“Nuôi dạy và giữ gìn cán bộ” là vấn đề trọng tâm, bao trùm toàn bộ tư tưởng và thực tiễn lãnh đạo, xây dựng đội ngũ cán bộ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vận dụng đúng đắn, sáng tạo những chỉ dẫn của Người về vấn đề này là yêu cầu tiên quyết, góp phần bảo đảm thực hiện tốt chủ trương “xây dựng đội ngũ cán bộ” và “làm tốt công tác bảo vệ cán bộ” của Đảng ta trong giai đoạn mới.
Bảo vệ cán bộ bằng thể chế - Tiếp cận từ tư tưởng Hồ Chí Minh
Cán bộ là đội ngũ những người ưu tú, giữ vị trí tiên
phong trong lãnh đạo và tổ chức các hoạt động nhằm mục tiêu phụng sự Tổ quốc,
phục vụ nhân dân trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”.
Để có được đội ngũ cán bộ tốt, Người yêu cầu thực hiện tốt hai mảng công việc
song trùng là “nuôi dạy cán bộ” và “giữ gìn cán bộ”.
Trong đó, nuôi dạy cán bộ là tạo lập các điều kiện, tiền đề giúp cán bộ có môi
trường thuận lợi để phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực trước yêu cầu,
nhiệm vụ công tác; giữ gìn cán bộ là bảo vệ trước các nguy cơ mất cán bộ.
Tuy không trực tiếp bàn luận, song thông qua các bài
nói, bài viết về công tác cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến vấn đề bảo vệ
cán bộ trên cả hai phương diện. Theo nghĩa rộng, bảo vệ cán bộ là hoạt động bao
hàm trong đó cả phòng, chống các nguy cơ gây “mất cán bộ” và “nuôi dưỡng” bằng
cách tạo ra các điều kiện thuận lợi cho cán bộ phát triển phẩm chất, năng lực.
Với nghĩa này, toàn bộ công tác cán bộ, xét đến cùng chính là bảo toàn đội ngũ
“cán bộ tốt” đáp ứng yêu cầu của “việc cách mạng”. Theo nghĩa hẹp, bảo vệ cán
bộ chính là giữ gìn cán bộ, như giữ gìn vốn quý, trước các nguy cơ gây hại làm
mất cán bộ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề bảo vệ cán bộ bằng thể
chế có thể khái quát những quan điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, để bảo vệ cán bộ hiệu quả, nhất thiết phải lập
các khuôn khổ, nguyên tắc hoạt động của chế độ mới. Ngay sau khi Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai
sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người đã xác định “Vấn đề thứ ba” trong
“Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” là “tổ chức
càng sớm càng hay cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông đầu phiếu” để
hình thành tổ chức, bộ máy và “phải có một hiến pháp dân chủ” để
thiết lập các khuôn khổ, nguyên tắc pháp lý nền tảng cho tổ chức và hoạt động
của hệ thống chính trị trong chế độ mới. Các khuôn khổ, nguyên tắc này là nền
tảng định hình những việc được làm, nên làm và những việc không nên làm, không
được làm của mọi cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị của chế độ mới. Khi
các khuôn khổ, nguyên tắc hoạt động được xác lập thì cán bộ và cơ quan quản lý,
sử dụng cán bộ có những nền tảng chuẩn mực để tuân theo, biết những nghiêm cấm
để tránh xa, nghĩa là cán bộ được làm việc trong hệ thống khuôn khổ, nguyên tắt
này.
Thứ hai, xác lập “lối làm việc” của cán bộ và cơ quan quản
lý, sử dụng. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy cán bộ phát triển tốt hay suy thoái
rồi bị đào thải đều thể hiện trong quá trình thực thi công vụ, nên “sửa đổi lối
làm việc” là một trong những yêu cầu tiên quyết. Nhiều sai lầm, khuyết điểm,
căn bệnh trong lối làm việc được Người chỉ ra cặn kẽ và xem là một trong những
nguyên nhân dẫn đến “mất cán bộ”. Để “giữ gìn cán bộ”, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu
cầu “phải sửa chữa lối làm việc cho hợp lý”. Người nêu những
nguyên tắc nền tảng cho lối làm việc của cán bộ, bao gồm: “Lề lối làm việc phải
dân chủ”, “theo đúng đường lối của Chính phủ và Đoàn thể, hợp với
lòng dân”; “Lề lối làm việc: Mọi việc bất kỳ to nhỏ, phải
có kế hoạch, phải bàn bạc kỹ. Phải giải thích cho dân hiểu rõ, sao cho dân vui
vẻ thi đua làm. Hết sức tránh bệnh quan liêu, bệnh mệnh lệnh”(11).
