Thứ Tư, 7 tháng 4, 2021

Âm mưu thủ đoạn chống phá Đảng trong lĩnh vực đạo đức .

Trước thềm Đại hội XIII của Đảng, các thế lực thù địch, phản động càng ra sức, ráo riết chống phá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có đạo đức. Nhận diện âm mưu, thủ đoạn chống phá Đảng trên lĩnh vực đạo đức, qua đó nêu ra một số giải pháp đột phá đấu tranh phòng ngừa có hiệu quả là vấn đề có ý nghĩa quan trọng. “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, nhất là trong tình hình hiện nay diễn ra hết sức phức tạp, vẫn là một trong những nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra. Âm mưu, thủ đoạn của chúng thực hiện ở tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong lĩnh vực đạo đức cũng vậy, tính chất cũng hết sức tinh vi, xảo quyệt và nguy hiểm. Có thể nhận diện âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá Đảng trong lĩnh vực đạo đức, lối sống ở cán bộ, đảng viên trước thềm Đại hội XIII của Đảng trên một số nội dung sau đây: Thứ nhất, các thế lực thù địch bằng nhiều thủ đoạn ra sức phá hoại nền tảng tư tưởng đạo đức của Đảng. Nền tảng tư tưởng đạo đức của Đảng là hệ tư tưởng, bản chất cách mạng và mục tiêu lý tưởng của Đảng. Trong Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;… Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam”(1). Chính vì vậy, các thế lực thù địch tập trung xuyên tạc, chống phá. Chúng xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; bản chất cách mạng, truyền thống vẻ vang của Đảng ta, cho rằng Đảng không vì lợi ích của nhân dân, do đó cán bộ, đảng viên mới suy thoái về đạo đức, lối sống, tham ô, tham nhũng, nhũng nhiễu nhân dân. Qua đó, sẽ chệch phương hướng và mục tiêu lý tưởng chiến đấu, phai nhạt bản chất giai cấp công nhân, trượt sang chính trị tư sản. Thực chất đó là phá bỏ nền tảng đạo đức cách mạng của Đảng. Cần khẳng định rõ nền tảng đạo đức của Đảng là hệ tư tưởng, bản chất, mục tiêu lý tưởng của Đảng. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, nhân dân ta giành được chính quyền, Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc, với mục đích duy nhất là giữ vững độc lập, tự do của Tổ quốc, giải phóng nhân dân khỏi mọi áp bức, bóc lột, xây dựng cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc. Đó là đạo đức của Đảng ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Ngoài lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Đảng ta không có lợi ích gì khác”(2). Là một Đảng chân chính cách mạng, Đảng trung thành tuyệt đối với lợi ích của giai cấp công nhân, của toàn thể dân tộc và nhân dân Việt Nam. Điều đó vừa thể hiện sâu sắc giá trị lý luận và thực tiễn về công tác xây dựng Đảng; vừa thể hiện một cách đúng đắn và nhuần nhuyễn tính giai cấp, tính tiền phong, trí tuệ và đạo đức trong công tác xây dựng Đảng. Đồng thời, đó còn là tư tưởng chỉ đạo để Đảng ta và mỗi cán bộ, đảng viên hành động đúng tôn chỉ, mục đích của Đảng, làm cho Đảng ta thực sự là đội tiên phong, gắn bó mật thiết với nhân dân, một lòng, một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc. Đó là giá trị đạo đức của Đảng ta. Thứ hai, các thế lực thù địch đã khuếch trương những hạn chế, khuyết điểm trong bộ máy Đảng, Nhà nước làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên dao động, thiếu tin tưởng, tha hóa về đạo đức, lối sống. Chúng tìm mọi cách để cổ súy một số cán bộ, đảng viên nhìn nhận đạo đức cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa sai lệch, chỉ thấy tiêu cực, mặt xấu, không thấy những giá trị đạo đức, lối sống tốt đẹp của dân tộc, của cách mạng. Qua đó, làm mất dần cái tốt, cái tiến bộ, làm tăng dần cái xấu, cái lạc hậu, làm chậm lại quá trình phát triển dẫn đến sự yếu kém, hư hỏng, thoái hóa, biến chất của chính bản thân con người và tổ chức về đạo đức, lối sống. Do suy thoái cho nên, những cán bộ, đảng viên này đổ lỗi cho đạo đức, lối sống truyền thống của dân tộc. Thứ ba, các thế lực thù địch cổ súy, du nhập lối sống tư sản vào một bộ phận cán bộ, đảng viên làm cho họ tha hóa về đạo đức, lối sống. Các thế lực thù địch ra sức cổ súy, du nhập lối sống buông thả, ngại học tập, phấn đấu, rèn luyện vào một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức, có quyền. Qua đó, làm cho họ tha hóa; có cán bộ, đảng viên “sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc”(3). Những cán bộ, đảng viên như vậy thường ngại rèn luyện, phấn đấu, lười suy nghĩ, lười học tập; luôn tìm cách để hình thành “cơ chế ngầm”, “cánh hẩu”, bảo vệ, bao che khuyết điểm cho nhau, trù dập những người thẳng thắn đấu tranh phê bình, những người bảo vệ công bằng, bình đẳng, bảo vệ sự nghiệp và lý tưởng cách mạng. Họ du nhập, sống theo lối sống tư sản, coi thường lẽ phải, đạo lý; bắt chước, học đòi coi đó như là “mốt thời thượng”. Những điều đó đã dẫn đến suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Thứ tư, các thế lực thù địch thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ làm tha hóa đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Từ chỗ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ làm tha hóa đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên dẫn đến những vi phạm kỷ luật cơ quan, cao hơn là vi phạm pháp luật của Nhà nước; cổ súy lối sống thực dụng; khuyến khích làm trái quan điểm, đường lối của Đảng; lợi dụng những hạn chế, khuyết điểm trong bộ máy để xuyên tạc, kích động... Thứ năm, các thế lực thù địch thúc đẩy suy thoái về tư tưởng chính trị làm cho suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên trầm trọng hơn. Hội nghị Trung ương 4 khóa XI nhận định: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc”(4). Đây là mức độ rất nguy hiểm của suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay. Vì vậy, các thế lực thù địch ra sức thúc đẩy suy thoái về tư tưởng chính trị làm cho suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên trầm trọng hơn. Thứ sáu, các thế lực thù địch bóp méo, xuyên tạc các mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, với quân đội để làm suy thoái các quan hệ đạo đức của cán bộ, đảng viên. Mục đích của chúng nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng với xã hội và thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam. Các thế lực thù địch xuyên tạc mối quan hệ trong nội bộ quân đội, rằng quan hệ cấp trên - cấp dưới, cán bộ - chiến sĩ đã “không còn như trước nữa, vì mức sống đã quá chênh lệch”, rằng cán bộ, sĩ quan “chỉ biết lo cho bản thân”; chúng triệt để lợi dụng khuyết điểm, hạn chế, những hiện tượng tiêu cực ở một số ít cán bộ, chiến sĩ để xuyên tạc mối quan hệ máu thịt quân - dân; rêu rao “quân đội không còn gần gũi, gắn bó với nhân dân nữa”; đã “không thực hiện đúng” nhiệm vụ bảo vệ nhân dân, “chỉ lo bảo vệ Đảng, Nhà nước”. Các thế lực thù địch cố tình làm biến dạng, méo mó bản chất các mối quan hệ của quân đội. Đây là một điểm mấu chốt để cổ súy cho suy thoái đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Nhằm chia rẽ Đảng với quân đội, các thế lực thù địch cố tình cắt xén nội hàm phẩm chất trung thành của quân đội ta, đối lập sự trung thành với Đảng, với nhân dân và dân tộc. Chúng đưa ra luận điệu: Quân đội “không cần dựa vào hệ tư tưởng nào”, “không cần đặt dưới sự lãnh đạo của đảng chính trị nào”, đồng thời xuyên tạc, bóp méo nhiều giá trị đạo đức cách mạng với mục đích gây “nhiễu loạn” về nhận thức dẫn đến tha hóa về tư duy, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Những âm mưu, thủ đoạn nêu trên của các thế lực thù địch tạo ra những mối nguy hiểm khôn lường, đồng thời khiến cho chúng ta gặp nhiều khó khăn trong quá trình nhận biết và đưa ra các giải pháp đấu tranh phòng, chống. Chúng ta khó “nhận mặt chỉ tên” cụ thể đâu là “diễn biến hòa bình”, đâu là suy thoái đạo đức, lối sống và đâu là hạn chế, khuyết điểm của cán bộ, đảng viên. Sự khó khăn này dễ dẫn đến lúng túng trong xác định quan điểm, nội dung, biện pháp đấu tranh, sao cho đúng và trúng, cũng như trong thực tiễn tổ chức đấu tranh, ngăn ngừa. Để đấu tranh phòng ngừa có hiệu quả âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá Đảng trong lĩnh vực đạo đức, lối sống ở cán bộ, đảng viên, các cơ quan, đơn vị cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề sau: Một là, tuyên truyền, giáo dục làm cho mọi cán bộ, đảng viên nhận rõ âm mưu, thủ đoạn, mức độ nguy hiểm của các thế lực thù địch chống phá Đảng trong lĩnh vực đạo đức, lối sống ở cán bộ, đảng viên. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước. Qua đó, nâng cao bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng cho cán bộ, đảng viên; luôn kiên định vững vàng nền tảng tư tưởng của Đảng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân; không dao động trước mọi âm mưu, thủ đoạn, trước sự tác động của tình hình và những thông tin sai trái, xuyên tạc, xấu độc, trên các trang mạng xã hội. Triển khai thực hiện thực chất, hiệu quả các nghị quyết, đặc biệt là Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Hai là, chủ động ngăn chặn, khắc phục có hiệu quả những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Các cơ quan, đơn vị cần phát huy vai trò, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, quần chúng trong đấu tranh phòng, chống suy thoái đạo đức, lối sống. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng; thực hiện tốt tự phê bình và phê bình; đề cao tính nêu gương của đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ chủ trì, chủ chốt. Kiên quyết ngăn chặn, khắc phục những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; tình trạng quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong cơ quan, đơn vị. Thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, giữ vững kỷ cương, giữ nghiêm kỷ luật; xây dựng môi trường văn hóa trong sạch, lành mạnh, để tăng “sức đề kháng”, nâng cao khả năng tự bảo vệ của mỗi cán bộ, đảng viên và từng cơ quan, đơn vị. Từng cán bộ, đảng viên phải biết tự bảo vệ mình, nâng cao trình độ, năng lực, tình cảm và lập trường cách mạng, bản lĩnh chính trị trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Không vì lý do nào đó mà “vô tình” hay “cố ý” phai nhạt mục tiêu, lý tưởng của Đảng rơi vào suy thoái đạo đức, lối sống. Ba là, xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong từng cơ quan, đơn vị. Trọng tâm là nâng cao hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong từng đảng bộ; thực hiện có chất lượng Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII và các chủ trương, quy định của Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Nêu cao tính tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ, giải quyết các mối quan hệ và tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống. Hiệu quả phòng, chống suy thoái đạo đức, lối sống phụ thuộc vào sự trong sạch, vững mạnh của tổ chức đảng. Sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là của cấp ủy và người đứng đầu có vai trò, tác động rất to lớn đến ý thức tu dưỡng, rèn luyện của đảng viên và quần chúng. Bốn là, thường xuyên trau dồi, nâng cao bản lĩnh chính trị, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng. Kiên quyết đấu tranh chống những quan điểm, tư tưởng sai trái, thù địch. Gắn việc nâng cao bản lĩnh chính trị với học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh một cách thiết thực, hiệu quả. Phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, ý thức tự lực, tự cường, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Tích cực tham gia đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị bằng các hành động cụ thể, thiết thực.Chủ động nhận diện âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; kiên quyết đấu tranh, khắc phục suy thoái đạo đức, lối sống ở cán bộ, đảng viên là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị - mọi tổ chức, lực lượng, cơ quan, đơn vị - nhằm tạo lên sức mạnh to lớn và “bức tường thành” vững chắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Cảnh giác với những "bàn tay đen" lợi dụng "tự do tôn giáo" .

