Thứ Năm, 1 tháng 6, 2023

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẤU TRANH VỚI NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG VIỆT NAM

 

Trong những năm qua, cùng với quan điểm, đường lối quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc được thể hiện nhất quán trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng, Việt Nam đã 4 lần công bố Sách trắng Quốc phòng, trong đó nêu rõ chủ trương “Bốn không”, thể hiện rõ sự công khai, minh bạch tính chất của nền quốc phòng Việt Nam là hòa bình và tự vệ; phương châm nhất quán là kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế; tích cực, chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Tuy nhiên, để đẩy mạnh đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, sự xuyên tạc chính sách quốc phòng Việt Nam trong tình hình hiện nay, cần thực hiện tốt những nội dung cơ bản sau:

Một là,  đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức và làm rõ tính đúng đắn của chính sách quốc phòng Việt Nam hiện nay. Đây là vấn đề quan trọng hàng đầu, cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa, bằng nhiều nội dung, hình thức, biện pháp phong phú, sáng tạo; trong đó, chú trọng thông tin, tuyên truyền về quan điểm, đường lối quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, Luật Quốc phòng, Sách trắng Quốc phòng Việt Nam. Tập trung làm rõ cơ sở khoa học, khẳng định tính chính nghĩa, hòa bình và tự vệ của chính sách quốc phòng Việt Nam. Để đạt hiệu quả, cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu, đánh giá, dự báo chính xác tình hình, kịp thời cung cấp thông tin khách quan, chính thống về hoạt động quân sự, quốc phòng; những vấn đề phức tạp, nhạy cảm trong nước, khu vực và quốc tế, nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết, cách tiếp cận đúng cho nhân dân, kiều bào ta ở nước ngoài và cộng đồng quốc tế về chính sách quốc phòng Việt Nam. Thông qua đó, không ngừng củng cố lòng tin của các quốc gia về đất nước, con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình. Đồng thời, nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo 35 các cấp; phát huy vai trò của các tổ chức, lực lượng, nhất là lực lượng nòng cốt, chuyên sâu ở các cơ quan, đơn vị để hình thành mạng lưới sâu rộng, hùng hậu tham gia đấu tranh làm thất bại mọi thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch đối với chính sách quốc phòng Việt Nam.

Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn cho thấy, một trong những mục tiêu của các thế lực thù địch là phá hoại đường lối đối ngoại và chính sách quốc phòng độc lập, tự chủ của Đảng và Nhà nước ta; phủ nhận, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng; chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động quân sự, quốc phòng, tiến tới “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, tạo tiền đề cho chuyển hóa thể chế chính trị ở Việt Nam. Để làm thất bại mưu đồ của chúng, vấn đề tiên quyết đối với nước ta hiện nay là phải: “Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh”6. Tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện cơ chế, phương thức lãnh đạo của Đảng và hệ thống luật pháp của Nhà nước về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, đảm bảo đồng bộ, thống nhất, tạo hành lang pháp lý cho việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh. Đồng thời, chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn đòi đa nguyên, đa đảng, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang của các thế lực thù địch.

Ba là, làm rõ chủ trương huy động mọi nguồn lực, tăng cường sức mạnh quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Hiện nay, vấn đề mà các thế lực thù địch tập trung công kích nhiều nhất là chính sách quốc phòng “bốn không” của Việt Nam và hô hào đòi chúng ta phải liên minh, liên kết với nước ngoài. Song, thực tiễn lịch sử đã minh chứng, chúng ta luôn giành thắng lợi trước mọi kẻ thù xâm lược và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì đã biết phát huy cao độ ý chí tự lực, tự cường, sức mạnh nội lực của toàn thể dân tộc. Vì vậy, để đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc, cần làm cho mọi người hiểu rõ chủ trương tăng cường sức mạnh quốc phòng phải dựa trên sức mạnh tổng hợp của cả nước, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước; kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế. Đồng thời, xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, tạo thành sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc.