Tuân theo các nguyên tắc này nghĩa là cán bộ đi đúng con đường trở thành “cán
bộ tốt”; thực hiện không đúng nguyên tắc này, thậm chí vi phạm, làm ngược, đồng
nghĩa cán bộ có biểu hiện chệch hướng, sa vào “cán bộ kém”, có nguy cơ bị đào
thải. “Giữ gìn cán bộ” là mục tiêu chính yếu của “phong trào sửa đổi lối làm
việc”.
Thứ ba, xác lập yêu cầu, nguyên tắc trong
quản lý, sử dụng cán bộ. Việc quản lý, sử dụng cán bộ có liên hệ mật thiết đến
bảo vệ cán bộ. Trong thực tế, cùng một khuôn khổ thể chế, song với thực tiễn
quản lý, sử dụng khác nhau, có cơ quan tạo cảm hứng, động lực cho cán bộ gắn bó
lâu dài và phát triển; ngược lại, có cơ quan tạo tâm lý tiêu cực dẫn đến nguy
cơ mất cán bộ. Người thẳng thắn chỉ ra “khuyết điểm lớn” của một số cơ quan là
“thiếu óc tổ chức”. Khuyết điểm này vừa khiến “việc cũng đến hỏng”, vừa không
quản lý, sử dụng cán bộ tốt dẫn đến nguy cơ “mất cán bộ”. Cơ
quan quản lý, sử dụng cán bộ tốt tức là thực hiện tốt các nguyên tắc, khuôn khổ
hoạt động của chế độ mới, thực hành “lối làm việc” mới, kiến tạo môi trường với
những điều kiện thuận lợi cho cán bộ rèn luyện, phát triển. Việc quản lý, sử
dụng cán bộ tốt cũng góp phần loại trừ những nguy cơ tiêu cực từ cơ chế quản lý
và môi trường làm việc gây hại đến cán bộ. Người nhấn mạnh: “Dùng cán bộ không
đúng tài năng của họ, cũng là một cớ thất bại. Thí dụ: người viết giỏi nhưng
nói kém lại dùng vào những việc cần phải nói. Người nói khéo nhưng viết xoàng
lại dùng vào công việc viết lách. Thành thử hai người đều không có thành tích”.
Mục tiêu của việc bảo vệ cán bộ là giúp “cán bộ làm
được việc, phải khiến cho họ yên tâm làm việc, vui thú làm việc”.
Trong quản lý, sử dụng cán bộ, Người nêu ra những định hướng nguyên tắc gồm:
Tập trung dân chủ; tự phê bình và phê bình; dựa vào công việc và sở trường của
cán bộ để giao việc; kỷ cương gắn liền với tình đồng chí yêu thương; chí công
vô tư; cảnh giác, đấu tranh với thành phần xấu. Theo Người, làm được như vậy là
giúp cho Đảng có “cán bộ phụ trách, có gan làm việc, ham làm việc”.
Không làm được như vậy sẽ có “một mớ cán bộ nhát gan, dễ bảo “đập đi, hò đứng”,
không dám phụ trách. Như thế là một việc thất bại cho Đảng”.
Thứ tư, xác lập yêu cầu, nguyên tắc trong kiểm soát và
đánh giá cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh xem kiểm tra, kiểm soát là nhân tố
quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo đúng. Người yêu cầu “phải luôn luôn kiểm
soát cán bộ” để giúp họ rút kinh nghiệm, sửa chữa khuyết
điểm, phát huy ưu điểm. Khi phát hiện khuyết điểm thì phải tùy nặng nhẹ mà xử
trí cho đúng mức để mọi người biết mà tránh. Xử lý kỷ luật phải tuân thủ phương
châm “giáo dục là chính, trừng phạt là phụ”. Chủ tịch Hồ
Chí Minh căn dặn: “Phải hết sức chú ý vấn đề dân chủ và kỷ luật. Kỷ luật trong
dân chủ, dân chủ phải có kỷ luật”. Đánh giá cán bộ để có cơ sở
“giữ gìn cán bộ”. Hồ Chí Minh cho rằng, mỗi lần xem xét lại cán bộ, một mặt sẽ
tìm thấy những nhân tài mới, mặt khác thì những người yếu kém sẽ bị
lòi ra. Yêu cầu, chuẩn mực dùng để đánh giá cán bộ phải phù hợp với từng thời
kỳ, từng địa phương, từng lĩnh vực, đánh giá một cách hoàn toàn công minh,
khách quan. Đánh giá cán bộ phải toàn diện, xét người và xét việc, cả quá khứ,
hiện tại và tiềm năng trong tương lai. Khi xem xét phải chú ý cả hiện tượng và
bản chất, không nên chỉ xem xét mặt bên ngoài, xem xét qua một việc, mà phải
xem xét kỹ toàn bộ công việc của cán bộ đó.