Trong vô vàn những âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta dưới vỏ bọc "tự do tôn giáo", không thể không nhắc tới chiêu bài muốn biến các giáo xứ thành những thiết chế chính trị riêng, hoạt động ngoài vòng pháp luật, từ đó kích động nhân dân và giáo dân tiến hành các hoạt động gây rối, chống đối, vi phạm pháp luật, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. . Âm mưu bắt nguồn từ lợi ích cá nhân Trước hết, có thể khẳng định chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Nhìn vào thực tế các tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, có thể thấy rằng đại đa số chức sắc tôn giáo, tăng ni, phật tử đã làm tốt việc đạo, việc đời, hướng dẫn tín đồ chấp hành đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, lợi dụng đường lối, chính sách đổi mới, mở cửa và tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta, một số đối tượng đứng đầu các giáo xứ, núp dưới chiêu bài "tự do tôn giáo" đã lái hoạt động tại các giáo xứ đi ngược với pháp luật và sự phát triển của đất nước. Đến giờ, chắc hẳn nhiều người dân ở huyện Bố Trạch (Quảng Bình) vẫn chưa hết bất bình và bức xúc khi nhắc tới một linh mục từng làm dậy sóng dư luận địa phương và cả nước cách đây khoảng hơn 2 năm bởi những việc làm coi thường luật pháp. Với tư cách là quản xứ, thay vì phải làm những điều đúng với chức phận của một cha xứ, linh mục này lại đến từng nhà giáo dân và các gia đình đảng viên giáo dân gốc giáo để xúi giục bỏ Đảng, yêu cầu tháo cờ Tổ quốc. Tiếp đó, trong năm 2019, linh mục này đã không ít lần kích động để bà con giáo dân nghỉ chạy thuyền phục vụ khách du lịch tại động Phong Nha-Kẻ Bàng nhằm gây sức ép với UBND tỉnh Quảng Bình tăng giá chạy thuyền, dù kiến nghị tăng giá cho đội thuyền của các giáo dân vẫn đang được các cấp xem xét. Nhưng rồi cũng rõ, bản chất những hành động ấy là hoàn toàn mang động cơ cá nhân, "đục nước béo cò", muốn biến giáo xứ thành “căn cứ” riêng nhằm mục đích vụ lợi kinh tế bản thân. Hay như một linh mục quản xứ khác ở thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình từng lợi dụng vấn đề cải cách giáo dục để rao giảng trên nhà thờ nghiêm cấm học sinh đến trường, nếu phụ huynh nào không nghe lời sẽ bị xử lý, bị tẩy chay khỏi giáo xứ, không được đi lễ nhà thờ. Thậm chí, linh mục này còn cắt cử tay chân chặn đường, ném đá vào các học sinh nhằm ngăn cản các em đến trường. Cuối cùng mới vỡ lẽ, mục đích của những hành vi đó chỉ là để phục vụ mưu đồ chính trị cá nhân, nhằm gây sức ép với chính quyền địa phương và thể hiện vai trò “thủ lĩnh” trong giáo xứ. Dư luận có lẽ cũng chưa thể quên một số linh mục cực đoan tại các giáo xứ ở hai huyện Bố Trạch và Quảng Trạch (tỉnh Quảng Bình) ngang nhiên lạm quyền để lấn chiếm đất công, làm đường, mở rộng khuôn viên nhà thờ, từ đó khiến tình hình tại địa phương có lúc đứng trước nguy cơ bất ổn, thậm chí xung đột. Gần đây, khi cả nước đang nêu cao tinh thần trách nhiệm, nỗ lực ngăn ngừa dịch Covid-19 lây lan, thì lại xảy ra sự việc một số linh mục ở các giáo xứ thuộc tỉnh Hà Tĩnh rung chuông tổ chức hành lễ, bất chấp Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản của Bộ Y tế cũng như địa phương về việc giãn cách xã hội, hạn chế tập trung đông người để phòng, chống dịch Covid-19... Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều nghị quyết, văn bản quy phạm pháp luật về công tác tôn giáo, trong đó đưa ra những nguyên tắc cụ thể liên quan tới lĩnh vực này. Một trong những nguyên tắc quan trọng nhất là: Quyền tự do tôn giáo không phải là vô hạn và Nhà nước giữ vai trò trung gian trong việc ngăn chặn tình trạng các tổ chức tôn giáo lạm quyền chính trị hoặc lạm quyền tự do tôn giáo để tranh giành ảnh hưởng, xâm phạm vào các quyền tự do dân sự khác của người dân; hoạt động của các tôn giáo phải tuân thủ theo hiến pháp, pháp luật... Bởi vậy, hành động của các linh mục nói trên xét cho cùng đã vi phạm nguyên tắc “lạm quyền”, tự do tôn giáo một cách quá trớn, muốn biến các giáo xứ thành “vương quốc” riêng, lạc nhịp với tinh thần, nguyên tắc thượng tôn pháp luật mà bất cứ công dân-giáo dân nào ở Việt Nam cũng như trên thế giới phải thực hiện. Đừng để đức tin bị lợi dụng! Thực tế cho thấy, tôn giáo và các hoạt động liên quan tới tôn giáo luôn gắn liền với luật pháp của mỗi quốc gia. Cũng giống như mọi hoạt động xã hội khác, các sinh hoạt tôn giáo ở bất kỳ quốc gia nào đều không thể vượt ra ngoài khuôn khổ pháp luật của quốc gia đó. Tại Việt Nam, việc quản lý nhà nước về tôn giáo cũng đã được quy định trong Hiến pháp và pháp luật, trong đó xác định rõ quyền hạn hoạt động của các tổ chức, cá nhân tôn giáo trên các lĩnh vực quản đạo, hành đạo, truyền đạo; đồng thời nêu rõ hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phải đúng theo quy định của pháp luật, phù hợp với đạo đức, văn hóa và thuần phong mỹ tục của dân tộc. Việc Quốc hội Việt Nam ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo vào năm 2016 và Chính phủ có Nghị định số 162/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo là cơ sở pháp lý quan trọng, phù hợp với yêu cầu thực tiễn của hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ đổi mới của đất nước, đồng thời tạo điều kiện để tiếp tục củng cố, hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm hơn nữa quyền tự do tôn giáo của nhân dân. Thế nhưng, phải thẳng thắn thừa nhận rằng đến nay, việc quản lý, tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo của chính quyền các cấp và tại một số nơi vẫn còn những sơ hở, bất cập. Và các đối tượng cực đoan, phản động luôn tận dụng kẽ hở này để kích động các giáo dân gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội tại các địa phương mỗi khi có các vấn đề “nóng”, được dư luận quan tâm nổi lên. Núp dưới vỏ bọc "tự do tôn giáo" và những lời rao giảng “vì lợi ích thiết thực của giáo dân”, một số linh mục cực đoan ra sức lôi kéo, xúi giục, thậm chí gây sức ép để bà con giáo dân chống phá chính quyền, nhằm gây mất ổn định an ninh trật tự trên địa bàn. Cùng với đó, họ móc nối với các đối tượng phản động trong và ngoài địa phương tổ chức các hoạt động gây rối với mục tiêu nhằm phức tạp hóa tình hình, đẩy Giáo hội công giáo đối lập với chính quyền. Âm mưu này có thể được nhận rõ qua hàng loạt vụ việc xảy ra trong những năm gần đây như lợi dụng việc xả thải gây ô nhiễm môi trường của Công ty Formosa (Hà Tĩnh), giải tỏa chùa Liên Trì (TP Hồ Chí Minh), dựng thánh giá, nhà nguyện trái phép ở giáo xứ Đồng Chiêm (Hà Nội), Đồng Hới (Quảng Bình), hay việc giải tỏa đền bù đất tại 42 Nhà Chung, Nhà thờ Thái Hà (Hà Nội)... Lợi ích đâu chẳng thấy, mà trái lại, những âm mưu kích động này cuối cùng chỉ khiến đời sống, hoạt động sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt thường ngày của bà con giáo dân bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Đáng buồn hơn, nhiều giáo dân từ chỗ sống “tốt đời, đẹp đạo” bỗng bị dụ dỗ, kích động, mê hoặc bởi những lời rao giảng phi lý, để rồi vi phạm chính sách tôn giáo của Đảng, pháp luật của Nhà nước và có người còn vướng vào vòng lao lý; đến khi tỉnh ngộ thì đã muộn. Các giáo dân trước hết là các công dân, nên bất kỳ ai theo tín ngưỡng, tôn giáo nào cũng cần đặt trách nhiệm và nghĩa vụ công dân lên hàng đầu; ở đâu trên thế giới này cũng vậy chứ không chỉ ở Việt Nam. Cùng với đó, các giáo dân cần hết sức tỉnh táo, nhận rõ âm mưu thủ đoạn của những “bàn tay đen” muốn biến các giáo xứ thành thiết chế chính trị riêng, lợi dụng sự nhẹ dạ, cả tin của giáo dân nhằm phục vụ lợi ích cá nhân một số người nhưng lại phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, ảnh hưởng tới lợi ích chung của dân tộc, đất nước mà trước hết là cuộc sống yên bình của các giáo xứ, người theo đạo./.

Đấu tranh với các phương thức, thủ đoạn hòng chuyển hóa chính trị ở Việt Nam hiện nay .