Bốn là, đẩy mạnh hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, kiến tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước. Đây là nhiệm vụ quan trọng và kế sách giữ nước từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình; đồng thời, phản bác luận điệu “tự cô lập mình” của các thế lực thù địch. Do đó, cần tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế với chiến lược đối ngoại linh hoạt, mềm dẻo, có nguyên tắc, tăng đối tác, giảm đối tượng, tạo thế đan xen lợi ích chiến lược giữa nước ta với các nước, nhất là các nước lớn, các đối tác chiến lược, các nước láng giềng và các nước trong khu vực; tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, lệ thuộc. Tích cực củng cố tình hữu nghị, đoàn kết quốc tế, thúc đẩy quan hệ, hợp tác quốc phòng, tăng cường tiềm lực để xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; góp phần củng cố lòng tin chiến lược giữa Việt Nam với các nước, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và Quân đội ta trên trường quốc tế.

Quan điểm, đường lối, chính sách quốc phòng Việt Nam thể hiện rõ truyền thống yêu chuộng hòa bình, nhân văn, nhân đạo và thiện chí của Việt Nam, không chỉ góp phần xây dựng, củng cố niềm tin, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, mà còn làm phá sản mọi sự chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

                                                                                                                   VHT.

 

KIÊN QUYẾT ĐẤU TRANH, BÁC BỎ LUẬN ĐIỆU ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỨNG TRÊN HIẾN PHÁP VÀ PHÁP LUẬT

 

Thời gian qua, trên một số trang mạng xã hội, các thế lực thù địch đã đăng tải, phát tán nhiều tin, bài, xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam. Đáng chú ý trong đó có luận điệu cho rằng, “Đảng Cộng sản Việt Nam đứng trên Hiến pháp và pháp luật”. Đây là luận điệu xuyên tạc, nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi Đảng ta phải thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, trực tiếp phá hoại, vô hiệu hóa cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta: “Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý, điều hành - Nhân dân làm chủ”. Từ đó, gây tâm lý hoài nghi, dao động, làm tổn hại đến mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Ðảng với  Nhà nước và Nhân dân; giảm sút niềm tin của nhân dân đối với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Có thể khẳng định rằng, luận điệu “Đảng Cộng sản Việt Nam đứng trên Hiến pháp và pháp luật” của các thế lực thù địch là vô căn cứ, phản khoa học, nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thực chất, họ đã cố tình đánh tráo khái niệm một cách thô thiển giữa “nhà nước pháp quyền” nói chung với “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” và “nhà nước pháp quyền tư sản”. Chúng ta đều biết, trong lịch sử xã hội, nhà nước nào cũng mang bản chất của giai cấp nhất định, do giai cấp cầm quyền lãnh đạo, chi phối. Đơn cử như, nhà nước ở các nước tư bản hiện nay đều do một đảng, hay liên minh đảng cầm quyền, lãnh đạo, nhưng dù có liên minh nhiều đảng lãnh đạo thì bản chất của nhà nước vẫn do giai cấp cầm quyền chi phối là chủ yếu. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tất yếu mang bản chất giai cấp công nhân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo, là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, quyền lực nhà nước và xã hội thuộc về nhân dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước khác hẳn về chất so với nhà nước tư sản và các hình thức nhà nước của giai cấp thống trị, bóc lột đã có trong lịch sử - nhà nước mà quyền lực thuộc về thiểu số giai cấp thống trị, bóc lột. Như vậy, họ đã cố tình cắt xén vấn đề cốt lõi nhất của nhà nước là quyền lực thuộc về nhân dân trong bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản lãnh đạo nhà nước xã hội chủ nghĩa là đặc trưng bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Chỉ có đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, trên lập trường giai cấp công nhân, với đường lối đúng đắn thì nhà nước xã hội chủ nghĩa mới thực sự là nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đây không chỉ là vấn đề có tính nguyên tắc, mà còn bảo đảm cho nhà nước xã hội chủ nghĩa thực hiện đúng vai trò, chức năng, nhiệm vụ, trong đó có cả nhiệm vụ xây dựng hiến pháp và pháp luật.