Thứ năm, xác lập quyền hạn, trách nhiệm của cán bộ, “đoàn
thể”, nhân dân trong “giữ gìn cán bộ”. Theo Hồ Chí Minh, bảo vệ cán bộ bao gồm
tự bảo vệ và được bảo vệ. Tự bảo vệ nghĩa là cán bộ chủ động, tự giác thực hiện
các biện pháp phòng vệ trước các nguy cơ hoặc đấu tranh trước các “kẻ địch”
đang tấn công, gây hại. Dù là yêu cầu tự thân, song mỗi cán bộ chỉ có thể tự
bảo vệ trên cơ sở được xác lập rõ quyền hạn, trách nhiệm công tác và mối quan
hệ với các chủ thể khác. Theo Người, cán bộ có quyền được thực thi công vụ theo
quy định, thụ hưởng chính sách, được ý kiến, chăm lo, được che chở bảo vệ. Theo
Hồ Chí Minh, “cán bộ tốt là làm đúng nghĩa vụ của đảng viên”,
trong đó có kiên quyết đấu tranh chống kẻ địch của cách mạng. Để
cán bộ có thể tự bảo vệ, Người nêu cơ chế: “Cấp trên phải thường kiểm tra cấp
dưới. Cấp dưới phải phê bình cấp trên. Giúp nhau kinh nghiệm và sáng kiến, giúp
nhau tiến bộ. Tự phê bình và phê bình nhau theo tinh thần thân ái và lập trường
cách mệnh”. Đó chính là mối quan hệ giữa các cán bộ trong tự bảo
vệ. Được bảo vệ nghĩa là cơ quan quản lý, sử dụng cán bộ và nhân dân thực hiện
các hoạt động bảo vệ cán bộ. Cơ quan, tổ chức có quyền quản lý, sử dụng cán bộ,
đồng thời có trách nhiệm phải “nuôi dạy” và “giữ gìn cán bộ”. Để tẩy sạch các
căn bệnh, khuyết điểm gây tổn hại đến cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra năm
cách: Chỉ đạo (giao phụ trách nhưng định rõ phương hướng, cách thức công tác);
nâng cao (tìm cách cho học tập); kiểm tra; cải tạo; giúp đỡ (bảo đảm điều kiện
sinh sống đầy đủ mà làm việc). Người nhấn mạnh, dựa vào dân để “giữ gìn cán bộ”
là tất yếu thắng lợi. Nhân dân có “trăm tai nghìn mắt” nên thấy hết mọi điều,
từ ưu điểm đến hạn chế. Theo Người, “Nhân dân thì giúp Chính phủ và Đoàn thể
kiểm tra công việc và hành vi của các cán bộ”; “tất cả các cơ quan Nhà nước là
phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu
sự kiểm soát của nhân dân”. Nhân dân bãi miễn cán bộ thông qua
cơ chế dân chủ theo quy định của pháp luật.
Một số khuyến nghị hoàn thiện thể
chế bảo vệ cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn nhất quán xác
định bảo vệ cán bộ là nhiệm vụ tất yếu, quan trọng. Tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII, Đảng đã đề ra chủ trương: “Khuyến khích bảo vệ cán
bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng
tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành
động vì lợi ích chung”. Thực hiện chủ trương của Đại hội,
Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 14-KL/TW, ngày 22-9-2021, “Về chủ
trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung” với
yêu cầu “cần đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, có bản lĩnh chính trị, trí tuệ, gương mẫu,
quyết tâm đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, sẵn sàng đương đầu
với khó khăn, thử thách, luôn nỗ lực hành động vì lợi ích chung”. Đặc biệt, tại
Nghị định số 73/2023/NĐ-CP, ngày 29-9-2023, của Chính phủ, “Quy định về khuyến
khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách
nhiệm vì lợi ích chung” đã khẳng định “Cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ,
dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung phải được khuyến khích, bảo vệ”.
