Thứ Hai, 8 tháng 8, 2022

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY 09/8


“Lửa thử vàng, gian nan thử bạn”.
Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài: “Thực dân Pháp xâm lăng Bidéctơ”, đăng trên Báo Nhân dân, số 2697, ngày 09 tháng 8 năm 1961.
Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch trần âm mưu, thủ đoạn thâm độc, tâm địa đen tối của chủ nghĩa đế quốc, thực dân thông qua việc thực dân Pháp xây dựng căn cứ quân sự kiên cố ở Bidéctơ - một cửa biển của nước Tuynidi, sau đó được Mỹ bật đèn xanh (cũng có căn cứ quân sự tại đây) dùng vũ lực tiếp tục chiếm đóng nốt phần còn lại của thành phố Bidéctơ (Tuynidi). Nhân vấn đề ở Bidéctơ, Người muốn cảnh tỉnh quân và dân ta nhận rõ đâu là bạn, đâu là thù để không mắc mưu kẻ thù.
Quán triệt tư tưởng của Hồ Chí Minh về bạn, thù đối với cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã xác định đúng đắn đường lối đối ngoại để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế đối với sự nghiệp kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Trong sự nghiệp đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế hiện nay, thấu triệt tư tưởng của Bác, Đảng ta đã đổi mới tư duy “bạn và thù” sang “đối tác và đối tượng” - đây là bước đột phá mở đầu cho những thành tựu của cách mạng nước ta, góp phần xây dựng, củng cố đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế, đã được phát triển, bổ sung và cụ thể hóa trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới: “Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng. Mặt khác, trong tình hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp như hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng: Trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ hợp tác; trong mối đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”[2].
Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện đã cùng với toàn Đảng, toàn dân đánh bại mọi kẻ thù xâm lược, giải phóng đất nước, hoàn thành nhiệm vụ quốc tế cao cả và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc. Sức mạnh chiến đấu, chiến thắng của Quân đội ta là sức mạnh tổng hợp của nhiều nhân tố; trong đó, có sự giúp đỡ, ủng hộ của bạn bè quốc tế, nhất là các nước xã hội chủ nghĩa anh em trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước. Trong giai đoạn hiện nay, bên cạnh nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng chính quy… công tác đối ngoại quốc phòng được triển khai đồng bộ, toàn diện trên các mặt công tác; xử lý linh hoạt, kiên quyết, có hiệu quả các tình huống phức tạp nảy sinh trên biển, đảo, thềm lục địa, biên giới, là kênh quan trọng, hiệu quả, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền lãnh thổ từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình, không để xảy ra xung đột, đối đầu, không để bị động bất ngờ trước mọi tình huống… góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh…
Có thể là hình ảnh về 1 người, đang đứng và văn bản cho biết 'ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH CHỦ TỊCH Há CHÍ MINH'
22
8 lượt chia sẻ
Thích
Bình luận
Chia sẻ

ĐỪNG BẮT HỌ PHẢI NGHE CON NGƯỜI ĐÓ RAO GIẢNG!

     Nguyên văn lời nói của một số thầy cô giáo than vãn với nhau về buổi nghe Chuyên đề "Từ trang văn học, nghệ thuật đến nâng cao giáo dục đạo đức trong nhà trường", do Phòng GD&ĐT Thị xã Phước Long tổ chức ngày hôm qua (7/8/2022). Đó là một hoạt đông có ý nghĩa, nếu diễn giả không phải là ông Trần Đăng Khoa - một nhân vật trong những năm gần đây đã có những biểu hiện về sự mơ hồ về chính trị, thậm chí"suy thoái" về tư tưởng, không đủ tư cách để rao giảng Đạo đức cho những người thầy đang ươm mầm xanh tương lại của đất nước và của chế độ.
     Nhà thơ Trần Đăng Khoa với vài bài thơ hay của tuổi thiếu thời là điều được ghi nhận, nhưng tầm của "Thần đồng" này chỉ là "góc sân và khoảng trời" ở làng quê hồi đó mà thôi, còn những gì còn lại gọi là Thơ sau đó chẳng có gì đáng nói. Nhưng đáng nói hơn cả là những năm gần đây ông ta giao lưu với những thành phần bất hảo như Trương Huy San, Nguyên Ngọc, Trương Châu Hữu Danh... vv; tuyên truyền Pháp luân Công và có những phát ngôn mơ hồ, xiên xỏ đối với Đảng, Nhà nước một cách cảm tính, phiến diện. Ông ta cố tình không hiểu bản chất của cuộc chiến đang diễn ra ở Ucraina, lên án nước Nga, thủ ghét Putin, nơi đã giành những gì tốt đẹp nhất cho mình và hòa theo giọng điệu của những thế lực thù địch với Việt Nam. Kẻ "ăn cháo đá bát" thì làm gì có đạo đức để rao giảng đạo đức cho những thầy cô có nhận thức và các em học sinh đang như tờ giấy trắng. Đến như Nguyên Ngọc khi đã lộ rõ sự phản phúc thì cũng là đồ vứt đi mà thôi, huống gì Trần Đăng Khoa.
     Có những việc, những con người dầu những nơi có trách nhiệm chưa nói ra, nhưng người dân họ biết, họ lên án, vạch mặt trước khi tổ chức sờ đến chúng; bởi quần chúng nhân dân là tại mắt của Đảng. Thế nhưng không hiểu sao Bình Phước, cụ thể là Phòng GD&ĐT Thị xã Phước Long lại "ngây thơ" đến thế!? Xin đừng bắt Thầy cô và học sinh phải nghe những con người như thế rao giảng bất cứ điều gì, chứ đừng nói là Đạo đức (bao hàm cả đạo đức cách mạng), làm phí phạm thời gian và có khi cả nguy hại nữa.
     Ai đã tổ chức ra cái buổi phải nghe con người đó rao giảng, thiết nghĩ các cơ quan có trách nhiệm ở Bình Phước, Phước Long hãy xem lại, làm rõ động cơ gì phía sau! "Ngây thơ" hay giả vờ ngây thơ đều không phải cách của những người Đáng viên chân chính! Hãy nói "KHÔNG" thật to và dứt khoát với những kẻ cơ hội, hàng hai, kiểu TĐK, Lê Mã Lương, Lê Văn Cương, Nguyễn Minh Thuyết... và đám "Quạ sử"!





Yêu nước ST.

SỰ THẬT VỀ CÁC TRƯỜNG QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM!

         Các "trường quốc tế" (TQT) ở VN chỉ được cái là cơ sở vật chất hào nhoáng.
     TQT chủ yếu dạy tiếng Anh, kiến thức hầu như không có gì, trẻ chơi là chủ yếu, cho nên trẻ rất khoái, trường thì kêu đó là "dạy kỹ năng mềm", phụ huynh không biết gì cứ tưởng thế là tốt.
     Trẻ học ở các TQT 1-2 năm thì sẽ không còn đủ kiến thức để chuyển ra học trường phổ thông bình thường của VN, phải học ở TQT mãi cho hết lớp 12.
     Học xong lớp 12 TQT thì học sinh không đủ kiến thức thi đại học ở VN, bắt buộc phải du học ở những nơi chỉ cần có tiền và biết tiếng Anh là nhận, và cũng chỉ có thể học những ngành vớ vẩn kiểu như "ma-két-tinh","tổ chức sự kiện", "quản trị quán bia", "quản trị nhà hàng", "quản trị ga-ra ô-tô, giữ xe qua đêm", "quản trị bất động sản", "quản trị khách sạn, nhà nghỉ (cho thuê phòng tính giờ, qua đêm)",... đại khái là những ngành mà ở VN thì không cần học cũng làm tốt.  
     Bây giờ bên MỸ nó có những trường co-lít (về VN gọi là đại học Mỹ hết) nó dạy những ngành lặt vặt như vậy. Thời mình đi học thì mình không có khái niệm những ngành oẳn-tà-roằn kiểu đó! 
     HỌc sinh tốt nghiệp các TQT rồi du học thì chắc chắn không có khả năng đủ kiến thức học, thi, bảo vệ và tốt nghiệp các ngành về khoa học cơ bản (như toán, lý, sinh,...), Y, Dược hay các ngành kỹ thuật công nghệ nghiêm chỉnh (như Cơ khí, Chế tạo máy, Xây dựng,...).
     CÓ 3 thứ mà VN cần làm chủ và nắm cho chắc trong tay mình là NGÂN HÀNG, GIÁO DỤC và Y TẾ. Để tây chiếm những thứ đó là mất nước. 
     VN để cho tây nhảy vào chiếm lĩnh thị trường giáo dục, muốn dạy gì thì dạy và bòn rút sạch tiền của tích lũy của dân VN là sai lầm vô cùng nghiêm trọng, có thể là sai lầm mang tính lịch sử./.
Yêu nước ST.

Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: Ưu việt hay khác biệt?

 

Ngay sau khi cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội (CNXH) và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được ra mắt, trên không gian mạng, một số blogger có địa chỉ ở nước ngoài đã cố tình nhạo báng, cho rằng những luận điểm, nội dung trong cuốn sách đã lỗi thời, lạc hậu, thiếu cơ sở khoa học.

Các ý kiến này quy chụp: Sự lựa chọn con đường đi lên CNXH của Việt Nam là một sai lầm, đó là cách đi khác biệt, thậm chí là dị biệt.

Con đường duy nhất đúng

Cần khẳng định ngay, các ý kiến trên là nhằm phủ nhận tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN); hòng gây hoang mang trong nhận thức và dư luận xã hội về con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Đây cũng là thủ đoạn tinh vi, thâm độc nhằm nói xấu, hạ bệ vai trò, sự đóng góp của cá nhân Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

Dễ nhận thấy, không phải đến tận bây giờ, kẻ thù mới hướng mũi chống phá vào việc phủ nhận CNXH, mà thực chất, đây là mục tiêu xuyên suốt, bao trùm trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Cái cách mà chúng đã thành công ở Liên Xô và các nước Đông Âu 3 thập kỷ trước. Theo đó, mỗi khi có cơ hội, kiếm tìm được cái cớ về sự kiện, hiện tượng ở xã hội Việt Nam, chúng lại réo lên những thông tin phản nghịch, đậm chất ngụy biện, bịa đặt, hòng gây xáo trộn nhận thức, lung lay niềm tin về mục tiêu lý tưởng của Đảng. Và lần này, cũng không loại trừ những âm mưu bẩn thỉu ấy.

Chúng ta biết rằng, suốt quá trình cách mạng, Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân tộc Việt Nam luôn tuyệt đối trung thành, vững tin lựa chọn và quyết tâm đi lên theo con đường CNXH. Đây không chỉ là sự vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, mà còn là nguyện vọng chính đáng của dân tộc Việt Nam. Đây cũng là con đường duy nhất đúng, hợp với quy luật cách mạng, được thực tiễn kiểm nghiệm, khẳng định tính đúng đắn.

Lịch sử cho thấy: Từ những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, trong khi nhiều khuynh hướng cách mạng lâm vào khủng hoảng trầm trọng, bế tắc thì chỉ có con đường cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng lãnh đạo, đi theo CNXH là phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử và đưa cách mạng Việt Nam đi tới thành công. Trải qua các giai đoạn lịch sử cách mạng khác nhau, với những thắng lợi trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cũng như thành công trong lãnh đạo đất nước đẩy mạnh công cuộc đổi mới, chính là minh chứng hùng hồn cho sự đúng đắn đó.

Đặc biệt, trong hệ thống lý luận và nhận thức của Đảng ta, luôn nhất quán, khẳng định mục tiêu cách mạng của Đảng, là: Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng ta không còn lợi ích gì khác! Minh chứng là, trong cuộc đối đầu với "giặc Covid-19" vừa qua, toàn Đảng và cả hệ thống chính trị đã chung sức đồng lòng, trực tiếp dấn thân vào nơi gian khó, hiểm nguy, khu tâm dịch... để linh hoạt, sáng tạo lãnh đạo, tổ chức phòng, chống dịch hiệu quả. Với tinh thần "chống dịch như chống giặc", “không bỏ ai lại phía sau”, “vừa chống dịch, vừa phát triển kinh tế”, "mỗi người dân là một chiến sĩ"... toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã chủ động khắc phục khó khăn, từng bước đẩy lùi dịch bệnh, đưa đất nước phát triển trong điều kiện bình thường mới. Những thành quả tốt đẹp đó cũng chính cách thức hiện thực hóa mục tiêu, con đường cách mạng, hướng đến các đặc trưng của CNXH; khẳng định tính ưu việt của chế độ XHCN ở Việt Nam.

 Trên lĩnh vực kinh tế, đất nước ta đã đạt được những kết quả toàn diện trên mọi mặt đời sống xã hội. Sau hơn 35 năm đổi mới, trải qua nhiều thời khắc khó khăn, kinh tế nước nhà đã có bước tiến rất dài, khác về chất. Đặc biệt, thời gian qua, khi bóng đêm kinh tế bao trùm nhân loại thì nền kinh tế Việt Nam vẫn giữ vững ổn định, phục hồi nhanh và phát triển bền vững; tiềm lực kinh tế, sức mạnh tổng hợp được tăng cường; các chế độ chính sách, an sinh xã hội vì người dân được đảm bảo. Đại hội XIII của Đảng, đánh giá: "Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới... Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như hiện nay".

Kế tục những vấn đề lý luận và tổng kết thực tiễn, qua nội dung các bài viết trong cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, khẳng định: Xã hội XHCN với giá trị cốt lõi, bền vững và tốt đẹp mà nhân loại hướng tới là một xã hội ưu việt, “thực sự vì con người; sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội; một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn; sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai; một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân”. 

Không chỉ nêu lên khái niệm về CNXH, Tổng Bí thư còn khái quát các đặc trưng của CNXH và khẳng định quyết tâm chính trị, cùng niềm tin vững chắc về tính tất thắng đi lên CNXH ở Việt Nam. Ở chế độ chúng ta đang hiện thực, con người được tự do, sống hòa bình và hữu ái giữa các cộng đồng, một xã hội thực sự vì con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện. Đây cũng là một xã hội toàn nhân loại hướng tới.

Việt Nam - điểm đến và điển hình chưa có trong tiền lệ

Có thể thấy, với những thành quả cách mạng to lớn và khẳng định rõ tính ưu việt của chế độ XHCN, Việt Nam luôn là “điểm đến của hòa bình”, là quốc gia tổ chức nhiều sự kiện quốc tế, khu vực nhằm mục tiêu giải quyết các vấn đề của toàn nhân loại, hoặc các mục tiêu thiên niên kỷ. Tiêu biểu như: Tuần lễ Cấp cao Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) 2017; Hội nghị Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN năm 2018 (WEF ASEAN 2018); Hội nghị Thượng đỉnh Hoa Kỳ-Triều Tiên năm 2019... Điều đó cho thấy, Việt Nam không chỉ có đủ năng lực, điều kiện tổ chức các sự kiện quan trọng mang tầm quốc tế; mà quan trọng hơn là khẳng định được sự tin cậy cao của các nước dành cho Việt Nam.

Đặc biệt, từ năm 2014, việc Việt Nam chính thức tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc đã khẳng định chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước ta cả trong đối ngoại và hợp tác quốc tế, phù hợp với khát vọng và truyền thống ngàn đời của dân tộc ta, thể hiện trách nhiệm với thế giới trong giải quyết những vấn đề nóng bỏng, phức tạp, vì nền hòa bình của toàn nhân loại.

Từ thành quả cách mạng Việt Nam khi đi theo con đường CNXH, nhiều quốc gia trên thế giới đã chủ động bắt tay, hợp tác trên nhiều phương diện với Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 189 nước thuộc tất cả các châu lục và có quan hệ tốt đẹp với tất cả nước lớn, các ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược với 17 quốc gia (trong đó có 3 đối tác chiến lược toàn diện), 13 đối tác toàn diện. Đáng nói hơn là uy tín, vị thế của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng được nâng cao trên trường quốc tế. Khi các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta thực hiện các chuyến công du, thăm ngoại giao đến các nước, kể cả những cường quốc trên thế giới, luôn nhận được sự tiếp đón trọng thị, nồng nhiệt, cởi mở của các nhà lãnh đạo cao nhất. Đặc biệt, lãnh đạo các đảng phái trên thế giới (dù khác nhau về chế độ, thể chế) nhưng đã chủ động bắt tay hợp tác, ký kết nhiều nội dung phối hợp trên nhiều lĩnh vực. Những năm gần đây, bạn bè quốc tế, các tổ chức lớn trên thế giới, cùng nhiều quốc gia phát triển mời Việt Nam tham dự nhiều Hội nghị Thượng đỉnh nhóm các nền kinh tế phát triển trên thế giới; dự các hội nghị chia sẻ kinh nghiệm lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước ở Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam cũng cử đại biểu dự nhiều hội thảo khoa học, hội nghị trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm lãnh đạo giữa các đảng cộng sản, hoặc giữa các chính đảng với nhau.

Dẫn chứng như vậy để thấy rằng, hầu hết các quốc gia, các đảng phái trên thế giới đều ghi nhận, tôn trọng sự lựa chọn con đường tiến lên CNXH của Việt Nam; ghi nhận những nỗ lực xây dựng, phát triển chế độ, xem đó là điển hình chưa có trong tiền lệ, tạo niềm tin cho bạn bè quốc tế về sự lựa chọn mô hình XHCN về mục đích mà chúng ta đang tiến đến đó là nhân văn, nhân ái, hòa bình, về đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hòa hiếu. Cho nên, mọi suy diễn, chủ ý phủ nhận bước phát triển lý luận trong cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ là những ý kiến của một bộ phận hiềm khích, đã và đang cố tình chống phá cách mạng Việt Nam, bôi nhọ các nhà lãnh đạo và dã tâm phủ nhận tính ưu việt của chế độ XHCN ở Việt Nam.

Chính trong cuốn sách, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tổng kết, khái quát những thành quả cách mạng to lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta; đúc rút nên nhiều bài học quý báu dẫn đến thành công, trong đó bài học đầu tiên là việc xác định đúng con đường đi lên CNXH. CNXH là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam và toàn thể nhân dân Việt Nam; đi lên CNXH là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu-con đường duy nhất đúng của cách mạng Việt Nam. Đó cũng chính là luận cứ sắc bén phủ định tất cả những mưu hèn, kế bẩn của những kẻ cố tình bôi nhọ, xuyên tạc, chống phá Việt Nam.

Những vấn đề lý luận mà Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói riêng đúc rút (cả trước đây và hiện nay), từng được các quốc gia, các chính đảng, tổ chức quốc tế tìm đến trao đổi, học tập kinh nghiệm, bày tỏ ấn tượng và sự ghi nhận đặc biệt. Thậm chí, nhiều chính đảng và nhiều tờ báo trên thế giới đã cho đăng tải các bài viết của Tổng Bí thư, phân tích các luận điểm của Tổng Bí thư và xem đây là tư liệu có giá trị tham khảo lớn, cung cấp câu trả lời cho nhiều nhà nghiên cứu thế giới đang trăn trở. Mặt khác, cũng từ đây, bạn bè quốc tế có thêm cơ sở củng cố niềm tin vào thành công của Việt Nam, tăng thêm sự ủng hộ công cuộc xây dựng đất nước của Việt Nam trên con đường đi lên CNXH.

Với cuốn sách xuất bản lần này, thêm một lần nữa minh chứng cho đánh giá của Đảng Cộng sản Liên bang Nga được ghi trong Nghị quyết (ngày 14-4-2020) về việc trao tặng Giải thưởng Lênin, một giải thưởng lớn tôn vinh những tập thể, cá nhân có công đóng góp xuất sắc trong hoạt động xã hội và có nhiều đóng góp làm phong phú thêm lý luận và thực tiễn của Chủ nghĩa Mác-Lênin... Đối với Tổng Bí thư Đảng ta, nghị quyết ghi “đã có những đóng góp cá nhân to lớn vào thực tiễn xây dựng CNXH và phát triển phong trào cộng sản trong giai đoạn hiện nay...”.

 Vậy nên, không cần bàn cãi gì thêm: Đi lên CNXH là con đường duy nhất đúng của cách mạng Việt Nam. Thực tế ở thời điểm hiện tại cho thấy: Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, vững tin đi theo con đường cách mạng. Sự thật ấy là gáo nước lạnh hắt thẳng vào mặt những kẻ hiềm khích, cố tình chống phá cách mạng Việt Nam.

Lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam trong bối cảnh chiến lược mới

 

Đối với Việt Nam, quan điểm về lợi ích quốc gia - dân tộc có sự kế thừa từ truyền thống lịch sử của ông cha ta cũng như tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh về “đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết” trong quan hệ đối ngoại mà Việt Nam tiến hành từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới đến nay. Quan điểm đó được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định cũng như thể hiện ở mục tiêu xuyên suốt, đó là “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Theo thời gian, cùng với sự phát triển của đất nước và biến động của tình hình thế giới, quan điểm về lợi ích quốc gia - dân tộc liên tục được bổ sung và hoàn chỉnh qua các kỳ Đại hội của Đảng. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, lợi ích quốc gia - dân tộc được coi trọng trong từng chủ trương, chính sách phát triển đất nước và hoạt động đối ngoại. Đại hội XI của Đảng (năm 2011) lần đầu tiên nêu lên mục tiêu đối ngoại “vì lợi ích quốc gia, dân tộc”. Kế thừa, phát triển quan điểm đối ngoại trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Nghị quyết Đại hội XII của Đảng (năm 2016) đã chỉ rõ mục tiêu hoạt động đối ngoại của nước ta phải nhằm “bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”. Qua đó, Đảng ta khẳng định: 1- Lợi ích quốc gia và lợi ích dân tộc là thống nhất; 2- Lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam là những lợi ích chính đáng, không phải là những lợi ích vị kỷ; 3- Lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam được xác định trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi, cùng phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới; 4- Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc nghĩa là đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trước hết và trên hết, luôn nỗ lực đạt được lợi ích quốc gia - dân tộc tới mức cao nhất có thể, lợi ích quốc gia - dân tộc là tiêu chí hàng đầu đánh giá hiệu quả của mọi hoạt động đối ngoại. Đại hội XIII (tháng 1-2021) của Đảng xác định rõ: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”.

Trong giai đoạn hiện nay, có thể thấy, lợi ích quốc gia - dân tộc cao nhất của Việt Nam là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ gắn liền với bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo hộ lợi ích chính đáng và hợp pháp của công dân cũng như doanh nghiệp Việt Nam trong nước và ở nước ngoài; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa dân tộc. Bối cảnh mới của quốc gia - dân tộc hiện đại còn mở rộng thêm các lợi ích quốc gia - dân tộc, như: hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển, tự do lưu thông hàng hóa, tự do hàng hải, tự do hàng không, tự do khai thác tài nguyên phù hợp với luật pháp quốc tế. Cũng như các quốc gia - dân tộc khác, Việt Nam còn chủ động và tích cực tham gia giải quyết những vấn đề chung của nhân loại, như chống chiến tranh, ứng phó với biến đổi khí hậu, dịch bệnh; các thách thức an ninh phi truyền thống (an ninh biển, an ninh mạng, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh tiền tệ, tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố...) mà không một quốc gia nào tự mình đủ sức gánh vác.

Tuy nhiên, trong điều kiện không gian sinh tồn ngày càng bị thu hẹp, việc mở rộng lợi ích quốc gia - dân tộc của nước này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích quốc gia - dân tộc của nước khác. Để giảm thiểu các mâu thuẫn, xung đột, lợi ích quốc gia - dân tộc phải phù hợp với luật pháp quốc tế, không quốc gia nào tự đặt ra lợi ích vượt ra ngoài quy định của luật pháp quốc tế mà đe dọa đến lợi ích của quốc gia khác và ảnh hưởng đến lợi ích của toàn nhân loại. Thực tiễn cho thấy, trên cơ sở nhất quán đường lối đối ngoại “độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại”; “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng”, Việt Nam luôn nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế mà nước ta tham gia, tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng, khu vực và quốc tế. Đồng thời, chủ động tích cực đề xuất sáng kiến xây dựng, định hình các thể chế đa phương trên nguyên tắc cùng có lợi, với phương châm chuyển mạnh từ “tham dự” sang “chủ động tham gia”; “là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, nhất là trong quá trình xây dựng và định hình các quy tắc, cơ chế hợp tác và những luật lệ mới, củng cố và nâng cao vai trò trong cộng đồng khu vực và quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Nhìn lại hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhờ đi đúng xu thế của thời đại, tranh thủ tốt các nguồn lực từ bên ngoài, công cuộc đổi mới của Việt Nam ngày càng đạt được những thành tựu to lớn trong việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc để nâng cao vị thế và thực lực của đất nước, góp phần gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Tuy nhiên, để bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, Việt Nam đứng trước nhiều thuận lợi song cũng đối mặt với không ít khó khăn, thách thức chung và riêng, bao gồm: việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế và đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa ở tầm khu vực và toàn cầu để thực hiện và bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc trong bối cảnh diễn ra những thay đổi khó đoán định của tình hình quốc tế, khu vực; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, các trung tâm quyền lực tiếp tục diễn ra gay gắt; ở khu vực, vấn đề Biển Đông ngày càng phức tạp, do sự chồng xếp, đan xen của ba tầng quan hệ (tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và lợi ích chiến lược biển, đảo giữa các nước láng giềng; cạnh tranh chiến lược giữa Mỹ - Trung Quốc và can dự của các nước lớn khác; an toàn, tự do hàng hải và hàng không trong khu vực); hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa bảo hộ có xu hướng gia tăng..., tác động không nhỏ đến vấn đề bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc; cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ chưa từng có, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cùng với đó là vấn đề an ninh mạng.

Bối cảnh trên đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới, phức tạp hơn đối với việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, đòi hỏi Việt Nam cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:

Một là, tiếp tục triển khai có hiệu quả các chủ trương, quan điểm, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, như: 1- Kiên trì thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; 2- Tranh thủ cơ hội, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế đi vào chiều sâu, tạo sự đan xen lợi ích của các nước lớn ở Việt Nam; nâng tầm đối ngoại đa phương, song phương; thực hiện có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới...

Hai là, luôn theo dõi, bám sát diễn biến tình hình, vận dụng phương pháp khoa học để đánh giá đúng tình hình thế giới, khu vực; nắm bắt, dự báo được các xu hướng trong quan hệ quốc tế, cũng như mục tiêu chiến lược của các nước, nhất là các nước lớn đối với khu vực nói chung và Việt Nam nói riêng, để kịp thời đề ra đường lối, chính sách phù hợp, chính xác, trong đó phải luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trước hết, trên hết; bất luận hoàn cảnh nào cũng tránh để rơi vào thế kẹt giữa các bên, đúng như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước”.

Ba là, phát huy sức mạnh tổng hợp trên cơ sở kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế để khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc trong đường lối cách mạng của Đảng ta, nhất là khi thế giới đang phải đối diện với những thách thức khó lường và đại dịch COVID-19 đã làm cho những thách thức này càng trở nên phức tạp, nghiêm trọng hơn.

Bốn là, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia - dân tộc với lợi ích chung của cộng đồng quốc tế và lợi ích chính đáng của các quốc gia, dân tộc khác. Hiện nay, tất cả các nước trên thế giới đều coi trọng, đề cao lợi ích quốc gia - dân tộc khi thực thi chính sách đối ngoại. Nhưng do mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc khác nhau, nên lợi ích quốc gia - dân tộc của mỗi nước cũng không hoàn toàn giống nhau, thậm chí đối nghịch nhau. Do vậy, để có môi trường hòa bình, an ninh và ổn định phục vụ phát triển bền vững cho mỗi quốc gia, dân tộc, vấn đề quan trọng đặt ra là cần tìm thấy “điểm tương đồng”. Ở đây, điểm tương đồng chính là sự tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế mà toàn thể nhân loại đã và đang nỗ lực gìn giữ nhằm điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa quốc gia và các chủ thể trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc tế. Do vậy, kể từ khi ra đời năm 1945, Chính phủ Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, và điều này cũng chính là bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc của Việt Nam, đồng thời bảo đảm hài hòa với lợi ích của các đối tác, lợi ích chung của cộng đồng khu vực và quốc tế.

Năm là, tiếp tục tạo dựng và phát triển hình ảnh Việt Nam là một quốc gia “có trách nhiệm”, “đối tác tin cậy”. Đây là mục tiêu vừa mang tính đối nội, vừa mang tính đối ngoại. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, một quốc gia được cho là phát triển và giàu mạnh luôn là quốc gia sở hữu những thương hiệu mạnh trên thị trường quốc tế. Để hội nhập thành công cũng như tận dụng được các cơ hội mà hội nhập quốc tế đem lại, nhất là khi tham gia các hiệp định thương mại tự do, Việt Nam cần xây dựng một chiến lược phát triển các thương hiệu quốc gia mạnh nhằm phát huy hiệu quả các nguồn lực và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và hàng hóa - dịch vụ, từ đó nâng cao giá trị các thương hiệu cũng như hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế, góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia.

Sáu là, bảo đảm an ninh và phát triển cho người dân trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Quốc gia - dân tộc Việt Nam là một cộng đồng thống nhất, tạo nên sức mạnh tổng hợp để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và phát triển kinh tế. Lợi ích của cộng đồng dân tộc cũng bao hàm lợi ích của mỗi cá nhân con người, an ninh quốc gia cũng không thể tách rời an ninh con người. Các hoạt động đối ngoại, xét cho cùng, là nhằm mang lại quyền lợi cho người dân, tạo điều kiện cho người dân có cơ hội phát triển toàn diện. Nhìn rộng ra trong khu vực, mục tiêu này phù hợp với bối cảnh các nước ASEAN đang nỗ lực xây dựng một Cộng đồng ASEAN hướng tới người dân và “lấy người dân làm trung tâm”.

Bảy là, nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu, củng cố và phát triển lý luận, thông tin tuyên truyền, nhất là thông tin đối ngoại trong tình hình mới đối với việc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc; tận dụng hiệu quả sức mạnh của công nghệ thông tin và truyền thông nhằm xúc tiến liên tục, bền bỉ các chương trình truyền thông về văn hóa, đất nước, con người Việt Nam; về chủ quyền của Việt Nam trong lịch sử và hiện tại..., giúp nâng cao hình ảnh và tranh thủ sự ủng hộ của các nước, nhân dân trên thế giới đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền cũng như xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam.

Tóm lại, trong mọi giai đoạn của cách mạng Việt Nam, lợi ích quốc gia - dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là phương châm và động lực phát triển. Những thành tựu của đất nước ngày nay là minh chứng rõ nét cho thấy quan điểm đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn, sáng suốt; là điều kiện thuận lợi để Việt Nam tiếp tục phát huy vị thế, lựa chọn những kế sách phù hợp trong bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc.

HAIVAN