Thực tế, Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành đảng cầm quyền sau khi lãnh đạo nhân dân Việt Nam làm nên thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Theo đó, nội dung cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội như một tất yếu lịch sử; là sự lựa chọn của lịch sử. Phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách lớn, định hướng cho sự phát triển của đất nước và toàn xã hội trên tất cả các lĩnh vực trong từng thời kỳ nhất định. Đồng thời, đề ra phương hướng, nhiệm vụ và những nguyên tắc cơ bản nhằm xây dựng Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thông qua hệ thống tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các cơ quan Nhà nước và các tổ chức của hệ thống chính trị. Điều đó đã được Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Các tổ chức Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”1. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong đó có đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước; phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên, thường xuyên tuyên truyền, giáo dục, vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, ủng hộ và tích cực thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Từ thực tiễn hơn 93 năm lãnh đạo cách mạng và 78 năm cầm quyền đã khẳng định, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội là nhân tố quyết định bản chất Nhà nước, nền pháp chế xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, đưa đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức trong hệ thống chính trị tiếp tục được tăng cường, nhất là với Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Ban hành nhiều quy định bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đề cao nguyên tắc pháp quyền, phát huy dân chủ, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và quyền làm chủ của nhân dân.

Như vậy, có thể khẳng định rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội không hề “đứng trên Hiến pháp và pháp luật” như luận điệu của các thế lực thù địch đã bịa đặt, rêu rao. Ngược lại, Đảng lãnh đạo Nhà nước được Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2013) quy định rõ trong điều 4: “Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Như vậy, cả lý luận và thực tiễn cách mạng Việt Nam luôn chứng minh tính đúng đắn về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và toàn xã hội. Không ai có thể phủ nhận được sự thật hiển nhiên đó. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân phải hết sức cảnh giác, tỉnh táo nhận diện rõ ý đồ dã tâm của các thế lực thù địch, thường xuyên tu dưỡng, nâng cao bản lĩnh chính trị, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

                                                                                                          VHT.

ĐẤU TRANH VỚI MỌI HOẠT ĐỘNG LỢI DỤNG TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO PHÁ VỠ KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

 

Để thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch chưa bao giờ từ bỏ việc lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo để can thiệp vào công việc nội bộ nước ta hòng phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị, cản trở quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Do đó, nhận diện và chủ động đấu tranh với hoạt động này có ý nghĩa rất quan trọng trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tính đến năm 2018, Việt Nam đã công nhận và cấp đăng ký hoạt động cho 43 tổ chức, thuộc 16 tôn giáo với trên 26 triệu tín đồ, 55.870 chức sắc, 145.561 chức việc, 29.396 cơ sở thờ tự. Các tổ chức tôn giáo và đại bộ phận chức sắc, chức việc, nhà tu hành hoạt động tôn giáo đúng quy định của pháp luật, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tuy nhiên, với tác động của tình hình quốc tế, mặt trái của toàn cầu hóa và cơ chế thị trường, âm mưu “chính trị hóa tôn giáo” của các thế lực thù địch đã làm cho đời sống tôn giáo bị tác động và không ngừng biến đổi, tiềm ẩn nhiều “nguy cơ”, nổi lên các vấn đề như: Lợi dụng hoạt động tôn giáo vi phạm pháp luật, thậm chí mang “màu sắc chính trị”; lợi dụng một số bất cập trong quản lý tôn giáo để xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; mâu thuẫn nội bộ, tranh giành chức quyền, hoạt động tôn giáo xa rời chuẩn mực đạo đức và văn hóa truyền thống dân tộc, trục lợi, sa sút đạo hạnh... trong một số tổ chức tôn giáo; xuất hiện một số loại hội, nhóm mang danh tôn giáo, đạo lạ.Những vấn đề nêu trên không chỉ gây khó khăn cho công tác tôn giáo mà còn là nguyên nhân và điều kiện để các thế lực thù địch lợi dụng tiến hành các hoạt động gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội. Cụ thể là: Lợi dụng tôn giáo để hoạt động chống Đảng và Nhà nước Việt Nam, gây mất ổn định chính trị - xã hội.