Tác động nhằm chuyển hóa chính trị ở nước ta là một nguy cơ hiện hữu đối với sự tồn vong của Đảng và chế độ ta. Quyết liệt đấu tranh phê phán, vạch trần, bác bỏ, ngăn chặn âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đang là nhiệm vụ hàng đầu trong bối cảnh hiện nay. . Trong nhiều thập kỷ gần đây, trước mỗi sự kiện chính trị lớn của đất nước, đặc biệt là trước các kỳ đại hội Đảng, các thế lực thù địch lại ra sức dùng mọi phương thức, thủ đoạn chống phá cách mạng nước ta trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chúng sử dụng nhiều chiêu bài khác nhau như: công kích chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh hoặc thổi phồng, xuyên tạc những hạn chế, yếu kém trong quản lý kinh tế, xã hội, trong thực hiện chính sách, pháp luật; phủ nhận những thành quả cách mạng, vu cáo Việt Nam vi phạm “dân chủ”, “nhân quyền”… Tất cả điều này đều hướng đến một mục đích cuối cùng là đi đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. 1. NHẬN DIỆN MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC, THỦ ĐOẠN CHỦ YẾU MÀ CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH THƯỜNG SỬ DỤNG Trong chống phá cách mạng nước ta, các thế lực thù địch thường sử dụng nhiều phương thức, thủ đoạn mang tính chất hết sức tinh vi, thâm độc. Nổi bật trên một số điểm sau: Thứ nhất, tâm điểm mà các lực lượng phản động tập trung công kích, xuyên tạc, phủ nhận là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng cho rằng, hiện nay chủ nghĩa Mác - Lênin hoàn toàn không còn phù hợp, đã trở thành lỗi thời, lạc hậu với thực tiễn nước ta. Chúng lập luận rằng, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu là một minh chứng cho điều đó. Đồng thời xuyên tạc rằng chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là sản phẩm của thực tiễn Việt Nam; Hồ Chí Minh du nhập chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam là “một sai lầm của lịch sử” đã kìm hãm sự phát triển của đất nước. Thêm nữa, chúng coi con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta lựa chọn là “mù mờ”, “không tưởng”, hoặc cho rằng “chủ nghĩa nào, chế độ nào cũng được, miễn dân giàu, nước mạnh”; đối lập độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội; xuyên tạc tư tưởng, đạo đức, tác phong, cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đặc biệt, chúng triệt để lợi dụng Internet, mạng xã hội, youtube, twitter… để đăng tải các video clip, đưa tin, viết bài hòng bôi nhọ, công kích, xuyên tạc hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh cũng như lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước ta. Với cường độ tấn công liên tục, mạnh mẽ đã khiến cho một bộ phận nhân dân, trong đó có một số cán bộ, đảng viên dao động, giảm lòng tin đối với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và dân tộc ta đã lựa chọn. Thứ hai, các thế lực thù địch đẩy mạnh tuyên truyền, ca ngợi chủ nghĩa tư bản, cổ súy cho chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng. Chúng cho rằng chủ nghĩa tư bản là chế độ xã hội cuối cùng của lịch sử loài người; chủ nghĩa tư bản hiện nay đã thay đổi bản chất, không còn là một xã hội áp bức, bóc lột... Bằng phương thức này, các thế lực thù địch thực hiện âm mưu muốn truyền bá lối sống thực dụng, văn hóa phẩm đồi trụy vào nước ta. Theo đó, chúng ra sức khuyếch trương các quyền tự do, dân chủ trên lĩnh vực báo chí - xuất bản, văn hóa - văn nghệ núp dưới chiêu bài tự do ngôn luận, tự do sáng tác, quyền thông tin nhằm móc nối với những phần tử bất mãn, chống đối lợi dụng những sơ hở, yếu kém của nhà nước ta trong quản lý kinh tế, văn hóa, xã hội, tung ra những bài báo, sản phẩm văn học xuyên tạc lịch sử, bóp méo sự thật, nói xấu, vu cáo chế độ ta. Ý đồ và mục đích của chúng là: thông qua việc truyền bá những tư tưởng, quan điểm sai trái, lối sống lai căng vào xã hội, vào cán bộ, đảng viên, dần dần từng bước tạo “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta, để đi đến chuyển hóa Đảng, chuyển hóa chế độ và cuối cùng là “chiến thắng không cần chiến tranh”. Thứ ba, các thế lực thù địch thường xuyên sử dụng chiêu bài xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền. Hằng năm, Bộ Ngoại giao Mỹ và phương Tây có Báo cáo tình hình nhân quyền, trong đó, họ tự dành cho mình quyền phán xét tình hình nhân quyền của các nước khác, và Việt Nam không là một ngoại lệ. Một mặt, họ cố tình lờ đi tình trạng vi phạm nhân quyền của họ, mặt khác, họ tạo cớ để phán xét và can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, trong đó có Việt Nam. Họ gọi những kẻ khủng bố hoạt động chống phá Nhà nước Việt Nam là những “tù nhân lương tâm”, “nhà hoạt động dân chủ”… Và đòi Việt Nam phải thả tự do cho những kẻ vi phạm pháp luật bị chính quyền bắt giữ này. Thứ tư, kích động biểu tình, gây bạo loạn, tập dượt cho “cách mạng đường phố” ở Việt Nam. Trong nhiều thập kỷ qua, các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng tình hình nhạy cảm để kích động, lôi kéo, tập hợp người khiếu kiện, gây bạo loạn và các điểm nóng về an ninh trật tự. Chúng tăng cường thành lập các hội nhóm núp bóng “xã hội dân sự” với tên gọi “Phong trào liên đới dân oan tranh đấu Việt Nam”, “Hội dân oan Việt Nam”; “Phụ nữ nhân quyền”; “Hội dân oan nông dân ba miền”... chỉ đạo, tài trợ cho hoạt động khiếu kiện của người dân. Đặc biệt, các đối tượng này lợi dụng tình hình, các sự kiện nhạy cảm trong nước như vấn đề tranh chấp biển đảo, biên giới; các vụ việc tham nhũng; thủy điện xả lũ; chặt hạ cây xanh... để công khai và gia tăng các hoạt động chống đối chính quyền, kêu gọi, kích động tổ chức nhiều cuộc tuần hành, biểu tình gây rối về an ninh, trật tự tại những khu vực trung tâm các thành phố. Các cuộc tuần hành, biểu tình thường được các thế lực thù địch chuẩn bị kỹ lưỡng, bài bản. Chúng tạo các kịch bản như: sẵn sàng khiêu khích, chống đối, xô xát với lực lượng chức năng làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự; chuẩn bị quay phim, chụp ảnh để phát tán lên mạng xã hội/Internet nhằm lu loa, phá hoại chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nếu bị bắt giữ thì số đối tượng phản động trong và ngoài nước núp bóng “xã hội dân sự” ra sức vu cáo Việt Nam đàn áp người bất đồng chính kiến, vi phạm dân chủ, nhân quyền, tụ tập kéo đến trụ sở cơ quan Công an đòi thả người. Cùng với đó, các báo đài phản động lập tức liên hệ trực tiếp và tổ chức phỏng vấn trực tuyến từ nước ngoài để đả kích, xuyên tạc, lên án chính quyền. Những vụ việc xảy ra ở Tây Nguyên, Tây Bắc, Bình Dương, TP. Hồ Chí Minh, Hà Tĩnh, Đồng Tâm (Hà Nội)... là những minh chứng rõ ràng cho những chiêu bài này của các thế lực thù địch, phản động. Thứ năm, các thế lực thù địch thường xuyên tập trung thu thập, khai thác thông tin, tình hình về mặt trái, hạn chế, tiêu cực trong xã hội, những sai phạm của cán bộ lãnh đạo, yếu kém của chính quyền trong công tác quản lý nhà nước; triệt để lợi dụng vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo; khoét sâu mâu thuẫn, gây chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân; tìm mọi cách vô hiệu hóa lực lượng vũ trang, lực lượng bảo vệ và thực thi pháp luật... Thực hiện âm mưu đó, các thế lực thù địch “bới lông tìm vết” những yếu kém, khuyết điểm của bộ máy công quyền, nhất là những hiện tượng tham nhũng, quan liêu, hách dịch, xa dân để “đổ thêm dầu” vào bức xúc của người dân. Mặt khác, thực hiện phương pháp “nội công, ngoại kích”, các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách tung ra những luận điệu, khẩu hiệu, truyền thông mang tính kích động hoặc khen ngợi những hành động bột phát do bức xúc, thiếu tỉnh táo của người dân trong quan hệ với chính quyền như là những hành động “dũng cảm”, “sự trưởng thành”, người dân đã chiến thắng chính quyền… Điển hình là vụ việc xảy ra ở Vũng Áng, nhiều đài báo nước ngoài như VOA, BBC, RFA cùng các trang phản động cố tình làm nóng thêm “điểm nóng” khi chính trị hóa những sự việc kinh tế, môi trường. Sau khi sự việc đã kết thúc, một số “nhà phân tích” lại đưa ra những “tổng kết” như: qua sự việc chứng tỏ giai cấp nông dân Việt Nam đã “giác ngộ”, “có thêm nhiều phương pháp đối phó với chính quyền”… Bằng phương thức này, các thế lực phản động, thù địch kích động người dân tư tưởng phản loạn, chống phá chính quyền, cho rằng đó là những “tập dượt” cho cái mà chúng gọi là “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”. Trước những phương thức, thủ đoạn nêu trên, nếu chúng ta không tỉnh táo nhận thức và có các hành động ngăn chặn, điều chỉnh, giải quyết kịp thời thì rất có thể sẽ dẫn đến các nguy cơ xảy ra “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố” nhằm lật đổ chế độ chính trị ở nước ta. Các cuộc cách mạng màu xảy ra ở một số nước Trung Á, “Cách mạng Cam” ở Ucraina, “Mùa xuân Ả rập” ở Trung Đông… được coi là những điển hình của các cuộc lật đổ chế độ chính trị hiện thời bất bạo động do các nhóm “xã hội dân sự” tiến hành dưới bàn tay hậu thuẫn của các nước phương Tây. 2. BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẤU TRANH Từ thực tiễn phân tích trên cho thấy, để nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các thế lực thù địch nhằm tác động chuyển hóa chính trị ở nước ta hiện nay, theo chúng tôi cần tập trung tổ chức thực hiện tốt một số biện pháp cụ thể sau: Một là, xây dựng, củng cố nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân vững chắc trong sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Đây là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của cả hệ thống chính trị. Hai là, xây dựng các thể chế, chính sách, pháp luật, gắn kết chặt chẽ công tác xây dựng, thẩm định pháp luật về an ninh, trật tự với tổng kết thực tiễn, dự báo, phân tích, đánh giá tác động xã hội với các chính sách, pháp luật mới trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Tập trung xây dựng, củng cố, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo hành lang pháp lý, cơ sở vững chắc cho công tác bảo đảm an ninh, trật tự, công tác quản lý nhà nước đối với mọi hoạt động của đời sống xã hội. Ba là, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục quốc phòng an ninh, nâng cao hiểu biết cho học sinh, sinh viên và người dân về lịch sử, truyền thống, đạo lý dân tộc, sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân; nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch. Xác định đây là công tác có tầm chiến lược, đặc biệt quan trọng, phải thực hiện thường xuyên, liên tục, lâu dài nhằm tạo nền tảng tư tưởng, bản lĩnh chính trị, sức đề kháng cho nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Đối với mỗi người dân, cần tỉnh táo, tránh bị lôi kéo, kích động dẫn đến có những hành vi vi phạm pháp luật. Bốn là, tích cực, chủ động nắm bắt tình hình tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trước những âm mưu, ý đồ, phương thức, thủ đoạn hoạt động tuyên truyền của các thế lực thù địch; kịp thời xử lý các tình huống xảy ra, không để bị động, bất ngờ; giải quyết tốt những vấn đề bất cập, bức xúc xã hội, không để chúng lợi dụng kích động khiếu kiện, biểu tình gây mất ổn định chính trị. Năm là, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên giữ cương vị lãnh đạo, đứng đầu các cơ quan Đảng, Nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh, có tâm, có tầm, có trách nhiệm. Tăng cường xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, bảo đảm giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, chất lượng, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Kiên quyết đấu tranh, bài trừ tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, “lợi ích nhóm”, tiêu cực xã hội, đẩy lùi nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Đảng. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có quan hệ chặt chẽ với “diễn biến hòa bình”, trong đó “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là nhân tố bên trong nguy hiểm nhất. Sáu là, làm tốt công tác quản lý, chấn chỉnh hoạt động của báo chí, truyền thông, hạn chế việc khai thác thông tin, mặt trái, mặt tiêu cực của xã hội nhằm định hướng dư luận xã hội theo hướng tích cực. Tăng cường các hoạt động phản biện xã hội, đẩy mạnh đấu tranh, phản bác các thông tin xuyên tạc, bịa đặt, vu cáo của các thế lực thù địch, đối tượng xấu trên Internet, giành lại thế chủ động trên không gian mạng. Bảy là, quan tâm giải quyết ổn định các vấn đề mâu thuẫn, bức xúc, tranh chấp khiếu kiện... trong nhân dân, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Trong giải quyết cần cân nhắc, coi trọng vấn đề ổn định chính trị, an ninh, an toàn xã hội với lợi ích kinh tế trước mắt, nhằm xóa bỏ các điều kiện kẻ địch có thể lợi dụng để tấn công, phá hoại, gây bất ổn xã hội, chuyển hóa mâu thuẫn xã hội thành mâu thuẫn đối kháng với Đảng, Nhà nước tiến tới thực hiện “diễn biến hòa bình”, “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”, lật đổ chế độ chính trị. Tuy nhiên, cũng không nên hữu khuynh, né tránh, dễ tạo thêm những tiền lệ xấu. Trong mỗi sự việc, nếu có thế lực phản động đứng sau giật dây, những kẻ chủ mưu, cầm đầu, kích động, vạch kịch bản cho các vụ việc này chỉ đợi khi chính quyền áp dụng biện pháp mạnh, thì chúng sẽ kích động nhân dân chống đối lại chính quyền, biến "điểm nóng" kinh tế thành điểm nóng chính trị, gây mất ổn định xã hội. Trong mọi tình huống, không đối đầu với nhân dân nhưng phải sớm tìm ra những đối tượng kích động, chủ mưu để xử lý nghiêm minh, dập tắt mọi âm mưu của chúng. Dĩ nhiên, việc xử lý phải hết sức bình tĩnh, tỉnh táo nhưng cũng phải nhanh chóng, kịp thời. Tám là, chăm lo xây dựng lực lượng Công an nhân dân thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, lực lượng nòng cốt bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ sự bình yên, hạnh phúc cho nhân dân. Lực lượng Công an nhân dân cần chú trọng, tăng cường hơn nữa tính chủ động, nhanh nhạy trong phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả với âm mưu hoạt động lợi dụng chống phá Đảng, Nhà nước của các phần tử xấu, phản động. Quản lý chặt chẽ đối tượng, không để chúng móc nối, khiếu kiện phức tạp, kích động các hoạt động chống đối, tụ tập đông người, phá rối an ninh, biểu tình, bạo loạn./.

Vạch mặt những kẻ đòi “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang .

Phi chính trị hóa” quân đội, cảnh sát là luận điểm đã xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ở các nước tư bản phương Tây. Với chế độ đa đảng chính trị, để hạn chế sự can dự của quân đội, cảnh sát vào các cuộc tranh giành quyền lực chính trị, nhà cầm quyền các nước này đề ra luận điểm “phi chính trị hóa quân đội, cảnh sát”. Tính giả tạo của luận điểm này đã được V.I.Lênin chỉ rõ trong bài báo “Quân đội và cách mạng” đăng trên báo “Đời sống mới” của nước Nga, ngày 16/11/1905: “...những câu nói của bọn tôi tớ của nền chuyên chế về tính trung lập của quân đội, về sự cần thiết phải giữ cho quân đội đứng ngoài chính trị... là giả dối, rằng những lời nói đó không thể mong được binh lính đồng tình một chút nào”(1). “Việt Nam phải “phi chính trị hóa” quân đội, công an” là một luận điệu mà các thế lực phản động, thù địch với Việt Nam vẫn rả rích tuyên truyền, với nhiều biến thể khác nhau, được phân chia thành nhiều nội dung cụ thể. Vấn đề đặt ra hiện nay là nhận diện thật rõ: Ai đòi Việt Nam phải “phi chính trị hóa” quân đội, công an? Họ là người như thế nào? Chúng ta phải đấu tranh chống các luận điệu sai trái đó như thế nào? Thực tiễn đấu tranh tư tưởng ở Việt Nam đã lộ diện một số “gương mặt” đòi Việt Nam phải “phi chính trị hóa” quân đội, công an như sau: Một là, một số “lý luận gia” tư sản, chính trị gia ở các nước phát triển phương Tây vốn thâm thù ý thức hệ xã hội chủ nghĩa (XHCN). Những người này chống cộng điên cuồng, chống Đảng Cộng sản Việt Nam bằng mọi giá. Từ thực tế ở Liên Xô, Đông Âu, họ rút ra kinh nghiệm muốn xóa bỏ chủ nghĩa xã hội (CNXH) trước hết phải xóa bỏ vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản đối với quân đội, công an. Những “lý luận gia” này đang làm việc trong bộ máy chính quyền nhà nước hoặc làm việc trong quân đội nên họ có điều kiện tác động vào chính sách đối ngoại của đất nước họ, đồng thời quyên góp, ủng hộ vật chất để đầu tư cho các chương trình tuyên truyền, xuyên tạc đòi “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân, Công an nhân dân Việt Nam. Hai là, một số nhóm tàn dư của ngụy quân, ngụy quyền Việt Nam Cộng hòa ở nước ngoài. Thành viên các nhóm này bỏ chạy khỏi đất nước năm 1975, vốn là những người phản bội Tổ quốc, có nợ máu với nhân dân. Những hội, nhóm này tự xưng đảng phái, ủy ban, hội nọ, hội kia để lôi kéo những người Việt trẻ ở nước ngoài và các thành phần tàn dư của ngụy quân, ngụy quyền ở trong nước. Ba là, một số trí thức, văn nghệ sĩ suy thoái, biến chất, bất mãn chế độ trong nước. Đáng tiếc nhất, trong số này có cả một vài cán bộ cấp cao trong hệ thống chính trị, sau khi nghỉ hưu hoặc bị kỷ luật đã sa vào “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Họ đã thành lập những câu lạc bộ, hội, nhóm để chống phá đất nước, chĩa mũi dùi tấn công nền tảng tư tưởng bằng cách xuyên tạc bản chất chính trị của quân đội, công an. Bốn là, một bộ phận nhỏ người dân có nhận thức non kém về chính trị. Họ là trí thức trẻ, sinh viên, thanh niên, nông dân, công nhân... vì những lý do khác nhau, bị đầu độc bởi môi trường thông tin xấu độc, tham gia đòi “phi chính trị hóa” quân đội, công an. “Phi chính trị hóa” quân đội, công an được xác định là nhiệm vụ trọng yếu của chiến lược “Diễn biến hòa bình” nhằm vào Việt Nam; các thế lực thù địch cho rằng, “phi chính trị hóa” quân đội, công an chính là con đường cơ bản để “vô hiệu hóa” vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chỉ có như vậy thì chúng mới có cơ hội làm “cách mạng sắc màu”, “cách mạng đường phố” ở Việt Nam. Nếu như trước đây, các thế lực thù địch đòi “phi chính trị hóa” quân đội, công an thông qua đòi hỏi trực diện là xóa bỏ vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, về mọi mặt của Đảng đối với quân đội, công an, thì gần đây có những biến thể mới về nội dung. Cụ thể như: Dựa vào chính các nội dung lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, công an để xuyên tạc, bịa đặt. Chẳng hạn, mục tiêu xây dựng quân đội “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, trong đó một số lực lượng, quân chủng, binh chủng tiến thẳng lên hiện đại thì chúng “bẻ lái” sang xây dựng “quân đội hiện đại, quân đội nhà nghề”. Từ đó cho rằng “không có quân đội nhà nghề nào lại do một đảng chính trị lãnh đạo”. Dựa vào chính sách tuyển quân, tuyển công an của Đảng, Nhà nước ta để tung ra luận điệu cho rằng “quân đội, công an là của nhân dân, của mọi người dân yêu nước” để phá bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng trong quân đội, công an; phá hoại bản chất giai cấp của quân đội, công an. Tuyên truyền, kích động, gây mất đoàn kết giữa quân đội với công an, gây mất đoàn kết trong nội bộ hai lực lượng này. Đặc biệt, chúng phao tin, đồn nhảm về các tướng lĩnh, cán bộ cấp cao trong lực lượng vũ trang (LLVT); cho rằng “có tham nhũng ghê gớm” trong quân đội, công an; từ đó gây tâm lý hoang mang, dao động trong cán bộ, chiến sĩ hòng làm suy giảm sức mạnh, sức chiến đấu của quân đội, công an. Những vụ việc tiêu cực trong quân đội, công an được xử lý, thể hiện rõ tính nghiêm minh của pháp luật thì chúng cho rằng, đó chỉ là “phần nổi của tảng băng chìm”. Nét mới nổi lên gần đây là các lực lượng ở trong nước chủ động ngụy tạo hoặc thổi phồng, bôi đen các sự kiện, vấn đề của quân đội, công an trong nước để “đánh trống, la làng” gây sự chú ý của các lực lượng thù địch, phản động ở nước ngoài; từ đó móc nối, liên hệ với nhau để chống phá. Xuyên tạc về hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị trong lực lượng vũ trang. Cho rằng, đây là những hoạt động tốn kém, không thiết thực đối với xây dựng sức mạnh của lực lượng vũ trang; chia rẽ, gây sự phân biệt giữa các cán bộ chính trị với đội ngũ cán bộ trong lực lượng vũ trang. Bôi nhọ hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ và hình ảnh người chiến sĩ công an; truyền bá lối sống thực dụng, chạy theo vật chất trong bộ đội, công an; kích động, lôi kéo một số cựu chiến binh, cán bộ, chiến sĩ sa vào lối sống sa đọa, hưởng thụ, không còn lý tưởng vì Tổ quốc, vì nhân dân. Các thế lực thù địch đã sử dụng kết hợp nhiều phương tiện truyền thông (sách, băng đĩa, truyền hình, phát thanh, báo in, báo điện tử) cùng với mạng xã hội để phát tán thông tin. Một số cơ quan báo chí của nước ngoài như RFA, RFI, BBC, VOA... thường xuyên đăng, phát các dạng bài tuyên truyền đầu độc nêu trên và đăng kèm phụ đề “bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả”. Hằng năm, vào dịp các ngày lễ lớn của đất nước hoặc các sự kiện chính trị quan trọng (như Đại hội Đảng bộ Quân đội, Đại hội Đảng bộ Công an Trung ương hướng tới Đại hội lần thứ XIII của Đảng) thì các hoạt động tuyên truyền, vận động đòi “phi chính trị hóa” quân đội, công an lại được tổ chức rầm rộ như một chiến dịch truyền thông. Thực tiễn “phi chính trị hóa” quân đội diễn ra ở Liên Xô cho thấy, nếu xa rời những vấn đề nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng quân đội cách mạng thì sự rệu rã của quân đội, dẫn đến sự sụp đổ chế độ XHCN sẽ hết sức nhanh chóng. Liên Xô bắt đầu “phi chính trị hóa” quân đội từ năm 1987, và chỉ 4 năm sau thì Liên Xô tan rã. Đầu tiên là việc Đảng Cộng sản Liên Xô tự xóa bỏ cơ chế Đảng lãnh đạo quân đội. Chỉ trong khoảng 2 năm (1987-1989), gần 50% cán bộ chiến lược của quân đội, 30% tướng lĩnh bị “về vườn”. Hơn 100 cán bộ chính trị cấp chiến dịch - chiến lược bị cách chức với lý do “không ủng hộ cải tổ”. Năm 1990, Đại hội bất thường của Đảng Cộng sản Liên Xô tiếp tục xiết thêm sợi dây thòng lọng vào cổ mình với việc từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng với Nhà nước và xã hội đã ghi trong Hiến pháp, chấp nhận đa nguyên, đa đảng. Chỉ đợi có thế, tháng 7/1991, Tổng thống Liên bang Nga ra sắc lệnh “phi đảng hóa” và cấm các đảng chính trị hoạt động trong các cơ quan nhà nước. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Liên Xô ra lệnh buộc mọi quân nhân là đảng viên cộng sản phải trả thẻ đảng... Bi kịch “phi chính trị hóa” xảy ra đã khiến Quân đội Xô Viết, một quân đội hùng mạnh từng đánh bại chủ nghĩa phát xít, với gần 4 triệu quân thường trực, vũ khí trang bị rất hiện đại bỗng chốc mất phương hướng chiến đấu, không biết phải bảo vệ mục tiêu nào trong “thảm họa chính trị” tháng 8/1991 dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô. Bài học rút ra từ quá trình “phi chính trị hóa” Quân đội Xô Viết càng giúp chúng ta hiểu hơn lời dạy của V.I.Lênin: Hiện nay, cũng như trước kia và sau này, “quân đội không thể và không nên trung lập”(2). Đấu tranh làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch hòng “phi chính trị hóa” quân đội, công an là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; trong đó, quân đội và công an là những lực lượng nòng cốt. Trong đó, chúng ta cần chú trọng một số giải pháp sau đây: Trước hết, tuyệt đối trung thành, kiên định và giữ vững nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo LLVT tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt. Tuân thủ những chỉ dẫn của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng LLVT cách mạng; tích cực đẩy mạnh công tác giáo dục lý luận chính trị trong LLVT nhằm tăng cường bản chất giai cấp công nhân trong bộ đội, công an; tăng “sức đề kháng” của bộ đội, công an trước các âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù trên mặt trận chính trị tư tưởng. Phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ chính trị, cán bộ tuyên giáo, tuyên huấn, đội ngũ phóng viên và văn nghệ sĩ trong tuyên truyền về mục tiêu, bản chất của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân trên mạng xã hội. Thứ hai, không ngừng hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo LLVT cho phù hợp với tình hình mới, kiện toàn hệ thống và nâng cao chất lượng tổ chức đảng trong quân đội, công an; xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân thực sự trung thành, tin cậy về chính trị, có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, làm nòng cốt trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Thứ ba, tích cực đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, vạch trần các âm mưu, thủ đoạn của chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm vào Việt Nam, phản bác sự phi lý của luận điểm “phi chính trị hóa” quân đội, công an bằng các luận cứ, luận chứng, luận điểm khoa học và thuyết phục. Sử dụng các biện pháp kỹ thuật để ngăn chặn những luồng thông tin xấu độc tiếp cận công dân Việt Nam. Thứ tư, lực lượng chức năng của quân đội, công an chủ động đấu tranh với các đối tượng tàn dư của chế độ cũ, những đối tượng suy thoái, biến chất, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở trong nước; ngăn chặn, bóc gỡ các đường dây liên kết của các đối tượng phản động trong nước với thế lực thù địch bên ngoài. Thứ năm, cần có chính sách nâng cao đời sống của cán bộ, chiến sĩ trong LLVT phù hợp với tình hình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, bảo đảm thu nhập xứng đáng với loại hình lao động đặc biệt để bộ đội, công an yên tâm công tác và chiến đấu. o

TỪ NHẬN DIỆN NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC

Phê phán các luận điệu xuyên tạc về đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam . (TG) - Sự chống phá điên cuồng, xuyên tạc sự thật của các thế lực cơ hội, thù địch về đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam là sự tiếp nối của cuộc đấu tranh ý thức hệ trong điều kiện mới nhằm phá hoại, làm mất ổn định, phát triển đất nước. Những luận điểm này tuy không có ý nghĩa gì về tri thức, lý luận, nhưng chúng ta không được coi nhẹ, phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh, phê phán. . Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, vị thế và uy tín quốc tế ngày càng được nâng cao. Ảnh: Đông Giang Vấn đề đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị và mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam luôn bị các thế lực cơ hội, thù địch quan tâm, chống phá. Bởi đây là vấn đề hệ trọng, liên quan đến sự ổn định và phát triển đất nước, đặc biệt là vào những thời điểm khó khăn. Mục tiêu sâu xa của chúng là xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xoá bỏ chủ nghĩa xã hội, thành quả cách mạng của đất nước, nhân dân ta dày công xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng; thông qua việc chống phá, gây mất ổn định, mất lòng tin, làm cho kinh tế không phát triển, xã hội tất yếu dẫn tới rối loạn, khủng hoảng và sụp đổ; hoặc làm cho chính trị rối loạn, đất nước không ổn định, kinh tế không phát triển, tất yếu cũng dẫn tới xoá bỏ chế độ chính trị. Về đổi mới kinh tế, chúng tấn công thẳng vào những vấn đề mang tính ý thức hệ, như quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chúng phủ định quy luật này, “lớn tiếng” rằng, các nước tư bản chủ nghĩa không thừa nhận quy luật này nhưng vẫn phát triển, hay quy luật này chỉ đúng thời của Mác-Lênin, khi khoa học và công nghệ chưa phát triển; ngày nay người lao động gắn bó với tư bản, có cổ phần trong các doanh nghiệp tư bản, không bị bóc lột như trước đây, được quan tâm nhiều đến lợi ích, chủ nghĩa tư bản đã có nhiều điều chỉnh, do đó không còn mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Từ đó, chúng cho rằng, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là lỗi thời. Vấn đề sở hữu công cộng dưới hai hình thức toàn dân và tập thể vẫn là một trong những nội dung các thế lực xuyên tạc, chống phá. Lợi dụng một số yếu kém trong quản lý kinh tế ở một số nước đi lên chủ nghĩa xã hội; tình trạng tham nhũng, suy thoái đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; tình hình một số doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, thất thoát tài sản, tình trạng khiếu kiện đông người vẫn diễn biến phức tạp liên quan đến đất đai; đất nơi thờ tự, đất tôn giáo, đất quốc phòng, an ninh sử dụng lãng phí, tiêu cực…, các thế lực thù địch đưa ra luận điệu rằng, còn duy trì sở hữu công cộng, nguồn lực đất nước còn lãng phí, sẽ không chống được tham nhũng, lãng phí, kinh tế tiếp tục chậm phát triển. Về các thành phần kinh tế, chúng nhấn mạnh rằng, cho dù đến nay, chế độ cộng sản đã có những đổi mới về kinh tế, các thành phần kinh tế, nhưng không căn bản, không thực chất, do vẫn giữ kinh tế nhà nước có vị trí chủ đạo. Lập luận của chúng là các thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật, nhưng trên thực tế, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh vẫn bị phân biệt đối xử, không công bằng trong môi trường kinh doanh, trong tiếp cận nguồn lực. Cơ chế phân chia lợi ích chưa rõ ràng ngay trong doanh nghiệp nhà nước, trong việc thực hiện nghĩa vụ đóng góp đối với xã hội của các thành phần kinh tế. Tuy coi kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất, nhưng kinh tế tư nhân vẫn bị phân biệt đối xử, chưa minh bạch trong chính sách, vẫn còn tình trạng “vỗ béo để thịt”, bị sách nhiễu, kiểm tra, vòi vĩnh vô lý. Về chính trị và đổi mới chính trị, đây là vấn đề các thế lực thù địch thường xuyên chống phá, “một mất, một còn”. Ở Việt Nam, sự chống phá của các thế lực thù địch bên trong, bên ngoài vẫn tập trung vào phê phán chế độ một đảng, coi đó là “đảng trị”, mất dân chủ, đòi phải đa nguyên, đa đảng. Hệ thống tổ chức, bộ máy cồng kềnh, chính phủ, quốc hội, các tổ chức chính trị- xã hội chỉ là hình thức, theo đuôi đảng. Đảng đứng trên luật pháp, quyền lực xã hội tập trung vào một số ít người. Rằng chỉ có tam quyền phân lập mới giám sát được quyền lực, hoạt động của Nhà nước mới hiệu quả, mới chống được tham nhũng. Nói là xây dựng Nhà nước pháp quyền, nhưng trên thực tế, luật pháp không được tôn trọng, nhiều vụ việc thực hiện theo sự chỉ đạo của đảng, “ đảng cử dân bầu”, “quân xanh quân đỏ”, “án bỏ túi”, đã có sự chỉ đạo từ trước. Cho rằng, chủ nghĩa xã hội là mất dân chủ, tình trạng khiếu kiện, điểm nóng xảy ra thường xuyên; các tôn giáo, người dân tộc bị đàn áp; các tổ chức chính trị do đảng thành lập ra, hoạt động kém hiệu quả, là “sân sau” của quan chức, không có vai trò đại diện cho quần chúng, làm cho bộ máy cồng kềnh, tốn tiền thuế của người dân. Chúng bóp méo sự thật khi cho rằng có tình trạng bưng bít thông tin tràn lan, báo chí bị kiểm duyệt, không có báo tư nhân; những người bất đồng chính kiến thì bị bắt, bị tra tấn, đánh đập; vẫn còn phân biệt đối xử theo lý lịch, miền Bắc, miền Nam, trong và ngoài nước. Tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị đều do đảng chi phối, do vậy mất đi sự sáng tạo. Bên cạnh đó, việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong quá trình phát triển đất nước cũng đặt ra nhiều vấn đề các thế lực thù địch, cơ hội chống phá. Quá trình nhận thức về sự phù hợp giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam không phải đã có tiền lệ, nhiều vấn đề mới phải qua thực tiễn kiểm nghiệm; không ít những hạn chế, yếu kém do nhận thức và thực hiện của bộ máy hành chính trong quá trình chuyển đổi, dẫn đến sự trì trệ ở một số lĩnh vực, thiếu sáng tạo, khách quan, đôi khi có biểu hiện chính trị hoá một số vấn đề kinh tế cụ thể. Bởi vậy, các thế lực cơ hội, thù địch cho rằng, đó là sự nửa vời, đổi mới kinh tế mà không đổi mới chính trị tương ứng, kinh tế nhiều thành phần nhưng chính trị lại độc đảng, đó là sự pha trộn giữa “nước với lửa”, chắc chắn sẽ kém hiệu quả. Rằng, phải từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, sử dụng các lý thuyết, trường phái kinh tế học mới tránh được sự can thiệp quá sâu của Nhà nước vào vận hành của nền kinh tế thị trường, tránh được sự can thiệp của chính trị vào kinh tế. Rằng, không có khái niệm dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ là giống nhau, chỉ khác là cách thực hiện, vận dụng; dân chủ là phi chính trị, phi giai cấp, không đảng phái, là tự do tranh cử.. Chúng lập luận rằng, việc chấp nhận kinh tế thị trường đối với các nước đi lên chủ nghĩa xã hội vẫn còn khiên cưỡng, nửa vời. Đã chấp nhận kinh tế thị trường, tuân thủ theo quy luật thị trường lại còn “ định hướng xã hội chủ nghĩa”, trên thực tế chưa rõ về mô hình, hoặc chỉ danh nghĩa, thực chất đã chuyển sang theo mô hình chủ nghĩa tư bản. Một số nước xã hội chủ nghĩa còn lại, kinh tế gặp nhiều khó khăn, nhìn chung đó là sự mâu thuẫn. ĐẾN NHỮNG LUẬN CỨ ĐẤU TRANH PHẢN BÁC Cần phải thấy rõ rằng, sự chống phá của các thế lực cơ hội, thù địch là cuộc đấu tranh ý thức hệ, diễn ra lâu dài, với nhiều phương thức, thủ đoạn thâm độc. Cho dù trong thực tiễn, chúng ta làm tốt, chúng vẫn điên cuồng chống phá và không ngừng xuyên tạc. Biện pháp phản bác hữu hiệu nhất là nỗ lực góp phần xây dựng đất nước ổn định, kinh tế phát triển, đời sống người dân không ngừng được nâng lên. Sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng cường, vị thế quốc gia ngày càng tăng trên trường quốc tế. Nhìn lại thực tiễn lịch sử nước ta, những thành tựu đất nước đã đạt được trong những năm qua, càng khẳng định tính đúng đắn, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, mô hình phát triển đất nước do Đảng, nhân dân ta lựa chọn là đúng đắn. Thứ nhất, nhìn lại 75 năm ra đời nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam á, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dù phải trải qua nhiều khó khăn, gian khổ, sự chống phá của các thế lực cơ hội, thù địch, sự thoái trào của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nhưng đất nước Việt Nam thống nhất, phát triển và đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Trong quá trình đó, xét về bản chất, phải giải quyết nhiều vấn đề to lớn, trong đó có mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Khi thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, nhờ có giải quyết tốt mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, Việt Nam mới giành chiến thắng trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập trước các thế lực xâm lăng có sức mạnh hơn ta nhiều lần. Khi đất nước đã thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng, từ một nước có điểm xuất phát thấp, bị tàn phá sau chiến tranh, sau 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, thực chất là một cuộc cách mạng mới, sâu sắc, toàn diện trong đó có đổi mới kinh tế, đồng thời với đổi mới chính trị với bước đi, hình thức phù hợp. Những thành tựu đạt được trên nhiều lĩnh vực của Việt Nam được thế giới ghi nhận, đất nước “chưa bao giờ có được cơ đồ như ngày nay”. Cho đến nay, ở Việt Nam, không có tổ chức chính trị nào có thể thay thế được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thứ hai, trong việc giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, trên thế giới, không có quốc gia nào không bị trả giá, bị sai lầm trong quá trình phát triển. Chủ nghĩa tư bản có lịch sử ra đời và phát triển hàng trăm năm nay, làm giàu trên máu và nước mắt của biết bao quốc gia, dân tộc, và ngay người lao động trên đất nước của họ, nhưng với hơn 200 quốc gia trên thế giới, số nước giầu có, G7, G8 mới chỉ được vài nước. Hơn nữa, ngay trong những nước đó, sự bất công, phân biệt chủng tộc, kẻ reo rắc chiến tranh, phân hoá giầu nghèo rất lớn, đã có nhiều công trình nghiên cứu, công bố quốc tế ở chính ngay các nước tư bản chủ nghĩa nói lên điều này. Bởi vậy, những hạn chế, khuyết điểm của Việt Nam trong quá trình phát triển nói chung, trong giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị nói riêng là điều có thể lý giải; những vướng mắc, sai lầm đó cũng không làm mất đi tính chính nghĩa, tính đúng đắn của sự lựa chọn mô hình phát triển, của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, là xu thế phát triển của lịch sử loài người. Thứ ba, quá trình giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam là quá trình thận trọng, chắc chắn, lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn của chân lý, được tổng kết từ thực tiễn để khái quát thành lý luận, vừa tránh giáo điều cũ, đồng thời không nóng vội, chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan; nhìn thẳng vào những sai lầm, khuyết điểm, không né tránh. Điều này được thực tiễn kiểm nghiệm trong quá trình phát triển ở Việt Nam. Lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm tiêu chí để xem xét; lấy mục tiêu vì lợi ích của nhân dân để điều chỉnh, giải quyết những mâu thuẫn, vướng mắc đặt ra trong quá trình phát triển. Khi mắc sai lầm, trước hết xem xét từ trong nội bộ Đảng, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước để tìm biện pháp khắc phục, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa “xây và chống”, trong đó xây là cơ bản, lâu dài; chống là kiên quyết, triệt để. Thứ tư, về phương pháp luận giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, trước hết được xem xét trong tính chỉnh thể, hệ thống, đó là nền tảng tư tưởng- chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó, thấy rõ đâu là những nguyên lý còn nguyên giá trị nhưng các thế lực thù địch, cơ hội vẫn chống phá; đâu là những vấn đề cần bổ sung, phát triển và vấn đề nào thực tiễn cuộc sống đã vượt qua trong lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin. Đây là điều hết sức quan trọng để đảm bảo tính khoa học, cách mạng, hơi thở cuộc sống, tiếp thu tinh hoa của nhân loại trong nền tảng tư tưởng của Đảng; nhận thức rõ hơn âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, giúp chúng ta không bị mất phương hướng. Bên cạnh đó, cần phân loại đâu là những vấn đề sai lầm trong tổ chức thực hiện, những sai lầm khuyết điểm mắc phải do tác động của các yếu tố từ bên ngoài. Thứ năm, những kết quả đạt được, tuy chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu của đất nước trong tình hình mới, nhưng cần khẳng định, đổi mới chính trị ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, trực tiếp là cơ sở để đất nước có được bước phát triển to lớn hiện nay. Hệ thống lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng rõ hơn, nền tảng tư tưởng của Đảng tiếp tục được củng cố, bổ sung và phát triển, là cơ sở quan trọng để hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng một cách đúng đắn. Hệ thống tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tiếp tục được tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn; phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới và hoàn thiện: “Tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị- xã hội tiếp tục được sắp xếp, kiện toàn theo yêu cầu nhiệm vụ mới. Chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các tổ chức trong hệ thống chính trị được phân định, điều chỉnh phù hợp hơn”(1), và “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị tiếp tục được đổi mới. Đã ban hành nhiều quy chế, quy định, quy trình công tác để thực hiện, bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị”(2); “Quốc hội có nhiều đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động. Hệ thống pháp luật tiếp tục được hoàn thiện”(3); “ Chính phủ và các bộ tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô và năng động giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng. Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng và bước đầu đạt kết quả tích cực” (4). Những kết quả tích cực đó tạo ra nhiều thay đổi lớn trong đời sống xã hội, dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy, mở rộng hơn, người dân được thông tin, giám sát hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị: “Quyền làm chủ của nhân dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực kinh tế và chính trị được phát huy tốt hơn”(5), hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách ngày càng thích ứng với thông lệ quốc tế, tính nghiêm minh trong thực hiện cao hơn. Nhờ đó, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu to lớn, được thế giới ghi nhận, nhân dân đồng tình ủng hộ. Thứ sáu, những hạn chế, yếu kém, sai lầm, khuyết điểm được Đảng, Nhà nước thẳng thắn chỉ rõ và tìm cách khắc phục, như Đại hội XII đề cập: “Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ”(6). Một số vấn đề trong đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị còn chưa đồng bộ, làm ảnh hưởng, thậm chí là điểm nghẽn của sự phát triển, đó là: “Hoàn thiện thể chế kinh tế còn chậm, thiếu kiên quyết; hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa hoàn chỉ và đồng bộ, chất lượng không cao, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu nền kinh tế, thực hiện ba đột phá”(7). Sự tác động trở lại của đổi mới chính trị đối với đổi mới kinh tế chưa tương xứng, nhiều khi còn chậm. Trong nhiều trường hợp, chủ trương, đường lối đúng nhưng vướng mắc trong tổ chức bộ máy, thể chế và tổ chức thực hiện dẫn đến hạn chế sự phát triển, như: “Quyền tự do kinh doanh chưa được tôn trọng đầy đủ; môi trường đầu tư, kinh doanh không thật sự thông thoáng, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp.Giá cả một số hàng hoá, dịch vụ thiết yếu chưa thật sự tuân theo nguyên tắc thị trường”(8). Một số hạn chế, vướng mắc chậm được giải quyết, thậm chí kéo dài trong một số nhiệm kỳ, làm cho vận hành của các tổ chức trong hệ thống chính trị trong một số trường hợp thiếu thống nhất, thông suốt, như công tác xây dựng Đảng còn nhiều yếu kém chậm được khắc phục; việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước; chưa chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp. Từ đó, nhiều tiềm năng, thế mạnh của đất nước chưa được phát huy, lực lượng sản xuất, sức sản xuất của xã hội chưa được giải phóng đầy đủ, môi trường dân chủ, sáng tạo chưa phát huy tốt: “Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ” (9). Từ thực tiễn thành tựu và những hạn chế trong đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị tác động đến sự phát triển của đất nước cho thấy, những kết quả đạt được trong phát triển của đất nước là cơ bản, to lớn và có ý nghĩa lịch sử, càng khẳng định con đường, mô hình phát triển và những đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của Việt Nam là đúng hướng; những hạn chế, thiếu sót khuyết điểm không làm thay đổi bản chất, tính đúng đắn, ưu việt của chế độ chính trị, nền tảng tư tưởng và vai trò lãnh đạo của Đảng./.

Vững vàng vượt qua khó khăn, thách thức

Hiếm có năm nào nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như năm 2020. Ngay từ đầu năm, đại dịch Covid-19 bùng phát và lan rộng ra hầu hết các nước trên thế giới, diễn biến rất nhanh, phức tạp, khó lường khiến kinh tế toàn cầu rơi vào tình trạng suy thoái nặng nề, ước cả năm 2020 tăng trưởng âm tới gần 4%; thương mại thế giới sụt giảm nghiêm trọng; thị trường tài chính biến động bất thường, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Thêm vào đó, dịch tả lợn châu Phi, thiên tai, hạn hán, bão lũ, sạt lở đất... liên tiếp xảy ra, nhất là trong những tháng cuối năm ở miền Trung làm cho nền kinh tế Việt Nam khó khăn chồng chất khó khăn. Trong bối cảnh rất đặc biệt đó, nhờ có quyết tâm cao và sự nỗ lực phấn đấu, đóng góp to lớn, bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, chúng ta đã vững vàng vượt qua khó khăn, thách thức, hoàn thành cơ bản các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra với nhiều điểm mới vượt trội và dấu ấn nổi bật. Việt Nam được bạn bè quốc tế đánh giá cao, được coi là điểm sáng về phòng, chống dịch (PCD) bệnh và phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH), bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội và đời sống nhân dân; giữ vững quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội; tiếp tục thực hiện hiệu quả các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế bằng nhiều hình thức linh hoạt, phù hợp với bối cảnh đại dịch Covid-19. Không chỉ Việt Nam đưa ra con số GDP năm 2020 tăng 2,91% mà nhiều tổ chức quốc tế trên cơ sở phân tích các yếu tố tăng trưởng của Việt Nam đã dự báo sớm con số này. Ngày 21-12-2020, báo cáo cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam “Điểm lại” của Ngân hàng Thế giới (WB) dự báo Việt Nam tăng trưởng gần 3% năm 2020 trong khi kinh tế thế giới dự kiến suy giảm ít nhất 4%, dù phải đối mặt với cú sốc lớn nhất toàn cầu trong nhiều thập kỷ qua. Báo cáo cho rằng, Việt Nam có kết quả như trên là nhờ khả năng chống chịu của cả khu vực kinh tế trong nước và kinh tế đối ngoại. Không những kiềm chế được đại dịch bằng những biện pháp sớm, quyết liệt và sáng tạo, Chính phủ còn sử dụng các chính sách tài khóa và tiền tệ để tháo gỡ khó khăn cho khu vực tư nhân và thúc đẩy phục hồi. Việt Nam dự kiến sẽ đạt mức xuất khẩu hàng hóa đạt thặng dư lớn nhất từ trước đến nay, đồng thời dự trữ ngoại hối tăng. Dòng vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục đổ vào Việt Nam kết hợp với xuất khẩu hàng hóa tăng mạnh đã bù đắp cho thất thu về ngoại tệ do hoạt động du lịch suy giảm và nguồn kiều hối bị thu hẹp. Trước đó, đầu tháng 10-2020, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo trong năm 2020, nền kinh tế Việt Nam sẽ đứng thứ 4 khu vực Đông Nam Á, vượt Singapore và Malaysia. Trong đó, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam dự báo sẽ đạt 12.100USD vào năm 2020 và tăng lên 16.100USD vào năm 2025 (tính theo phương pháp PPP). Tạp chí The Economist (Anh) mới đây có bài bình luận coi Việt Nam là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất trong năm 2020. Còn kênh truyền hình BBC của Anh đánh giá mức tăng trưởng của kinh tế Việt Nam cao hơn so với dự đoán của WB hồi tháng 10-2020. Giáo sư Vladimir Mazyrin, lãnh đạo Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và ASEAN của Viện Viễn Đông thuộc Viện Hàn lâm khoa học Nga đánh giá Việt Nam trong năm 2020 là một "thành công kinh tế phi thường". Điều này giúp Việt Nam vươn lên vị trí cao hơn trong các bảng xếp hạng thế giới vào thời gian sắp tới. Những dẫn chứng và phân tích của các tổ chức quốc tế và học giả nói trên đã quá đủ để khẳng định Việt Nam có “tô hồng bức tranh” kinh tế hay một số kẻ vẫn cố tình “bôi đen bức tranh kinh tế”? Không ai yêu cầu sửa đổi số liệu thống kê Đó là khẳng định của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại Hội nghị thống kê toàn quốc tổ chức vào đầu năm 2020. Phát biểu tại hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhìn nhận vai trò quan trọng của ngành thống kê đối với đất nước. Khẳng định số liệu thống kê là khách quan, chặt chẽ, đúng pháp luật, Thủ tướng nêu rõ, “chưa bao giờ hay bất cứ đồng chí lãnh đạo nào yêu cầu TCTK phải sửa số liệu này, số liệu khác trong quá trình thống kê KT-XH đất nước”. Thủ tướng bày tỏ vui mừng khi năm 2018, chỉ số chung về năng lực thống kê của Việt Nam theo các tiêu chí đánh giá của WB xếp hạng 19/145 quốc gia, vùng lãnh thổ (vượt mục tiêu của Chiến lược vào năm 2020 đạt 80 điểm; cao hơn mức trung bình của khu vực châu Á-Thái Bình Dương, xếp thứ 2 trong khu vực Đông Nam Á). Ông Nguyễn Bích Lâm, nguyên Tổng cục trưởng TCTK khẳng định: “Quan điểm làm thống kê của chúng tôi là trung thực, đổi mới, vì đất nước. Cơ quan thống kê hoàn toàn độc lập, khách quan, không chịu sức ép của ai. IMF đã thừa nhận TCTK áp dụng đúng chuẩn mực, thông lệ quốc tế và xin phép sử dụng các báo cáo của cơ quan thống kê để công bố công khai trên trang web của họ”. Trở lại với số liệu GDP của Việt Nam trong năm 2020, tại cuộc họp báo công bố số liệu thống kê KT-XH quý IV và cả năm 2020 được tổ chức chiều 27-12-2020, tại Hà Nội, bà Nguyễn Thị Hương, Tổng cục trưởng TCTK phân tích: “Dù Việt Nam thuộc nhóm nước tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới trong năm 2020, nhưng mức tăng GDP 2,91% trong năm nay là mức tăng trưởng thấp nhất của thập niên 2011-2020”. Theo bà Hương, GDP quý IV-2020 tăng 4,48% so với cùng kỳ năm trước. Có được mức tăng trưởng khởi sắc này do chúng ta đã kiểm soát chặt chẽ dịch Covid-19, nền kinh tế từng bước hoạt động trở lại trong điều kiện bình thường mới. Hiệp định thương mại tự do Việt Nam và EU có hiệu lực từ ngày 1-8-2020 tạo động lực tăng trưởng cho nền kinh tế. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,69%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,60%, khu vực dịch vụ tăng 4,29%, thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 1,07% so với cùng kỳ năm trước. Một số người do không hiểu tình hình Việt Nam hoặc cố tình xuyên tạc sự thật đã "phát biểu" trên mạng xã hội và báo chí nước ngoài rằng “Việt Nam nhào nặn số liệu thống kê” là hoàn toàn sai trái bởi chính họ đã “nhào nặn méo mó”, “bôi đen” bức tranh kinh tế Việt Nam.

Việt Nam nổi lên như một điểm sáng giữa bức tranh toàn cầu

Nhiều tổ chức quốc tế, nhiều nước và hãng thông tấn báo chí có uy tín trên thế giới coi Việt Nam là hình mẫu về cách thức kiểm soát dịch bệnh đạt hiệu quả cao nhất với mức chi phí tối thiểu, là tấm gương trong PCD bệnh và thể hiện trách nhiệm, uy tín cao trong hợp tác quốc tế, khu vực về PCD. Đại sứ EU tại Việt Nam Giorgio Aliberti phát biểu "...Ở lại Việt Nam thời dịch là một may mắn". Chính sự thành công trong PCD Covid-19 đã tạo điều kiện cho phục hồi và phát triển kinh tế của Việt Nam. Dự báo về tốc độ tăng trưởng trong năm 2021, HSBC-một trong những tổ chức dịch vụ tài chính và ngân hàng lớn nhất trên thế giới có trụ sở chính tại Anh cho rằng, Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ sự phục hồi do công nghệ dẫn đầu, dòng vốn FDI bền bỉ và nhiều hiệp định thương mại được ký kết. Theo đó, dù hạ mức dự báo tăng trưởng so với dự báo trước đó là 8,1%, HSBC vẫn tin tưởng kinh tế Việt Nam có thể đạt mức tăng trưởng 7,6% trong năm 2021, chủ yếu do sự phục hồi của ngành du lịch vẫn bị kéo dài. Còn IMF dự báo hoạt động kinh tế của Việt Nam sẽ phục hồi mạnh trong năm 2021, đạt sự ổn định vĩ mô về mọi mặt, từ tăng trưởng, thâm hụt tài khoản vãng lai đến việc làm. IMF khẳng định nền kinh tế Việt Nam đủ đa dạng để chống đỡ sự suy giảm kinh tế do dịch Covid-19 gây ra và đạt tăng trưởng tích cực. Trung tâm Nghiên cứu kinh tế và kinh doanh (CEBR) ở Anh mới đây công bố báo cáo thường niên về 193 nền kinh tế, trong đó dự báo kinh tế Việt Nam sẽ vươn lên vị trí thứ 19 thế giới vào năm 2035. Cụ thể, CEBR dự báo kinh tế Việt Nam tăng trưởng trung bình 7% trong giai đoạn 2021-2025, 6,6% trong 10 năm tiếp theo, đến năm 2035 sẽ vượt qua Đài Loan (Trung Quốc) và Thái Lan. Dù bạn bè quốc tế hết lời ca ngợi, nhưng chúng ta vẫn chưa thật sự hài lòng với những kết quả đã đạt được. Tại Hội nghị Chính phủ với các địa phương mới đây, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tuyệt đối không được chủ quan, thỏa mãn với những kết quả, thành tích đã đạt được trong năm 2020. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng dự báo trong những năm tới, bối cảnh quốc tế, khu vực tiếp tục có nhiều thay đổi rất phức tạp, nhanh chóng, khó đoán định. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn. Cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại tiếp tục diễn ra gay gắt. Dưới tác động của đại dịch Covid-19, thế giới rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng nhiều mặt, cả về y tế, KT-XH và quản trị, có thể tiếp tục kéo dài trong các năm 2021-2022. Biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và các vấn đề an ninh phi truyền thống ngày càng tác động mạnh, nhiều mặt, đe dọa nghiêm trọng đến sự phát triển ổn định, bền vững của thế giới, khu vực và đất nước ta. Chính vì lẽ đó, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng yêu cầu chính quyền các địa phương và toàn hệ thống chính trị cần chủ động, tích cực quán triệt, tổ chức triển khai thực hiện thật tốt, ngay từ đầu năm 2021 Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các nghị quyết của Trung ương, Quốc hội và Chính phủ bằng những chương trình, kế hoạch công tác cụ thể, phù hợp với thực tế, có tính khả thi cao, với tinh thần chung là phải chủ động, tích cực hơn, năng động, sáng tạo hơn, đạt được kết quả tổng thể cao hơn các năm trước và nhiệm kỳ trước. Tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ 5 năm 2016-2020 và triển khai các nhiệm vụ trọng tâm năm 2021 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức vào cuối tuần qua, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương vui mừng thông báo: Trong tuần làm việc đầu tiên của năm mới 2021, cả nước đã có 18.000 hồ sơ đăng ký doanh nghiệp được xử lý, với 2.100 doanh nghiệp thành lập, tăng 46% so với năm ngoái và tăng 55% so với cùng thời điểm bắt đầu thi hành Luật Doanh nghiệp năm 2015. Thông tin này một lần nữa khẳng định điểm sáng Việt Nam trên bức tranh kinh tế toàn cầu u ám. Thủ đoạn xuyên tạc sự thật của các thế lực cơ hội, thù địch về đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam, trong đó có việc “bôi đen bức tranh kinh tế” không có gì là mới bởi lẽ nhiều năm qua chúng đã làm như vậy. Mục tiêu sâu xa của chúng là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, thành quả cách mạng của đất nước, nhân dân ta dày công xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thông qua việc chống phá, gây mất lòng tin, làm cho kinh tế không phát triển, xã hội tất yếu dẫn tới rối loạn, khủng hoảng và sụp đổ. Những luận điểm này tuy không có ý nghĩa gì về tri thức, lý luận, nhưng chúng ta không được coi nhẹ, phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh, phê phán. Biện pháp phản bác hữu hiệu nhất là mỗi người hãy nỗ lực lao động, sản xuất, học tập, công tác góp phần xây dựng đất nước ổn định, kinh tế phát triển, đời sống người dân không ngừng được nâng lên. Đồng thời, nêu cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ Đảng và chế độ ưu việt của chúng ta./.

Tạo “sức đề kháng” và “tự miễn dịch” trước thông tin xấu độc .

Internet và các tiện ích, công nghệ của tự bản thân nó đã và đang phát triển với tốc độ nhanh chưa từng có trong lịch sử. Kéo theo sự phát triển đó là quá trình phát triển mạnh mẽ của các mạng xã hội. Tất nhiên đi liền với nó là tính chất hai mặt, bao gồm cả tích cực và tiêu cực. 1. Mặt tích cực là sự phong phú, đa dạng, nhiều màu, nhiều vẻ của các thông tin được cập nhật liên tục với lượng dữ liệu khổng lồ, giúp ích cho công chúng khai thác, tìm kiếm thông tin. Mặt tiêu cực của nó là các thông tin xấu độc, trong đó rất đáng quan ngại là các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đảng và chế độ. Với tính đặc thù tự bản thân mạng Internet khó có thể kiểm soát, ngăn chặn các thông tin xấu độc. Cuộc đấu tranh địch - ta trên không gian mạng của trận địa tư tưởng tuy thầm lặng nhưng ngày càng khốc liệt hơn. Đối phó, đấu tranh, ngăn chặn các quan điểm sai trái trên mạng xã hội là lâu dài. Chúng ta cũng cần khách quan, nhìn nhận nó theo hướng tăng cường đối phó, đấu tranh, ngăn chặn để giảm thiểu tác hại, chứ không thể tiêu diệt nó một cách triệt để. Nhận thức như vậy, để thấy, chúng ta trong môi trường thông tin số, “sống chung với lũ”, thích ứng với nó và có giải pháp căn cơ, bền vững, lâu dài là tư duy đúng đắn nhất. Tư duy đó cần phải được mọi cán bộ, đảng viên, nhân dân với tư cách công dân mạng của chúng ta hiểu đúng, chỉ có hiểu đúng mới giúp chúng ta có chiến lược, có giải pháp khả thi, hữu hiệu để đẩy lùi quan điểm sai trái, thông tin xấu độc. Chính vì vậy, “vác xin” quan trọng là cần cung cấp thông tin chính thống để nâng cao nhận thức, tri thức giúp cộng đồng mạng đủ sức nhận thức, phân biệt đúng - sai, tích cực - tiêu cực, xấu - tốt, từ đó, đủ sức đề kháng, dần dần hình thành cơ chế “tự miễn dịch” trước thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch. Đây vẫn là chìa khóa căn cơ lâu dài để tăng sức đề kháng cho công dân mạng, nhất là thanh thiếu niên; là giải pháp bền vững nhất để đẩy lùi, giảm thiểu các tác hại từ những quan điểm sai trái, thông tin xấu độc trên mạng xã hội hiên nay. 2. Câu hỏi đặt ra là giải pháp nào để nâng cao “sức đề kháng”, “tự miễn dịch” để đẩy lùi, giảm thiểu tác hại từ các quan điểm sai trái, thông tin xấu độc? Trong khuôn khổ bài viết này, có thể tiếp cận vấn đề dưới góc độ tuyên truyền ở một số giải pháp trọng tâm sau: Thứ nhất, tăng cường tuyên truyền, giúp cộng đồng mạng nhận diện rõ bản chất của các quan điểm sai trái, thù địch. Nhiệm vụ của báo chí chính thống là tạo dòng thông tin chủ đạo, chi phối để cộng đồng mạng nhận diện rõ bản chất các quan điểm sai trái; làm cho mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân - với tư cách công dân mạng có thể nhận thức, nhận diện thông tin xấu độc, hiểu rõ thế nào là quan điểm sai trái, thế nào là quan điểm thù địch. Khi đã nhận thức đúng - sai của thông tin xấu độc, sai trái, thù địch thì mỗi công dân mạng sẽ có nhãn quan chính trị, tự giác phòng chống và chủ động đấu tranh, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch. Các cơ quan báo chí phải chủ động phân tích, làm rõ nội hàm, bản chất quan điểm sai trái, quan điểm thù địch ở từng cấp độ thông tin khác nhau. Có những hệ thống thông tin ở mức độ tổng quan, phân tích bài bản âm mưu, thủ đoạn khái quát từ hệ thống các quan điểm sai trái, thù địch. Có những thông tin phân tích trực diện, cụ thể, kịp thời đối với từng loại thông tin sai trái, thù địch. Báo chí chính thống cần trang bị tri thức cho cộng đồng mạng nhận diện rõ mục tiêu của các thế lực phản động là nhằm làm tan rã niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng ta, kích động nội bộ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hòng chuyển hóa chế độ. Làm rõ phương thức, thủ đoạn mới nhất hiện nay của chúng. Đó là triệt để lợi dụng những “khuyết tật”, yếu kém, tham nhũng, tiêu cực, nhất là các vụ đại án lớn hiện nay để xuyên tạc, nói xấu Đảng, chế độ ta. Thủ đoạn của chúng là viện cớ những yếu kém, tiêu cực đó để “bình luận”, tham chiếu, coi đó là nguyên nhân, hệ lụy của việc níu kéo, vận dụng chủ nghĩa Mác- Lênin lỗi thời, lạc hậu vào con đường phát triển của Việt Nam. Cũng từ đó, các tổ chức phản động ở nước ngoài tung hứng, ra yêu sách đòi Đảng ta từ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đòi đa nguyên, đa đảng. Cần nâng cao nhận thức cho cộng đồng mạng về thủ đoạn tận dụng các tiện ích, công nghệ mới của Internet để phát tán các thông tin sai trái, thù địch, lôi kéo sự tò mò của công dân mạng, nhất là lớp trẻ tham gia đối thoại trực tiếp, bình luận, dẫn dắt thông tin theo ý đồ xấu của chúng. Trong thực tế, thời gian qua không ít thông tin trên mạng thông qua các tiện ích, công nghệ mới, hiện đại trên các mạng xã hội đã gây hoài nghi, hoang mang trong xã hội, nhất là một bộ phận trí thức và thanh niên, sinh viên - đối tượng thường xuyên tiếp cận với phương tiện này. Cũng từ đó, một trong những hệ quả nguy hiểm của thủ đoạn này là gây mất phương hướng, sa sút niềm tin đối với vai trò lãnh đạo của Đảng... Thứ hai, phát huy vai trò dẫn dắt, chi phối thông tin chính thống của hệ thống báo chí và mạng xã hội của Việt Nam để cộng đồng mạng nâng cao nhận thức, đủ sức “đề kháng” trước các quan điểm sai trái, thù địch Theo đó, báo chí cần tăng cường tuyên truyền, cổ vũ các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và hệ thống chính trị vào cuộc để thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu mà Nghị quyết 35 NQ/TW của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” đã chỉ ra. Đó là tiếp tục làm cho toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; đổi mới nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục đối với các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, nhằm nâng cao “sức đề kháng”, khả năng chủ động đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch. Báo chí cần đẩy mạnh tuyên truyền để mỗi công dân mạng tin tưởng về những tiến bộ, thành tựu toàn diện của đất nước. Tăng cường tuyên truyền những thành tựu của công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Từ đó, góp phần nâng cao nhận thức cho mỗi công dân mạng về sự lãnh đạo của Đảng đối với cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí nhằm làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh; việc xử lý các tội phạm trong các vụ đại án tham nhũng thể hiện rõ chủ trương chống tham nhũng không có vùng cấm, bất kỳ người đó là ai. Hệ thống mạng xã hội của Việt Nam tuy mới ra đời nhưng đã có sự ảnh hưởng nhất định trong cộng đồng mạng. Vì vậy, cần có định hướng rõ ràng để các mạng xã hội có thế mạnh vào cuộc, tham gia một cách chủ động trong gợi mở, định hướng, dẫn dắt và chi phối thông tin tích cực trên mạng xã hội. Ngoài mạng xã hội VCNet, Mocha, các cơ quan chức năng cần có cơ chế, quy định rõ các chủ thể của các mạng xã hội như Zing.me, Lotus, Nhaccuatui có trách nhiệm trong thông tin mặt tích cực của đời sống xã hội. Đây là cách tốt nhất để thực hiện phương châm “xây” và “chống”, trong đó lấy “xây” là chính, nhằm nhân cái đẹp, dẹp cái xấu, lấy thông tin tích cực để đẩy lùi thông tin tiêu cực, xấu độc, sai trái, thù địch. Trong thời đại “thế giới phẳng”, “cuộc sống số”, với tính đặc thù của phương thức đấu tranh tư tưởng nói chung và đấu tranh tư tưởng trên mạng Internet nói riêng, vũ khí tối ưu nhất vẫn là tạo “sức đề kháng” cho mỗi cư dân mạng có thể chống đỡ tác động từ thông tin, quan điểm sai trái, thù địch. Vũ khí tối ưu đó chính là cung cấp kịp thời, đầy đủ những thông tin chính thống trên mạng. Khi nhu cầu thông tin được đáp ứng, thì nhu cầu tìm đọc các thông tin không chính thống - thông tin sai trái sẽ hạn chế đi rất nhiều, ngoại trừ những cá nhân do tò mò hay các lý do khác. Thứ ba, các cơ quan chức năng cần ban hành hệ thống văn bản có tính pháp quy, quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan báo chí tham gia đấu tranh, phòng chống quan điểm sai trái, thù địch. Hiện nay, hiệu quả cuộc đấu tranh chống quan điểm sai trái, thù địch còn không ít hạn chế, yếu kém. Chủ yếu mới là lực lượng chuyên trách tham gia đấu tranh. Tình trạng “nói chưa đi đôi với làm”, thờ ơ trước tác động của các quan điểm sai trái, thù địch phát tán trên mạng còn diễn ra khá phổ biến. Vì vậy, nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh này là “thuốc” đặc hiệu, là cơ sở quan trọng để lấy lại niềm tin của cộng đồng mạng. Từ niềm tin đó sẽ tạo “sức đề kháng” cho mỗi công dân mạng trước tác động của các quan điểm sai trái, thù địch. Để làm tốt công tác tuyên truyền trên mặt trận đấu tranh này, bản thân các cơ quan báo chí cũng cần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, phóng viên, biên tập viên. Đảm bảo để đội ngũ những người làm báo có năng lực chuyên môn, tinh thông nghề nghiệp, vừa có đạo đức trong sáng, lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, luôn có ý chí chiến đấu bảo vệ lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Xây dựng hệ thống tổ chức đấu tranh chống quan điểm sai trái trên mạng Internet từ Trung ương đến cấp tỉnh, thành phố, bao gồm đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên giáo, am hiểu về thực tiễn. Đặc biệt cần xây dựng tổ chức chuyên trách với lực lượng nòng cốt là các chuyên gia, các nhà lý luận về tư tưởng chính trị chuyên đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái về tư tưởng chính trị trên mạng Internet, bao gồm những chuyên gia giỏi về lý luận, những cây bút sắc bén, am hiểu và ứng dụng tốt công nghệ thông tin. Tổ chức lực lượng trong các cơ quan chính quyền, cơ quan quân đội, công an các cấp và trong các tổ chức chính trị, xã hội... thực hiện thường xuyên nhiệm vụ đấu tranh chống quan điểm sai trái trên mạng Internet. Tổ chức các lực lượng kịp thời ngăn chặn không để các quan điểm sai trái phát tán trên mạng Internet có điều kiện tác động vào các tầng lớp nhân dân. Tổ chức đấu tranh trực diện đối với những người cơ hội, lệch lạc về chính trị ngay từ cơ sở. Thường xuyên đổi mới phương thức, phương tiện đấu tranh hiện đại, nhất là các tiện ích mới nhằm thu hút công chúng mạng tham gia chia sẻ, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Xây dựng hệ thống phương tiện, kỹ thuật đủ sức mạnh, đủ khả năng tham gia vào hoạt động giao lưu thông tin quốc tế trong xu thế “thế giới phẳng”; vừa phải đáp ứng nhu cầu cung cấp thông tin chính thống của nhân dân nói chung, của cư dân mạng nói riêng, vừa phải đủ sức bảo vệ lợi ích kinh tế, định hướng chính trị, những giá trị văn hóa của dân tộc, đồng thời đủ sức chiến đấu, phê phán phản bác các thông tin sai trái, độc hại trên mạng Internet, góp phần giữ vững trận địa tư tưởng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, của chế độ xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, để đẩy lùi, giảm thiểu tối đa tác động từ các thông tin sai trái, thù địch, chúng ta cũng rất cần đổi mới, mở rộng các hình thức, phương tiện đấu tranh. Các cơ quan báo chí có lượng người đọc lớn, có tác động, chi phối thông tin trên mạng cần mạnh dạn tạo các diễn đàn mở để trao đổi trực tuyến các ý kiến, quan điểm khác biệt. Từ đó, triển khai tranh luận, giải thích với những người có ý kiến, quan điểm khác biệt, hoặc phản bác những quan điểm thù địch, chống đối chế độ. Đây cũng là diễn đàn để một mặt chúng ta tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, nhưng mặt khác, nhân dân có thể tham gia trao đổi - tranh luận hoặc phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Tăng cường lãnh đạo, quản lý nhà nước đối với hệ thống báo điện tử. Sớm khắc phục tình trạng sai tôn chỉ mục đích, đưa quá nhiều mảng tối của đời sống chính trị, tạo “mảnh đất” để các thế lực thù địch, cơ hội chính trị dễ dàng lợi dụng, khai thác thông tin, nói xấu chế độ. Các báo điện tử, trang tin điện tử chú trọng đổi mới, xây dựng giao diện app mobile cho điện thoại di động, tạo điều kiện cho số đông cư dân mạng, nhất là giới trẻ thường xuyên truy cập Internet qua mạng di động có thể sử dụng dễ dàng trong việc khai thác, tìm kiếm thông tin chính thống. Thứ tư, cần sớm có chủ trương, giao các cấp ủy Đảng, đoàn thể chính trị - xã hội ban hành quy tắc tham gia mạng xã hội. Trong đó, quy định rõ trách nhiệm và cơ chế khen thưởng, xử lý kỷ luật đối với cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên… khi tham gia mạng xã hội. Quy định rõ nhiệm vụ của đảng viên, đoàn viên, hội viên tham gia đấu tranh, phản bác các thông tin sai trái, thù địch. Ban hành nghị định với các chế tài cụ thể đối với các hành vi đồng phạm, chủ động phát tán, a dua nói xấu Đảng, bôi nhọ lãnh đạo, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Mặt khác, toàn bộ hệ thống chính trị cần vào cuộc để thực hiện tốt Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị. Nêu cao ý thức, trách nhiệm của mỗi cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, cơ quan, đơn vị, toàn thể cán bộ, đảng viên, công dân tham gia đấu tranh chống quan điểm sai trái trên mạng Internet. Đồng thời tăng cường tuyên truyền, cổ vũ các tầng lớp nhân dân chủ động tiến công, tự giác đấu tranh, phản bác đối với các thông tin xấu độc, sai trái, thù địch phát tán trên mạng. Tăng cường tuyên truyền, cổ vũ, nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban, ngành, đoàn thể; giữa Trung ương và địa phương nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp các lực lượng trên mặt trận tư tưởng, văn hóa trong cuộc đấu tranh chống các hoạt động “diễn biến hòa bình”, chống quan điểm sai trái. Chú trọng việc tổ chức để các đoàn thể quần chúng như Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp... tham gia đấu tranh trên mạng Internet đối với những quan điểm và hành động sai trái của các phần tử cơ hội chính trị và các thế lực thù địch. Phối hợp có hiệu quả giữa các lực lượng, binh chủng trong lĩnh vực bảo vệ an ninh tư tưởng chính trị, đặc biệt là về tư tưởng chính trị trên mạng Internet. Thứ năm, để khuyến khích tinh thần yêu nước, dũng cảm tham gia đấu tranh trên không gian mạng, các cơ quan chức năng cần sớm nghiên cứu, tạo cơ chế, khuyến khích việc thành lập các tổ chức dưới dạng tự nguyện xung kích. Nếu các tổ chức tình nguyện tham gia đấu tranh trên mạng xã hội xuất hiện càng nhiều, chúng ta càng có lực lượng lớn đủ sức đẩy lùi các quan điểm sai trái, thông tin xấu độc. Chính vì vậy, các đoàn thể chính trị - xã hội cũng cần nghiên cứu, có cơ chế khen thưởng để cổ vũ, động viên, tập hợp nhiều học sinh, sinh viên, thanh niên tích cực tham gia đấu tranh chống quan điểm sai trái trên mạng xã hội./.

Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là lựa chọn đúng của Việt Nam .

Một trong những luận điệu đó là phủ nhận cụm từ “phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” trong dự thảo văn kiện đại hội. Họ cố tình "nhắm mắt" trước thực tiễn 35 năm đổi mới đã khẳng định phát triển kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) là sự lựa chọn đúng đắn của Việt Nam. Không phải là khái niệm mơ hồ Cách đây mấy năm, một số người tự xưng là “nhà nghiên cứu”, “nhà khoa học”, “nhà dân chủ” đã phát biểu trên một số tờ báo nước ngoài, trang mạng xã hội rằng “KTTT" và XHCN khác nhau như nước với lửa, như ngày với đêm, hoàn toàn đối lập nhau”; “KTTT là phủ định của XHCN và ngược lại”... Gần đây những người này lên diễn đàn “góp ý” vào dự thảo văn kiện Đại hội XIII của Đảng, cũng vẫn luận điệu ấy nhưng lại “bổ sung thêm vấn đề mang tính lý luận” rằng "KTTT định hướng XHCN là khái niệm mơ hồ” vì thế họ “kiến nghị không nên để cụm từ KTTT định hướng XHCN trong văn kiện Đại hội XIII”. Không hiểu những người nói trên “nghiên cứu” những gì nhưng xem họ phát biểu thì những người có hiểu biết chút ít về kinh tế thì cũng cảm nhận được sự mơ hồ của họ. Bởi lẽ KTTT là sản phẩm của văn minh nhân loại. Chủ nghĩa tư bản đã lấy KTTT làm cơ sở cho sự tồn tại, vận động, phát triển của mình. KTTT đã trải qua nhiều giai đoạn biến đổi thăng trầm, tiến hóa theo thời gian cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và các quan hệ kinh tế, dưới tác động của cách mạng khoa học-kỹ thuật. Trong những năm gần đây, dựa theo những nét khác biệt và tương đồng, người ta đã chia các mô hình kinh tế thị trường đang vận hành trên thế giới thành nhiều nhóm, tiêu biểu là mô hình thể chế KTTT tự do (Mỹ, Anh...); mô hình thể chế KTTT xã hội (Đức, Thụy Điển ...); mô hình thể chế KTTT nhà nước phát triển (Nhật Bản, Hàn Quốc...); mô hình thể chế KTTT định hướng XHCN như ở Việt Nam.... Tại Việt Nam, khái niệm KTTT định hướng XHCN được chính thức sử dụng trong các văn kiện Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001); theo đó, “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đó chính là nền KTTT định hướng XHCN”. Đại hội lần thứ XII của Đảng (tháng 1-2016) tiếp tục bổ sung, phát triển: “Nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của KTTT, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN”. Dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII trình Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục làm rõ thêm khái niệm KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền KTTT hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của KTTT, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng XHCN vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng được khuyến khích phát triển. Như vậy không thể coi “KTTT định hướng XHCN” là khái niệm mơ hồ. Cũng phải nói thêm rằng, trong thời gian gần đây ở các nước tư bản phát triển, dù ở mức độ khác nhau, nhưng KTTT đều có định hướng xã hội. Đây là xu hướng tiến bộ, là những mầm mống của CNXH trong lòng chủ nghĩa tư bản. Do tính chất của thời đại, một nước kinh tế chưa phát triển, chưa qua giai đoạn phát triển TBCN, cũng có thể quá độ lên CNXH. Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở những nước này, sử dụng cả KTTT và cả kinh tế TBCN để xây dựng nền tảng cơ sở vật chất cho CNXH.

Thực tiễn đã chứng tỏ sự lựa chọn đúng đắn của Việt Nam

Trong “bầu trời u ám” kinh tế thế giới năm 2020, Việt Nam nổi lên như một điểm sáng đáng ghi nhận và tự hào. Với tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2020 tăng 2,91% so với năm trước, Việt Nam thuộc nhóm nước có tăng trưởng cao nhất thế giới. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 và thiên tai gây hậu quả nặng nề thì đây là thành công lớn của Việt Nam. Lý giải nguyên nhân dẫn đến thành công này, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, có nguyên nhân quan trọng từ mô hình thể chế KTTT định hướng XHCN. Mô hình này tỏ rõ hiệu quả về khả năng tự chủ, tự cường, phản ứng chính sách và phản ứng thị trường đồng bộ. Cùng với đó là sức chống chịu và thành công trong việc kiểm soát sự lây lan của dịch Covid-19. Với nguyên tắc quyền lực Nhà nước là tập trung, thống nhất đã giúp cho chính quyền Trung ương có đủ sức mạnh và có đủ thẩm quyền để ban hành quyết định nhanh chóng cho toàn hệ thống. Đây là một ưu thế rất lớn trong cuộc chiến chống dịch khi chính quyền Trung ương được điều hành bởi những người có năng lực và quyết đoán. Mô hình phân quyền của một số nước cho thấy việc ban hành các quyết định cần thiết đã bị chậm trễ hơn nhiều. Mà chậm một ngày thôi dịch bệnh đã có thể lây lan ra cộng đồng và vượt tầm kiểm soát. Chấp nhận hy sinh một số lợi ích kinh tế để bảo vệ sức khỏe, tính mạng của nhân dân là quan điểm nhất quán của Chính phủ Việt Nam. “Chúng ta đã thảo luận, cơ bản thống nhất: Chống dịch đồng bộ, quyết liệt để bảo vệ sức khỏe, tính mạng của nhân dân là nhiệm vụ hàng đầu nhưng phải thúc đẩy, giữ vững phát triển kinh tế, giữ ổn định xã hội, kinh tế vĩ mô, bảo đảm quốc phòng, an ninh”-Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã phát biểu như vậy tại phiên họp thường kỳ của Chính phủ tháng 1-2020. Có thể nói thể chế KTTT định hướng XHCN đã là cơ sở để Việt Nam hoàn thành mục tiêu “kép”, vừa phòng, chống dịch thành công, vừa tập trung nguồn lực phát triển kinh tế. Định hướng XHCN của nền KTTT được bảo đảm bởi vai trò quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, được thể hiện ở hệ thống pháp luật, chính sách, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch để tạo ra môi trường kinh doanh công khai, minh bạch, thuận lợi, tạo động lực phát triển kinh tế nhanh, bền vững. BBC, hãng thông tấn xã quốc gia của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland ngày 12-1-2021 đã khẳng định: “Việt Nam đã xử lý kiên quyết, chặt chẽ và ngay từ đầu với đại dịch Covid-19, nhờ đó hạn chế thiệt hại ở mức thấp nhất. Như là một thắng lợi kép, Việt Nam đã phát triển kinh tế trở lại trong khi thế giới còn đầy rẫy khó khăn. Kết quả là, Việt Nam vượt qua Singapore và Malaysia để vào tốp 4 nền kinh tế hàng đầu Đông Nam Á, thậm chí Quỹ Tiền tệ quốc tế còn cho rằng Việt Nam đã ở trong tốp 3, vượt qua Philippines về mức độ thịnh vượng, và cả về tổng sản phẩm quốc nội thu nhập tính theo đầu người... Trung tâm Nghiên cứu kinh tế Nhật Bản (JCER) còn dự báo với khả năng hồi phục và bật dậy nhanh chóng sau dịch Covid-19, Việt Nam sẽ trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2023 và là nền kinh tế lớn thứ hai Đông Nam Á sau Indonesia vào năm 2035. Cũng là thời điểm Việt Nam sẽ vượt qua Đài Loan, theo JCER. Đấy không phải là sự so sánh quá lạc quan. Điều mà chúng tôi thấy được là Việt Nam đã không bị hụt hơi do hoàn cảnh và đó là tin tốt đối với một nền kinh tế vốn và vẫn còn đang ở trình độ thấp”. Nhờ phát triển KTTT định hướng XHCN mà từ một nền kinh tế nông nghiệp, lạc hậu, quy mô nhỏ bé, với GDP chỉ 14 tỷ USD và GDP bình quân đầu người chỉ khoảng 250USD trong những năm đầu đổi mới, Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng đói nghèo, chuyển sang thực hiện và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Kinh tế vĩ mô ngày càng ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, các cân đối lớn của nền kinh tế được cải thiện đáng kể. Chất lượng tăng trưởng được cải thiện. Thị trường tiền tệ, ngoại hối cơ bản ổn định. Tỷ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa tăng từ 19% năm 2010 lên khoảng 50% năm 2020. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng tính chung 10 năm 2011-2020 đạt 39,0%. Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2016-2020 là 5,8%/năm. Lạm phát cơ bản giảm từ 13,6% năm 2011 xuống khoảng 2,5% năm 2020. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa tăng 3,6 lần, từ 157,1 tỷ USD năm 2010 lên 543,9 tỷ USD năm 2020... Những nhận định đánh giá của các tổ chức quốc tế, cơ quan thông tấn quốc tế và các con số thống kê nói trên đã minh chứng cho hiệu quả của việc phát triển KTTT định hướng XHCN của Việt Nam và khẳng định “lời khuyên” của những người muốn Việt Nam đi chệch đường là không có cơ sở về thực tiễn.

 Tổng cục Hậu cần giao nhiệm vụ đội tuyển 'Tiếp sức quân y' tham gia Army Games năm 2021

Chiều 6-4, tại Trường Cao đẳng Hậu cần 1, Tổng cục Hậu cần (TCHC) tổ chức Hội nghị giao nhiệm vụ đội tuyển 'Tiếp sức quân y' tham gia Hội thao quân sự quốc tế (Army Games) năm 2021. Thiếu tướng Đỗ Văn Thiện, Chính ủy TCHC chủ trì hội nghị.

Dự hội nghị có: Thiếu tướng Nguyễn Hùng Thắng, Phó chủ nhiệm, Tham mưu trưởng TCHC; đại biểu lãnh đạo, chỉ huy một số cơ quan TCHC, Trường Cao đẳng Hậu cần 1 và các thành viên đội tuyển “Tiếp sức quân y”.

Tại hội nghị, Đại tá Nguyễn Văn Tuấn, Phó cục trưởng Cục Quân y đã báo cáo khái quát công tác luyện tập của đội tuyển “Tiếp sức quân y” tham dự Army Games năm 2021 tại Cộng hòa Uzbekistan sắp tới. Qua báo cáo cho thấy, chấp hành chỉ thị của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Cục Quân y (TCHC) đã chủ động liên hệ, phối hợp với các cơ quan, đơn vị trong toàn quân lựa chọn các quân nhân có đủ sức khỏe, đáp ứng được tiêu chí theo tiêu chuẩn hội thao để tập trung huấn luyện, lựa chọn thành viên đội tuyển. Đến nay, đội tuyển có 34 thành viên, đến từ 9 đơn vị trong toàn quân; sau thời gian huấn luyện, đội rút xuống còn 24 thành viên. Trong đó bộ phận vận động viên tham gia thi đấu là 14 người, chia làm 2 đội nam, nữ, mỗi đội 7 tuyển thủ gồm: 1 bác sĩ đội trưởng, 1 bác sĩ, 3 nhân viên trung cấp quân y, 1 lái xe thiết giáp, 1 nhân viên trung cấp quân y dự bị.

Được biết, năm nay, đội tuyển “Tiếp sức quân y” sẽ thi đấu 3 nội dung gồm: Kỹ thuật cá nhân; vô địch đồng đội và kỹ thuật viên lái xe tốt nhất. Để đạt thành tích tốt nhất, đội tuyển bắt đầu bước vào huấn luyện từ ngày 4-3, tập trung tập luyện các nội dung: Huấn luyện làm quen và tập luyện với thao trường vật cản 200 x 200m, chạy 100m, chạy dài 300m, gánh tạ, bơi; huấn luyện tính năng kỹ, chiến thuật các loại vũ khí thi đấu tại hội thao, đường ngắm cơ bản và thứ tự, nội dung, cách thức tiến hành thi nội dung bắn súng; các nội dung cơ bản về xử trí cấp cứu trên chiến trường cho nhân viên trung cấp quân y; luyện tập các kỹ thuật cơ bản sử dụng trong chuyển thương…

Thủ trưởng TCHC và các đại biểu trò chuyện, động viên các tuyển thủ trước khi bước vào tập luyện.

Phát biểu tại hội nghị, Thiếu tướng Đỗ Văn Thiện nhấn mạnh, nhiệm vụ tham gia hội thao của đội tuyển “Tiếp sức quân y” được thủ trưởng Bộ Quốc phòng và thủ trưởng các cấp hết sức quan tâm. Vì vậy, mỗi thành viên trong đội tuyển cần nhận thức được đầy đủ ý nghĩa, niềm vinh dự, tự hào đồng thời cũng là trách nhiệm hết sức nặng nề của bản thân. Đồng chí đánh giá cao nỗ lực của các thành viên đội tuyển, nhất là các tuyển thủ nữ; mặc dù cường độ tập luyện rất nặng, đòi hỏi thể lực, kỹ thuật cao, song, chỉ trong thời gian ngắn đã nỗ lực, từng bước làm quen, xử trí thành thục các động tác thi đấu.

Đồng chí Chính ủy TCHC yêu cầu, các cơ quan chức năng của tổng cục cần phối hợp, bảo đảm tốt nhất các chế độ, tiêu chuẩn, nhu cầu vật chất, tinh thần cho đội tuyển. Trường Cao đẳng Hậu cần 1 cần duy trì nghiêm nền nếp chính quy, kỷ luật quân đội, phối hợp với các cơ quan chức năng đề ra các quy định để quản lý chặt chẽ các hoạt động tập luyện, sinh hoạt của đội tuyển; các tuyển thủ chấp hành nghiêm nội quy, xác định tốt nhiệm vụ, quyết tâm vượt lên chính mình, luyện tập giành kết quả cao nhất, bảo đảm an toàn tuyệt đối. Thiếu tướng Đỗ Văn Thiện đề ra mục tiêu tại hội thao sắp tới, đội tuyển phải phấn đấu đạt huy chương Đồng trở lên.

Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Thực ra không phải bây giờ mà từ nhiều năm trước, các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội chính trị ở cả trong nước và nước ngoài thường xuyên chống phá Đảng, Nhà nước, công cuộc đổi mới, sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN của nhân dân ta. Chúng vẫn xuyên tạc rằng, không có nền kinh tế nào là nền KTTT định hướng XHCN; KTTT, các quy luật của KTTT và định hướng XHCN là những yếu tố đối lập nhau, loại trừ nhau; ghép định hướng XHCN vào KTTT là sự gán ghép chủ quan, duy ý chí, không có cơ sở khoa học. Có người còn “kiến nghị”: “Nếu bỏ, không có cái đuôi “định hướng XHCN” thì kinh tế đất nước sẽ phát triển nhanh hơn”... Những luận điệu như vậy không phải là không có tác động đến cán bộ, đảng viên, nhân dân, làm một số người băn khoăn, ảnh hưởng xấu đến sự thống nhất nhận thức, tư tưởng trong Đảng và trong xã hội; làm giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, vào con đường đi lên CNXH; ảnh hưởng tới việc thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, cần phải được đấu tranh, phản bác. Để đấu tranh có hiệu quả trước những luận điệu sai trái nói trên, một mặt chúng ta vẫn tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN. Trong đó cần ưu tiên xây dựng các cơ chế, chính sách, quy định pháp luật đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập, ổn định, cụ thể, minh bạch gắn với tăng cường hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật. Phát triển đầy đủ và đồng bộ thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là các thị trường quyền sử dụng đất và thị trường khoa học-công nghệ. Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII trình Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã xác định một trong 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 là “Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền KTTT định hướng XHCN, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị; phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”. Mặt khác cũng cần phải kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai lầm của các thế lực thù địch. Mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân cần có quan điểm vững vàng, kỹ năng tiếp nhận, xử lý thông tin một cách khoa học trong thời đại bùng nổ thông tin; kiên định, tỉnh táo, không chia sẻ, bình luận những loại thông tin xấu độc, xây dựng cho được “hệ miễn dịch” trước thông tin xấu độc. Đồng thời, cần chủ động hơn trong đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi loại thông tin này, như giải pháp mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã chỉ ra: "Chủ động chuẩn bị các phương án, biện pháp cụ thể, sát với tình hình; xây dựng lý luận sắc bén để đấu tranh, phản bác có hiệu quả đối với các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội và bất mãn chính trị chống phá Đảng, Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn dân tộc". "Hoàn thiện Quy chế về kỷ luật phát ngôn đối với cán bộ, đảng viên; xử lý nghiêm những cá nhân, nhóm người cấu kết với nhau, lợi dụng vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", tôn giáo, dân tộc để tuyên truyền, xuyên tạc và có hành vi nói, viết, lưu trữ, tán phát tài liệu sai trái...". Đối với các cơ quan pháp luật, phải chủ động, thường xuyên, kiên quyết, kịp thời, hiệu quả trong phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này, nhất là các đối tượng tạo lập, tán phát thông tin xấu độc, lợi dụng thông tin xấu độc để chống phá Đảng, Nhà nước, chính quyền, nhân dân và xử lý nghiêm minh theo đúng quy định của pháp luật./.