Thứ Hai, 8 tháng 8, 2022
LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY 09/8
ĐỪNG BẮT HỌ PHẢI NGHE CON NGƯỜI ĐÓ RAO GIẢNG!
SỰ THẬT VỀ CÁC TRƯỜNG QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM!
Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Ưu việt hay khác biệt?
Ngay sau khi cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được ra mắt, trên không gian mạng, một số blogger có địa chỉ ở nước ngoài đã cố tình nhạo báng, cho rằng những luận điểm, nội dung trong cuốn sách đã lỗi thời, lạc hậu, thiếu cơ sở khoa học.
Các ý kiến này quy chụp: Sự lựa chọn con đường đi lên CNXH của Việt Nam là một sai lầm, đó là cách đi khác biệt, thậm chí là dị biệt.
Con đường duy nhất đúng
Cần khẳng định ngay, các ý kiến trên là nhằm phủ nhận tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN); hòng gây hoang mang trong nhận thức và dư luận xã hội về con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Đây cũng là thủ đoạn tinh vi, thâm độc nhằm nói xấu, hạ bệ vai trò, sự đóng góp của cá nhân Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Dễ nhận thấy, không phải đến tận bây giờ, kẻ thù mới hướng mũi chống phá vào việc phủ nhận CNXH, mà thực chất, đây là mục tiêu xuyên suốt, bao trùm trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Cái cách mà chúng đã thành công ở Liên Xô và các nước Đông Âu 3 thập kỷ trước. Theo đó, mỗi khi có cơ hội, kiếm tìm được cái cớ về sự kiện, hiện tượng ở xã hội Việt Nam, chúng lại réo lên những thông tin phản nghịch, đậm chất ngụy biện, bịa đặt, hòng gây xáo trộn nhận thức, lung lay niềm tin về mục tiêu lý tưởng của Đảng. Và lần này, cũng không loại trừ những âm mưu bẩn thỉu ấy.
Chúng ta biết rằng, suốt quá trình cách mạng, Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân tộc Việt Nam luôn tuyệt đối trung thành, vững tin lựa chọn và quyết tâm đi lên theo con đường CNXH. Đây không chỉ là sự vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, mà còn là nguyện vọng chính đáng của dân tộc Việt Nam. Đây cũng là con đường duy nhất đúng, hợp với quy luật cách mạng, được thực tiễn kiểm nghiệm, khẳng định tính đúng đắn.
Lịch sử cho thấy: Từ những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, trong khi nhiều khuynh hướng cách mạng lâm vào khủng hoảng trầm trọng, bế tắc thì chỉ có con đường cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng lãnh đạo, đi theo CNXH là phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử và đưa cách mạng Việt Nam đi tới thành công. Trải qua các giai đoạn lịch sử cách mạng khác nhau, với những thắng lợi trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cũng như thành công trong lãnh đạo đất nước đẩy mạnh công cuộc đổi mới, chính là minh chứng hùng hồn cho sự đúng đắn đó.
Đặc biệt, trong hệ thống lý luận và nhận thức của Đảng ta, luôn nhất quán, khẳng định mục tiêu cách mạng của Đảng, là: Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng ta không còn lợi ích gì khác! Minh chứng là, trong cuộc đối đầu với "giặc Covid-19" vừa qua, toàn Đảng và cả hệ thống chính trị đã chung sức đồng lòng, trực tiếp dấn thân vào nơi gian khó, hiểm nguy, khu tâm dịch... để linh hoạt, sáng tạo lãnh đạo, tổ chức phòng, chống dịch hiệu quả. Với tinh thần "chống dịch như chống giặc", “không bỏ ai lại phía sau”, “vừa chống dịch, vừa phát triển kinh tế”, "mỗi người dân là một chiến sĩ"... toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã chủ động khắc phục khó khăn, từng bước đẩy lùi dịch bệnh, đưa đất nước phát triển trong điều kiện bình thường mới. Những thành quả tốt đẹp đó cũng chính cách thức hiện thực hóa mục tiêu, con đường cách mạng, hướng đến các đặc trưng của CNXH; khẳng định tính ưu việt của chế độ XHCN ở Việt Nam.
Trên lĩnh vực kinh tế, đất nước ta đã đạt được những kết quả toàn diện trên mọi mặt đời sống xã hội. Sau hơn 35 năm đổi mới, trải qua nhiều thời khắc khó khăn, kinh tế nước nhà đã có bước tiến rất dài, khác về chất. Đặc biệt, thời gian qua, khi bóng đêm kinh tế bao trùm nhân loại thì nền kinh tế Việt Nam vẫn giữ vững ổn định, phục hồi nhanh và phát triển bền vững; tiềm lực kinh tế, sức mạnh tổng hợp được tăng cường; các chế độ chính sách, an sinh xã hội vì người dân được đảm bảo. Đại hội XIII của Đảng, đánh giá: "Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới... Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như hiện nay".
Kế tục những vấn đề lý luận và tổng kết thực tiễn, qua nội dung các bài viết trong cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, khẳng định: Xã hội XHCN với giá trị cốt lõi, bền vững và tốt đẹp mà nhân loại hướng tới là một xã hội ưu việt, “thực sự vì con người; sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội; một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn; sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai; một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân”.
Không chỉ nêu lên khái niệm về CNXH, Tổng Bí thư còn khái quát các đặc trưng của CNXH và khẳng định quyết tâm chính trị, cùng niềm tin vững chắc về tính tất thắng đi lên CNXH ở Việt Nam. Ở chế độ chúng ta đang hiện thực, con người được tự do, sống hòa bình và hữu ái giữa các cộng đồng, một xã hội thực sự vì con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện. Đây cũng là một xã hội toàn nhân loại hướng tới.
Việt Nam - điểm đến và điển hình chưa có trong tiền lệ
Có thể thấy, với những thành quả cách mạng to lớn và khẳng định rõ tính ưu việt của chế độ XHCN, Việt Nam luôn là “điểm đến của hòa bình”, là quốc gia tổ chức nhiều sự kiện quốc tế, khu vực nhằm mục tiêu giải quyết các vấn đề của toàn nhân loại, hoặc các mục tiêu thiên niên kỷ. Tiêu biểu như: Tuần lễ Cấp cao Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) 2017; Hội nghị Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN năm 2018 (WEF ASEAN 2018); Hội nghị Thượng đỉnh Hoa Kỳ-Triều Tiên năm 2019... Điều đó cho thấy, Việt Nam không chỉ có đủ năng lực, điều kiện tổ chức các sự kiện quan trọng mang tầm quốc tế; mà quan trọng hơn là khẳng định được sự tin cậy cao của các nước dành cho Việt Nam.
Đặc biệt, từ năm 2014, việc Việt Nam chính thức tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc đã khẳng định chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước ta cả trong đối ngoại và hợp tác quốc tế, phù hợp với khát vọng và truyền thống ngàn đời của dân tộc ta, thể hiện trách nhiệm với thế giới trong giải quyết những vấn đề nóng bỏng, phức tạp, vì nền hòa bình của toàn nhân loại.
Từ thành quả cách mạng Việt Nam khi đi theo con đường CNXH, nhiều quốc gia trên thế giới đã chủ động bắt tay, hợp tác trên nhiều phương diện với Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 189 nước thuộc tất cả các châu lục và có quan hệ tốt đẹp với tất cả nước lớn, các ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược với 17 quốc gia (trong đó có 3 đối tác chiến lược toàn diện), 13 đối tác toàn diện. Đáng nói hơn là uy tín, vị thế của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng được nâng cao trên trường quốc tế. Khi các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta thực hiện các chuyến công du, thăm ngoại giao đến các nước, kể cả những cường quốc trên thế giới, luôn nhận được sự tiếp đón trọng thị, nồng nhiệt, cởi mở của các nhà lãnh đạo cao nhất. Đặc biệt, lãnh đạo các đảng phái trên thế giới (dù khác nhau về chế độ, thể chế) nhưng đã chủ động bắt tay hợp tác, ký kết nhiều nội dung phối hợp trên nhiều lĩnh vực. Những năm gần đây, bạn bè quốc tế, các tổ chức lớn trên thế giới, cùng nhiều quốc gia phát triển mời Việt Nam tham dự nhiều Hội nghị Thượng đỉnh nhóm các nền kinh tế phát triển trên thế giới; dự các hội nghị chia sẻ kinh nghiệm lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước ở Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam cũng cử đại biểu dự nhiều hội thảo khoa học, hội nghị trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm lãnh đạo giữa các đảng cộng sản, hoặc giữa các chính đảng với nhau.
Dẫn chứng như vậy để thấy rằng, hầu hết các quốc gia, các đảng phái trên thế giới đều ghi nhận, tôn trọng sự lựa chọn con đường tiến lên CNXH của Việt Nam; ghi nhận những nỗ lực xây dựng, phát triển chế độ, xem đó là điển hình chưa có trong tiền lệ, tạo niềm tin cho bạn bè quốc tế về sự lựa chọn mô hình XHCN về mục đích mà chúng ta đang tiến đến đó là nhân văn, nhân ái, hòa bình, về đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hòa hiếu. Cho nên, mọi suy diễn, chủ ý phủ nhận bước phát triển lý luận trong cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ là những ý kiến của một bộ phận hiềm khích, đã và đang cố tình chống phá cách mạng Việt Nam, bôi nhọ các nhà lãnh đạo và dã tâm phủ nhận tính ưu việt của chế độ XHCN ở Việt Nam.
Chính trong cuốn sách, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tổng kết, khái quát những thành quả cách mạng to lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta; đúc rút nên nhiều bài học quý báu dẫn đến thành công, trong đó bài học đầu tiên là việc xác định đúng con đường đi lên CNXH. CNXH là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam và toàn thể nhân dân Việt Nam; đi lên CNXH là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu-con đường duy nhất đúng của cách mạng Việt Nam. Đó cũng chính là luận cứ sắc bén phủ định tất cả những mưu hèn, kế bẩn của những kẻ cố tình bôi nhọ, xuyên tạc, chống phá Việt Nam.
Những vấn đề lý luận mà Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói riêng đúc rút (cả trước đây và hiện nay), từng được các quốc gia, các chính đảng, tổ chức quốc tế tìm đến trao đổi, học tập kinh nghiệm, bày tỏ ấn tượng và sự ghi nhận đặc biệt. Thậm chí, nhiều chính đảng và nhiều tờ báo trên thế giới đã cho đăng tải các bài viết của Tổng Bí thư, phân tích các luận điểm của Tổng Bí thư và xem đây là tư liệu có giá trị tham khảo lớn, cung cấp câu trả lời cho nhiều nhà nghiên cứu thế giới đang trăn trở. Mặt khác, cũng từ đây, bạn bè quốc tế có thêm cơ sở củng cố niềm tin vào thành công của Việt Nam, tăng thêm sự ủng hộ công cuộc xây dựng đất nước của Việt Nam trên con đường đi lên CNXH.
Với cuốn sách xuất bản lần này, thêm một lần nữa minh chứng cho đánh giá của Đảng Cộng sản Liên bang Nga được ghi trong Nghị quyết (ngày 14-4-2020) về việc trao tặng Giải thưởng Lênin, một giải thưởng lớn tôn vinh những tập thể, cá nhân có công đóng góp xuất sắc trong hoạt động xã hội và có nhiều đóng góp làm phong phú thêm lý luận và thực tiễn của Chủ nghĩa Mác-Lênin... Đối với Tổng Bí thư Đảng ta, nghị quyết ghi “đã có những đóng góp cá nhân to lớn vào thực tiễn xây dựng CNXH và phát triển phong trào cộng sản trong giai đoạn hiện nay...”.
Vậy nên, không cần bàn cãi gì thêm: Đi lên CNXH là con đường duy nhất đúng của cách mạng Việt Nam. Thực tế ở thời điểm hiện tại cho thấy: Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, vững tin đi theo con đường cách mạng. Sự thật ấy là gáo nước lạnh hắt thẳng vào mặt những kẻ hiềm khích, cố tình chống phá cách mạng Việt Nam.
Lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam trong bối cảnh chiến lược mới
Đối
với Việt Nam, quan điểm về lợi ích quốc gia - dân tộc có sự kế thừa từ truyền
thống lịch sử của ông cha ta cũng như tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh về “đặt
lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết” trong quan hệ đối ngoại mà
Việt Nam tiến hành từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới đến nay. Quan điểm đó được
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định cũng như thể hiện ở mục tiêu xuyên
suốt, đó là “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Theo thời gian, cùng với sự
phát triển của đất nước và biến động của tình hình thế giới, quan điểm về lợi
ích quốc gia - dân tộc liên tục được bổ sung và hoàn chỉnh qua các kỳ Đại hội
của Đảng. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
lợi ích quốc gia - dân tộc được coi trọng trong từng chủ trương, chính sách
phát triển đất nước và hoạt động đối ngoại. Đại hội XI của Đảng (năm 2011) lần
đầu tiên nêu lên mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc”. Kế thừa,
phát triển quan điểm đối ngoại trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Nghị quyết Đại hội
XII của Đảng (năm 2016) đã chỉ rõ mục tiêu hoạt động đối ngoại của nước ta phải
nhằm “bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc
cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”. Qua đó, Đảng ta khẳng
định: 1- Lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc là thống nhất; 2- Lợi ích quốc gia
- dân tộc của Việt Nam là những lợi ích chính đáng, không phải là những lợi ích
vị kỷ; 3- Lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam được xác định trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình
đẳng, hợp tác, cùng có lợi, cùng phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội trên thế giới; 4- Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc
nghĩa là đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trước hết và trên hết, luôn nỗ lực
đạt được lợi ích quốc gia - dân tộc tới mức cao nhất có thể, lợi ích quốc gia -
dân tộc là tiêu chí hàng đầu đánh giá hiệu quả của mọi hoạt động đối ngoại. Đại
hội XIII (tháng 1-2021) của Đảng xác định rõ: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc
gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và
luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”.
Trong
giai đoạn hiện nay, có thể thấy, lợi ích quốc gia - dân tộc cao nhất của Việt
Nam là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ gắn
liền với bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo hộ lợi
ích chính đáng và hợp pháp của công dân cũng như doanh nghiệp Việt Nam trong
nước và ở nước ngoài; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo
vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa dân tộc. Bối cảnh
mới của quốc gia - dân tộc hiện đại còn mở rộng thêm các lợi ích quốc gia - dân
tộc, như: hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển, tự do lưu thông hàng hóa, tự
do hàng hải, tự do hàng không, tự do khai thác tài nguyên phù hợp với luật pháp
quốc tế. Cũng như các quốc gia - dân tộc khác, Việt Nam còn chủ động và tích
cực tham gia giải quyết những vấn đề chung của nhân loại, như chống chiến
tranh, ứng phó với biến đổi khí hậu, dịch bệnh; các thách thức an ninh phi
truyền thống (an ninh biển, an ninh mạng, an ninh năng lượng, an ninh lương
thực, an ninh tiền tệ, tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố...) mà không một quốc
gia nào tự mình đủ sức gánh vác.
Tuy
nhiên, trong điều kiện không gian sinh tồn ngày càng bị thu hẹp, việc mở rộng
lợi ích quốc gia - dân tộc của nước này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích
quốc gia - dân tộc của nước khác. Để giảm thiểu các mâu thuẫn, xung đột, lợi
ích quốc gia - dân tộc phải phù hợp với luật pháp quốc tế, không quốc gia nào
tự đặt ra lợi ích vượt ra ngoài quy định của luật pháp quốc tế mà đe dọa đến
lợi ích của quốc gia khác và ảnh hưởng đến lợi ích của toàn nhân loại. Thực
tiễn cho thấy, trên cơ sở nhất quán đường lối đối ngoại “độc lập, tự chủ, hòa
bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối
ngoại”; “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng”, Việt Nam
luôn nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà nước ta tham gia, tận dụng
hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng,
khu vực và quốc tế. Đồng thời, chủ động tích cực đề xuất sáng kiến xây dựng,
định hình các thể chế đa phương trên nguyên tắc cùng có lợi, với phương châm
chuyển mạnh từ “tham dự” sang “chủ động tham gia”; “là bạn, là đối tác tin cậy
và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, nhất là
trong quá trình xây dựng và định hình các quy tắc, cơ chế hợp tác và những luật
lệ mới, củng cố và nâng cao vai trò trong cộng đồng khu vực và quốc tế, góp
phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội trên thế giới.
Nhìn
lại hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhờ đi đúng xu thế của thời đại,
tranh thủ tốt các nguồn lực từ bên ngoài, công cuộc đổi mới của Việt Nam ngày
càng đạt được những thành tựu to lớn trong việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân
tộc để nâng cao vị thế và thực lực của đất nước, góp phần gia tăng sức mạnh
tổng hợp quốc gia phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa trong tình hình mới.
Tuy
nhiên, để bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, Việt Nam đứng trước nhiều thuận
lợi song cũng đối mặt với không ít khó khăn, thách thức chung và riêng, bao
gồm: việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và đẩy mạnh các hoạt động đối
ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa ở tầm khu vực và toàn cầu để thực hiện và bảo
đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong bối cảnh diễn ra những thay đổi khó đoán
định của tình hình quốc tế, khu vực; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn,
các trung tâm quyền lực tiếp tục diễn ra gay gắt; ở khu vực, vấn đề Biển Đông
ngày càng phức tạp, do sự chồng xếp, đan xen của ba tầng quan hệ (tranh chấp
chủ quyền lãnh thổ và lợi ích chiến lược biển, đảo giữa các nước láng giềng;
cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ - Trung Quốc và can dự của các nước lớn khác; an
toàn, tự do hàng hải và hàng không trong khu vực); hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song chủ nghĩa dân tộc cực
đoan, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa bảo hộ có xu hướng gia tăng..., tác động
không nhỏ đến vấn đề bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc; cuộc cách mạng khoa
học - công nghệ phát triển mạnh mẽ chưa từng có, nhất là cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư cùng với đó là vấn đề an ninh mạng.
Bối
cảnh trên đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới, phức tạp hơn đối với việc bảo
đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, đòi hỏi Việt Nam cần thực hiện tốt một số vấn
đề sau:
Một
là, tiếp tục triển khai có hiệu quả các chủ
trương, quan điểm, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, như:
1- Kiên trì thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu
rộng; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng
quốc tế; 2- Tranh thủ cơ hội, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế đi vào chiều
sâu, tạo sự đan xen lợi ích của các nước lớn ở Việt Nam; nâng tầm đối ngoại đa
phương, song phương; thực hiện có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thế
hệ mới...
Hai
là, luôn theo dõi, bám sát diễn biến tình
hình, vận dụng phương pháp khoa học để đánh giá đúng tình hình thế giới, khu
vực; nắm bắt, dự báo được các xu hướng trong quan hệ quốc tế, cũng như mục tiêu
chiến lược của các nước, nhất là các nước lớn đối với khu vực nói chung và Việt
Nam nói riêng, để kịp thời đề ra đường lối, chính sách phù hợp, chính xác, trong
đó phải luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trước hết, trên hết; bất luận
hoàn cảnh nào cũng tránh để rơi vào thế kẹt giữa các bên, đúng như lời dạy của
Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vững
chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước”.
Ba
là, phát huy sức mạnh tổng hợp trên cơ sở kết hợp sức mạnh dân
tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế để khai thác,
sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc trong đường
lối cách mạng của Đảng ta, nhất là khi thế giới đang phải đối diện với những
thách thức khó lường và đại dịch COVID-19 đã làm cho những thách thức này càng
trở nên phức tạp, nghiêm trọng hơn.
Bốn
là, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia - dân
tộc với lợi ích chung của cộng đồng quốc tế và lợi ích chính đáng của các quốc
gia, dân tộc khác. Hiện nay, tất cả các nước trên thế giới đều coi trọng, đề
cao lợi ích quốc gia - dân tộc khi thực thi chính sách đối ngoại. Nhưng do mục
tiêu phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc khác nhau, nên lợi ích quốc gia - dân
tộc của mỗi nước cũng không hoàn toàn giống nhau, thậm chí đối nghịch nhau. Do
vậy, để có môi trường hòa bình, an ninh và ổn định phục vụ phát triển bền vững
cho mỗi quốc gia, dân tộc, vấn đề quan trọng đặt ra là cần tìm thấy “điểm tương
đồng”. Ở đây, điểm tương đồng chính là sự tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của
Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế mà toàn thể nhân loại đã và đang
nỗ lực gìn giữ nhằm điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa quốc gia và các chủ
thể trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc tế. Do vậy, kể từ khi ra đời năm 1945,
Chính phủ Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ những nguyên tắc cơ bản của Hiến
chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, và điều này cũng chính là bảo đảm
lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam, đồng thời bảo đảm hài hòa với lợi ích
của các đối tác, lợi ích chung của cộng đồng khu vực và quốc tế.
Năm
là, tiếp tục tạo dựng và phát triển hình ảnh
Việt Nam là một quốc gia “có trách nhiệm”, “đối tác tin cậy”. Đây là mục tiêu
vừa mang tính đối nội, vừa mang tính đối ngoại. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế, một quốc gia được cho là phát triển và giàu mạnh luôn là quốc
gia sở hữu những thương hiệu mạnh trên thị trường quốc tế. Để hội nhập thành
công cũng như tận dụng được các cơ hội mà hội nhập quốc tế đem lại, nhất là khi
tham gia các hiệp định thương mại tự do, Việt Nam cần xây dựng một chiến lược
phát triển các thương hiệu quốc gia mạnh nhằm phát huy hiệu quả các nguồn lực
và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và hàng hóa -
dịch vụ, từ đó nâng cao giá trị các thương hiệu cũng như hình ảnh Việt Nam trên
trường quốc tế, góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia.
Sáu
là, bảo đảm an ninh và phát triển cho người dân trong cộng đồng
dân tộc Việt Nam. Quốc gia - dân tộc Việt Nam là một cộng đồng thống nhất, tạo
nên sức mạnh tổng hợp để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và phát
triển kinh tế. Lợi ích của cộng đồng dân tộc cũng bao hàm lợi ích của mỗi cá
nhân con người, an ninh quốc gia cũng không thể tách rời an ninh con người. Các
hoạt động đối ngoại, xét cho cùng, là nhằm mang lại quyền lợi cho người dân,
tạo điều kiện cho người dân có cơ hội phát triển toàn diện. Nhìn rộng ra trong
khu vực, mục tiêu này phù hợp với bối cảnh các nước ASEAN đang nỗ lực xây dựng
một Cộng đồng ASEAN hướng tới người dân và “lấy người dân làm trung tâm”.
Bảy
là, nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu,
củng cố và phát triển lý luận, thông tin tuyên truyền, nhất là thông tin đối
ngoại trong tình hình mới đối với việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc; tận
dụng hiệu quả sức mạnh của công nghệ thông tin và truyền thông nhằm xúc tiến
liên tục, bền bỉ các chương trình truyền thông về văn hóa, đất nước, con người
Việt Nam; về chủ quyền của Việt Nam trong lịch sử và hiện tại..., giúp nâng cao
hình ảnh và tranh thủ sự ủng hộ của các nước, nhân dân trên thế giới đối với sự
nghiệp bảo vệ chủ quyền cũng như xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam.
Tóm
lại, trong mọi giai đoạn của cách mạng Việt Nam, lợi ích quốc gia - dân tộc vừa
là mục tiêu, vừa là phương châm và động lực phát triển. Những thành tựu của đất
nước ngày nay là minh chứng rõ nét cho thấy quan điểm đặt lợi ích quốc gia -
dân tộc lên trên hết, trước hết của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn, sáng suốt;
là điều kiện thuận lợi để Việt Nam tiếp tục phát huy vị thế, lựa chọn những kế
sách phù hợp trong bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc.
HAIVAN