Trong thời gian qua, lợi dụng tính nhạy cảm của vấn đề tôn giáo, một số phần tử cực đoan trong tôn giáo cấu kết với các tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí với Đảng và Nhà nước Việt Nam tổ chức các cuộc “hội luận”, “họp báo”, soạn thảo và tán phát các tài liệu có nội dung xuyên tạc, bịa đặt để tuyên truyền chống Đảng và Nhà nước Việt Nam, nhất là trên các lĩnh vực dân chủ và nhân quyền. Họ đẩy mạnh xuyên tạc Đảng và Nhà nước Việt Nam “đàn áp tôn giáo”, Việt Nam “không có tự do tôn giáo”. Họ cho rằng Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo (trước đây) và Luật Tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay là sự “đàn áp tôn giáo” bằng pháp luật của Nhà nước Việt Nam, không tạo điều kiện cho các tôn giáo phát triển; từ đó, khoét sâu mâu thuẫn giữa các tôn giáo với chính quyền các cấp. Đồng thời, móc nối, câu kết với một số tổ chức, cá nhân ở trong nước và nước ngoài thành lập hoặc tích cực tham gia các hội, nhóm trái pháp luật, mang danh nghĩa tôn giáo để tập hợp, phát triển lực lượng chống đốiMột số chức sắc cực đoan lợi dụng các vấn đề chính trị - xã hội phức tạp để kích động tín đồ xuống đường biểu tình, gây mất ổn định chính trị - xã hội. Điển hình như, lợi dụng sự cố môi trường ở các tỉnh miền Trung do Formosa gây ra, một số chức sắc cực đoan trong Công giáo thuộc Giáo phận Vinh đã tổ chức, kích động giáo dân tổ chức nhiều cuộc biểu tình, tuần hành dưới danh nghĩa “bảo vệ môi trường”, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự tại các địa phương, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân những người không theo tôn giáo, khiến cho mối quan hệ đoàn kết lương - giáo có nơi, có lúc bị rạn nứt nghiêm trọng. Đáng chú ý, với lý do “bảo vệ tự do tôn giáo”, một số thế lực nước ngoài đã ban hành báo cáo, phúc trình, thậm chí là đạo luật, nghị quyết “lên án” tình hình bảo đảm quyền con người của Việt Nam, nhất là trên lĩnh vực tôn giáo, từ đó gây sức ép về ngoại giao, đồng thời gắn các vấn đề dân chủ và nhân quyền trên lĩnh vực tôn giáo với các vấn đề về viện trợ kinh tế, đầu tư phát triển, nhằm can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.

Như vậy, mọi hoạt động lợi dụng tôn giáo và vấn đề tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội là hoạt động hết sức nguy hiểm, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây chia rẽ giữa các tôn giáo, giữa tôn giáo với chính quyền, giữa quần chúng giáo dân và những người không theo tôn giáo, tạo ra những yếu tố phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ bùng nổ thành xung đột xã hội. Trên thực tế, đã xảy ra một số vụ mâu thuẫn, xung đột trong nội bộ nhân dân có liên quan tới tôn giáo do tác động bởi hoạt động nói trên. Sự ổn định chính trị - xã hội ở một số nơi, một số lúc đã bị ảnh hưởng. Do đó, chủ động phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả với hoạt động này có vai trò quan trọng trong toàn bộ công tác tôn giáo cũng như bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội ở nước ta./.

                                                                                         VHT.

BẢN CHẤT CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

 

Những năm qua trước những luận điệu xuyên tạc, các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch đã và đang hiện hữu, rất nhiều câu hỏi đặt ra cho chúng ta và cho cả bạn bè quốc tế là: Bản chất, vai trò của hoạt động tuyên giáo - tuyên truyền là gì? Phải chăng chỉ có Cộng sản, chỉ có Việt Nam mới có công tác tuyên truyền? Công tác tuyên truyền của Đảng và Nhà nước ta, liệu có giống như lời rêu rao của các thế lực thù địch...?