Để việc bảo vệ cán bộ bằng thể chế ngày càng thiết thực và hiệu quả, trong thời
gian tới, cần quan tâm thực hiện một số quan điểm:
Một là, thể chế bảo vệ cán bộ không trái
với các khuôn khổ, nguyên tắc vận hành hệ thống chính trị, đặc biệt là Hiến
pháp và Điều lệ Đảng. Điều này đặt ra khi một số quy định pháp luật còn bất
cập, không phù hợp thực tiễn, cần sửa đổi, bổ sung hoặc trong trường hợp cần
ban hành các quy định mới. Trong trường hợp đó, thể chế bảo vệ cán bộ không
được trái Điều lệ Đảng.
Hai là, thể chế bảo vệ cán bộ phải xác định được các chủ
thể tham gia với những quy định chi tiết về quyền hạn, trách nhiệm và mối quan
hệ. Hiện nay, thể chế khuyến khích bảo vệ cán bộ “6 dám” cần
xác định được lực lượng thực hiện với những quy định cụ thể, chi tiết về chức
năng, nhiệm vụ và mối quan hệ. Nhiều văn bản pháp quy trong
hệ thống chính trị đã quy định quyền hạn, trách nhiệm của cán bộ, công chức và
cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, những quy định về quyền và nghĩa vụ
giám sát của nhân dân đối với hệ thống chính trị. Dựa trên các quy định này,
thể chế bảo vệ cán bộ cần cụ thể hóa, chi tiết hóa, bổ sung thêm để trả lời rõ
ràng, xác đáng những câu hỏi lớn đang đặt ra: Ai bảo vệ cán bộ? Nội hàm của
quyền bảo vệ cán bộ? Nội dung của trách nhiệm bảo vệ cán bộ? Phối hợp như thế
nào trong bảo vệ cán bộ?...
Ba là, thể chế bảo vệ cán bộ cần xác lập
được các tiêu chí đánh giá cụ thể, phù hợp. Các tiêu chí này là cơ sở để xác
định xếp loại cán bộ. Trong đó, cần chú ý khi cán bộ thực hiện thí điểm mà kết
quả không đạt hoặc chỉ đạt được một phần mục tiêu đề ra hoặc gặp rủi ro, xảy ra
thiệt hại thì cấp có thẩm quyền phải kịp thời xác định rõ nguyên nhân khách
quan, chủ quan, đánh giá công tâm để xem xét, xử lý phù hợp, nếu thực hiện đúng
chủ trương, có động cơ trong sáng, vì lợi ích chung thì được xem xét miễn hoặc
giảm nhẹ trách nhiệm. Xử lý nghiêm việc lợi dụng chủ trương khuyến khích và bảo
vệ cán bộ để thực hiện hoặc bao che hành vi vụ lợi, tham nhũng, tiêu cực, vi
phạm kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Cần cụ thể hóa hơn nữa các
tiêu chí đánh giá, để cán bộ biết khuôn khổ của “6 dám” để thực hiện; cơ quan
quản lý, sử dụng có thẩm quyền biết khuôn khổ để “xem xét, quyết định cho thực
hiện hoặc thực hiện thí điểm”. Các tiêu chí này cũng là cơ sở để tổng kết, đánh
giá “đề xuất đổi mới, sáng tạo của cán bộ”, qua đó quyết định nhân rộng thực
hiện, điều chỉnh hoặc không tiếp tục thực hiện.
Bốn là, thể chế bảo vệ cán bộ cần xác lập
được cơ chế kiểm soát cán bộ và phương cách thực hiện. Cơ chế kiểm soát cán
bộ nói chung, cán bộ “6 dám” nói riêng cần xác lập trên nguyên
tắc: (i) thực hiện kiểm soát để thúc đẩy cái mới, cái tiến bộ
chứ không phải làm cho thoái giảm; (ii) xác định rõ chủ thể
với quyền hạn, trách nhiệm cụ thể; (iii) vừa tuân theo quy
trình kiểm tra, kiểm soát chung, vừa phải xác định những đặc điểm riêng. Về
phương cách, cần làm rõ nội hàm, phạm vi, cách thức của kiểm soát từ trên
xuống, từ dưới lên, kiểm soát nội bộ, kiểm soát từ bên ngoài bởi nhân dân.
Trong kiểm soát, cần minh định rõ những biểu hiện là nguy cơ, sai phạm hiện hữu
và các mức độ của sai phạm. Đó là cơ sở để xác định mức độ, biện pháp kiểm soát
và hình thức, biện pháp xử lý sau đó./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét