ngay từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa được xác lập, Đảng ta đã khẳng định: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhưng người chủ của đất nước là nhân dân. Như trong bài viết của đồng chí Tổng Bí thư: “… một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”. Đây là đặc điểm cơ bản nhất, thể hiện bản chất của chế độ ta, là cơ chế vận hành của xã hội ta.

Do vậy, nội hàm của luận điểm nêu trên, theo tôi cần được hiểu là:

Nhân dân là người chủ của đất nước, lợi ích của đất nước là lợi ích của nhân dân, sức mạnh của đất nước là sức mạnh của nhân dân. Sứ mệnh, vai trò của Đảng, của Nhà nước là bảo vệ, phục vụ nhân dân. Quyền lực chính trị của Đảng, quyền lực của Nhà nước là do nhân dân ủy quyền. Đảng viên của Đảng, cán bộ, công chức của Nhà nước là con em của nhân dân, được dân nuôi dưỡng, tạo cho điều kiện làm việc để phục vụ nhân dân, phải là “công bộc”, “đầy tớ” của nhân dân.

Đảng thông qua Nhà nước lãnh đạo toàn xã hội phát triển theo đúng con đường xã hội chủ nghĩa. Nhà nước là tổ chức quyền lực của nhân dân, thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật, tổ chức quản lý, điều hành xã hội để hiện thực đường lối chính trị của Đảng, hành động vì quyền lợi của nhân dân, điều gì có lợi cho dân phải cố gắng làm, điều gì có hại cho dân phải hết sức tránh, chăm lo phát triển, bồi dưỡng và tiết kiệm sức dân như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Do vậy: “Mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Nhân dân là người chủ xã hội, cho nên nhân dân không chỉ có quyền, mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định, thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Chính vì thế, cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ trở thành một trong những mối quan hệ lớn cần được tăng cường nắm vững và giải quyết hiện nay nhằm hiện thực hóa mục tiêu: “Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích” như ý kiến của đồng chí Tổng Bí thư nêu trong bài viết.

“Nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản”, đây cũng là luận điểm quan trọng trong bài viết của Tổng Bí thư, bà có thể phân tích cụ thể hơn về điều này, thưa bà?

PGS.TS Đỗ Thị Thạch: Đi lên CNXH là “điều không tránh khỏi” đối với tất cả các quốc gia (Lenin). Tuy nhiên, đi lên CNXH như thế nào, bằng con đường nào thì mỗi quốc gia cũng “hoàn toàn không giống nhau”. Phải kết hợp tính phổ biến và tính đặc thù để tìm ra con đường, cách thức xây dựng CNXH vừa đúng với quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia. Theo đó, đi lên chủ nghĩa xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ là một tất yếu nhằm  chuẩn bị mọi điều kiện vật chất, kỹ thuật, đời sống tinh thần của chủ nghĩa xã hội, tạo sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là thời kỳ khó khăn, phức tạp, đối với những nước có điểm xuất phát thấp thì còn khó khăn, phức tạp hơn nhiều lần.

Do vậy, Việt Nam đi lên CNXH “nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và cái mới”, như ý kiến của đồng chí Tổng Bí thư là hoàn toàn chính xác.

Đồng thời, đi lên CNXH “bỏ qua chế độ TBCN” cũng là phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử loài người, không phải là “dị biệt”. Tuy nhiên, phải hiểu đầy đủ, thực chất của nội dung “…bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”, là bỏ qua cái gì, không bỏ quá cái gì. Điều này ở Việt Nam chỉ thực sự được làm rõ trong thời kỳ đổi mới. Tại Đại hội lần thứ IX (2001), lần đầu tiên, Đảng ta có quan điểm mới, rõ ràng về vấn đề “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”.

Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là “bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa”. Nghĩa là không để cho các yếu tố của chủ nghĩa tư bản “giữ vị trí thống trị”. Có như vậy, mới khắc phục được “tình trạng áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư, tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa”, như ý kiến của đồng chí Tổng Bí thư.

“Tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”. Như vậy, “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” chứ “không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản”.

Tuy nhiên, đồng chí Tổng Bí thư cũng lưu ý: “việc kế thừa những thành tựu này, phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển”.

Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, hiện nay điều này đã được thực hiện như thế nào ở nước ta, thưa bà?

PGS.TS Đỗ Thị Thạch: Ngay trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thì kỳ quá độ lên CNXH, bổ sung, phát triển năm 2011, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam xây dựng có 8 đặc trưng. Với tám đặc trưng này, chứng tỏ CNXH mà nhân dân ta xây dựng sẽ đáp ứng mục tiêu xây dựng "một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Mô hình CNXH này cũng chính "là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người".

Chúng tôi rất nhất trí với nhận xét, đánh giá của đồng chí Tổng Bí thư khi nói về những thành tựu của thực tiễn 35 năm đổi mới đã minh chứng cho việc giải quyết hài hòa giữa lợi ích quốc gia và lợi ích chính đáng của từng người dân, vì nó đã “… đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm…; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố”. Xét trên nhiều phương diện, có thể thấy, “người dân Việt Nam ngày càng có điều kiện sống tốt hơn so với bất kỳ thời kỳ nào trước đây”. So với nhiều quốc gia có cùng trình độ phát triển kinh tế, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam cao hơn khá nhiều. Trong đại dịch COVID-19, những thành công đạt được trong việc hỗ trợ người dân chăm lo sức khỏe, phát triển kinh tế, ổn định đời sống đã minh chứng ở Việt Nam “không ai bị bỏ lại phía sau”. Chúng ta không chỉ tăng trưởng kinh tế mà còn giải quyết được nhiều vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế.

Mặc dù, vẫn còn những hạn chế, thách thức trong giải quyết hài hòa lợi ích quốc gia với lợi ích chính đáng của từng cá nhân, nhưng với những kết quả đạt được trên thực tế trong những năm qua ở Việt Nam, chúng ta hoàn toàn tin tưởng chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng là một xã hội hướng tới các giá trị đích thực vì con người, sẽ không “có sự cạnh tranh chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm”, không có “vì lợi nhuận mà bóc lột chà đạp lên phẩm giá con người”, không có kiểu “cạnh tranh bất công”, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số cá nhân và các phe nhóm…”, như ý kiến của đồng chí Tổng Bí thư.

                                                                                                                Nguon: baochinhphu.vn

Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

 hực tiễn hơn 35 năm đổi mới đất nước cho thấy, Đảng ta đã không ngừng đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Những thành tựu Việt Nam đạt được thời gian qua đã khẳng định tính đúng đắn, sự sáng tạo về con đường đi lên CNXH ở nước ta.

di len chu nghia xh
Ảnh minh họa

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH

Trên cơ sở tổng kết, phát hiện các quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội loài người, C.Mác đã rút ra kết luận: “Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”(1). Quá trình ấy phải trải qua các chế độ: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản và tất yếu sẽ tiến lên cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là CNXH.

Tuy nhiên, các nhà kinh điển cũng chỉ rõ, mặc dù sự thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, nhưng sự thay thế ấy bao giờ cũng trải qua một quá trình biến đổi, chuyển đổi, đó là thời kỳ quá độ.

Thời kỳ quá độ là một tất yếu lịch sử, có thể diễn ra lâu dài và độ dài ngắn của thời kỳ quá độ ở mỗi nước phụ thuộc vào xuất phát điểm của nước đó khi bước vào thời kỳ quá độ, cũng như những nhân tố tác động khách quan của thời đại. Trong quá trình lịch sử - tự nhiên đó, học thuyết Mác - Lênin cũng khẳng định quá độ lên CNXH là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội tư bản chủ nghĩa (TBCN) lên xã hội cộng sản chủ nghĩa. Như vậy, quá độ lên CNXH là tất yếu khách quan và là một thời kỳ lâu dài với nhiều con đường, bước đi với những nội dung, tính chất và đặc thù khác nhau. Dù phải trải qua nhiều bước ngoặt, nhiều thăng trầm với sự liên tục và đứt đoạn, quanh co, khúc khuỷu, nhưng đó là sự phát triển, tiến bộ đi lên của lịch sử nhân loại. Bên cạnh đó, học thuyết Mác - Lênin cũng dự báo khả năng bỏ qua chế độ TBCN đối với một số nước trong những điều kiện cụ thể.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH, đồng thời có sự vận dụng, phát triển sáng tạo phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam. Người nhận thức rõ Việt Nam có đặc thù riêng, có phong tục, tập quá, lịch sử riêng, nên bên cạnh việc học tập kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) khác, cần phải có phương pháp xây dựng CNXH gắn với thực tiễn và lịch sử của Việt Nam. Hơn nữa, công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam, ngoài sự tác động của những yếu tố khách quan, còn phụ thuộc nhiều vào nhận thức và quá trình hiện thực hóa. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn tiến lên CNXH thì không phải “cứ ngồi mà chờ” là sẽ có được CNXH. Trong đó, về mặt kinh tế, phải tạo ra những điều kiện cần và đủ về cơ sở vật chất; về mặt chính trị, Đảng phải lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện để tiến lên CNXH…

Việt Nam quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN thực chất là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt là khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại(2). Như vậy, bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam chỉ là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN; còn những thành tựu đạt được dưới chủ nghĩa tư bản (CNTB), đặc biệt là khoa học, công nghệ thì chúng ta phải tiếp thu, kế thừa để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.

Quá độ lên CNXH là một tất yếu lịch sử. Cho dù hiện nay, bằng những cố gắng thích nghi với tình hình mới, CNTB vẫn đang có những thành tựu phát triển, nhưng vẫn không vượt qua khỏi giới hạn của nó. CNTB không phải là tương lai của nhân loại. Trước mắt, CNTB còn có tiềm năng phát triển kinh tế, nhờ ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ, cải tiến phương pháp quản lý, thay đổi cơ cấu sản xuất, điều chỉnh các hình thức sở hữu và chính sách xã hội. Tuy vậy, mâu thuẫn cơ bản vốn có của CNTB giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN ngày càng sâu sắc. Mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân rộng rãi với giai cấp tư sản, giữa các tập đoàn tư bản độc quyền, các công ty xuyên quốc gia, các trung tâm tư bản lớn tiếp tục phát triển. Mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển ngày càng tăng lên. Chính sự vận động của tất cả những mâu thuẫn đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động các nước sẽ quyết định số phận của chủ nghĩa tư bản(3). Mặc dù CNXH hiện đứng trước nhiều khó khăn, thử thách; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử.

SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀO THỰC TIỄN ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC

Vận dụng và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện lịch sử của cách mạng Việt Nam, từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định, theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến lên CNXH và kiên định con đường đó, điều này càng được thể hiện rõ hơn qua các thời điểm mang tính chất bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đường lối tiến lên CNXH của Đảng ta thường xuyên được điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện, phù hợp với tiến trình phát triển và điều kiện lịch sử nhất định của từng thời kỳ. Từ những năm 1930, Đảng ta đã xác định rõ con đường cách mạng của nước ta là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(4).

Bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, trong đó và trước hết là đổi mới tư duy lý luận, Đảng ta đã nhận thức sâu sắc hơn về lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta, bỏ qua chế độ TBCN. Ngay từ Đại hội VI (năm 1986), Đảng ta khẳng định từ CNTB lên CNXH phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài, là một tất yếu khách quan; thời kỳ quá độ ở nước ta do tiến thẳng lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN nên càng phải lâu dài và khó khăn hơn. Đến Đại hội IX (năm 2001), Đảng ta đã có bước phát triển mới về nhận thức bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại... Các Đại hội X, XI, XII tiếp tục bổ sung, điều chỉnh và hoàn thiện về nhận thức thời kỳ quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN, đồng thời có những đóng góp vào lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về CNXH. Đặc biệt, Đại hội XIII của Đảng (2021) đã đề ra định hướng phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ là: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường…, tháo gỡ kịp thời những khó khăn vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước”(5).

Hiện nay, nước ta quá độ lên CNXH trong bối cảnh cách mạng khoa học và công nghệ có sự phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang làm thay đổi mọi phương diện của đời sống kinh tế - xã hội, tất cả các nước đều ở trong mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, Việt Nam sẽ tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý, phục vụ cho việc phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH. Do đó, quá độ lên CNXH là con đường phát triển hợp quy luật khách quan. Sau CNTB nhất định phải là một xã hội tốt đẹp hơn - đó là chế độ CNXH. Sự phát triển khoa học và công nghệ, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tạo ra tiền đề vật chất cho những nước có thu nhập trung bình như nước ta khả năng bỏ qua CNTB quá độ lên CNXH nếu chúng ta biết tranh thủ, vận dụng những thành tựu khoa học và công nghệ của thế giới, sớm đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật và nền kinh tế theo hướng hiện đại. Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN thực chất là nhà nước ta tự đảm nhận nhiệm vụ lịch sử phát triển sức sản xuất của lao động xã hội, tự tạo lập những điều kiện vật chất của sản xuất và những quan hệ xã hội tương ứng với điều kiện vật chất ấy, làm cơ sở hiện thực cho CNXH. Mặc dù nước ta không trải qua giai đoạn phát triển TBCN với tư cách là một hình thái kinh tế - xã hội thống trị, nhưng về phương diện kinh tế phải tôn trọng quá trình phát triển tự nhiên của nền kinh tế, không thể bỏ qua việc phát triển sức sản xuất xã hội, xã hội hóa sản xuất trong thực tế. Song, nhờ cách mạng khoa học và công nghệ, nhờ hợp tác kinh tế quốc tế đa phương, cho phép chúng ta tận dụng những thành tựu kinh tế của thế giới để có thể rút ngắn quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Sự phát triển rút ngắn chỉ có nghĩa là đẩy nhanh tương đối quá trình phát triển lịch sử - tự nhiên bằng những khâu trung gian, những hình thức, bước đi quá độ. Đồng thời, phải tôn trọng và vận dụng sáng tạo những tính quy luật của quá trình đi lên sản xuất lớn phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam.

Nhận thức đúng điều đó, Đảng đã kịp thời đề đưa ra đường lối lãnh đạo đúng đắn, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, đúng định hướng XHCN. Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỉ đôla Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay, Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỉ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỉ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỉ USD vào năm 2020. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỉ USD vào cuối năm 2020. Về cơ cấu nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài(6) …

Việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: Kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố. Những thành tựu đạt được đó đã chứng minh tính đúng đắn của đường lối đổi mới đất nước theo định hướng XHCN. Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, lý luận về đường lối đổi mới, về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát: Xã hội XHCN mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới

Do vậy, để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN, một điều kiện có tính nguyên tắc là phải kiên quyết giữ vững vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam và phải kiên quyết đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Một trong những nội dung đặc biệt quan trọng có ý nghĩa quyết định trong quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI là trên cơ sở những thành tựu đã đạt được, chúng ta phải tiếp tục làm rõ và khẳng định những đặc điểm của quá trình này, không chỉ ở hiện tại mà cả tương lai, dự báo triển vọng của CNXH ở Việt Nam trong bối cảnh mới; từ đó, xác định phương hướng và các giải pháp đúng đắn, hợp lý để tiếp tục giải phóng tối đa mọi nguồn lực của đất nươc. Để thực hiện được mục tiêu đó, chúng ta phải: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; xây dựng nền dân chủ XHCN, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước phát triển, theo định hướng XHCN./.

                                                                                                                    Nguon: bqllang.gov.vn

“Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”

 BHG - Nhân dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã có bài viết Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là một bài viết rất quan trọng, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn sinh động  về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, chứa đựng nhiều ý nghĩa, là một thông điệp khẳng định mạnh mẽ ý chí của Đảng và nhân dân Việt Nam tiếp tục vững bước trên con đường mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn.

Tôi thấy rằng, bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu lên những vấn đề nổi bật về lý luận và thực tiễn phong phú và sâu sắc về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam nhiều thập kỷ qua, khẳng định mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng đúng đắn, sáng tạo vào trong hoàn cảnh thực tế của Việt Nam, coi độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng là phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam trong giai đoạn đấu tranh chống thực dân và đế quốc xâm lược, sau đó xây dựng một hệ thống chính trị mới mà quyền lực thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân và cũng là sự lựa chọn đúng đắn trong thời kỳ Việt Nam bước vào giai đoạn tiến hành công cuộc đổi mới, phát triển đất nước.

Việc lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là vì chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc. Có thể nói, bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng rất phong phú cả về mặt lý luận và thực tiễn, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân Việt Nam, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử…

(Trích bài đăng trên Trang thông tin của Báo Nhân Dân, mục Ý kiến học giả nước ngoài)

SẺNGPHẾT HÙNGBUNNHUÔNG (Đại sứ đặc mệnh Toàn quyền nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào tại Việt Nam)

Văn kiện mang tính cương lĩnh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

…Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng xuất phát từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đứng từ góc độ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội và thực tế xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bài viết đã trình bày một cách hệ thống, toàn diện những tư duy sâu sắc và tổng kết kinh nghiệm, kết hợp với thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với chủ đề quan trọng “chủ nghĩa xã hội là gì và đi theo con đường xã hội chủ nghĩa như thế nào”.

Bài viết ngay từ đầu đã nêu rõ định nghĩa về chủ nghĩa xã hội, tức là “chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên học thuyết Mác - Lênin trong thời đại ngày nay”. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng, việc Liên Xô giải thể và Đông Âu sụp đổ không phải là do sai lầm của chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng không phải sự thắng lợi của chủ nghĩa tư bản, mà là thất bại của mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô. Chủ nghĩa tư bản với “chủ nghĩa tự do mới” đang được thúc đẩy trên phạm vi toàn cầu, hiện nay tuy vẫn có tiềm năng phát triển, nhưng không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản cố hữu của nó và hàng loạt khủng hoảng mà nó gây ra, tức là chế độ tư bản chủ nghĩa không thể nào giải quyết được triệt để khủng hoảng của chính bản thân nó.

Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam là sự kết hợp giữa nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin với sự nghiệp cách mạng của Việt Nam, là kết quả tất yếu của sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngay từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định chủ nghĩa xã hội là mục tiêu phấn đấu và lý tưởng cách mạng của Đảng, đi theo con đường xã hội chủ nghĩa là yêu cầu khách quan và lộ trình tất yếu của cách mạng Việt Nam. Khi chủ nghĩa xã hội trên thế giới rơi vào thoái trào, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên trì đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, kiên trì “xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Trong tiến trình lãnh đạo công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân xây dựng “một xã hội phát triển thực sự vì con người; một xã hội mà phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội; một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn; môi trường sống phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên; một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân, phục vụ lợi ích của nhân dân”. Nói tóm lại, đây chính là sự lựa chọn đi theo con đường chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ đã kiên định lãnh đạo nhân dân Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới.

(Trích bài đăng báo Nhân Dân điện tử, ngày 19.9.2021)