Về bản chất của hoạt động tuyên truyền là “Giải thích rộng rãi để thuyết phục mọi người tán thành, ủng hộ, làm theo”. Như vậy, tuyên truyền là hoạt động có mục đích của chủ thể nhằm truyền bá những tri thức, giá trị tinh thần, tư tưởng đến đối tượng, biến những kiến thức, giá trị tinh thần đó thành nhận thức, niềm tin, tình cảm của đối tượng; thôi thúc đối tượng hành động theo những định hướng, những mục tiêu do chủ thể tuyên truyền đặt ra. Mục tiêu quan trọng nhất của hoạt động tuyên truyền không dừng lại ở thay đổi suy nghĩ hay thái độ của quần chúng, mà cần phải tạo hành động trong quần chúng. Rõ ràng, bản chất, vai trò của công tác tuyên truyền là một hoạt động thiết yếu của bất cứ tổ chức, quốc gia nào. Nếu không có hoạt động này thì tất yếu tổ chức, chính quyền, quốc gia đó sẽ tự cô lập chính mình với nhân dân trong nước, cô lập mình với các tổ chức, chính quyền, quốc gia khác. Và khi đã không có sự kết nối, nguy cơ đe dọa về tính chính danh, về sự an toàn… sớm muộn cũng sẽ hiện hữu.

Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công tác tuyên truyền còn diễn ra rất mạnh mẽ và sôi động trên không gian mạng Internet. Hầu hết các quốc gia, tôn giáo, tổ chức xã hội… đã khai thác triệt để ưu thế của công nghệ số để xây dựng các website, cổng thông tin điện tử, các trang mạng xã hội… để tuyên truyền, hướng người dân và công chúng theo mục đích, con đường phát triển của mình. Dù khác nhau về hình thức, cách  thức tương tác (thực, ảo)... nhưng bản chất vẫn là hoạt động tuyên truyền, quảng bá. Như vậy, với bất cứ quốc gia nào, để người dân tin tưởng và làm theo chính quyền, để khẳng định được vị thế quốc gia trên trường quốc tế thì tất yếu phải có công tác tuyên truyền.

Công tác tuyên truyền của Đảng và Nhà nước ta, có thể thấy rằng, đối với công tác tư tưởng của Đảng ta, tuyên truyền là một trong ba bộ phận quan trọng của công tác tư tưởng (lý luận, tuyên truyền, cổ động), có nhiệm vụ phổ biến, truyền bá hệ tư tưởng, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến quần chúng nhân dân. Công tác tuyên truyền góp phần nâng cao nhận thức, hình thành và củng cố niềm tin cho mọi tầng lớp nhân dân; cổ vũ, động viên, thúc đẩy và biến nhận thức, niềm tin, nhiệt huyết của quảng đại quần chúng thành hành động cách mạng, góp phần xây dựng con người mới, cuộc sống mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác tuyên truyền đã cổ vũ, động viên phong trào thi đua yêu nước giúp bảo vệ an ninh chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại; giúp uốn nắn những nhận thức lệch lạc, đấu tranh với những quan điểm, hành động sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Ngày 1/8/1930 ngành tuyên giáo ra đời cho đến nay, công tác tuyên truyền đã khẳng định vai trò và sức mạnh của mình trên mặt trận tư tưởng - văn hóa của Đảng. Thực tiễn đã chứng minh, công tác tuyên truyền của chúng ta không phải tự nhiên sinh ra, mà trải qua một chặng đường lịch sử, trong đó “có sự cống hiến, đóng góp công sức của các thế hệ cán bộ tuyên huấn, nhà văn, nhà báo, nhà giáo, nghệ sĩ, nhà khoa học... đã vượt qua biết bao gian khổ, hy sinh, làm nên những thành tích vẻ vang, đóng góp vào công cuộc bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và đổi mới, phát triển đất nước”. Đặc biệt, trong đối nội và đối ngoại, công tác tuyên truyền của Đảng ta được tiến hành bài bản, khoa học, đem lại những hiệu quả, lợi ích to lớn, quan trọng cho quốc gia - dân tộc.

Thực tiễn, công tác tuyên truyền - thông tin đối ngoại đã góp phần tạo sự lan tỏa hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế, giúp bạn bè quốc tế biết đến một Việt Nam Khát vọng hòa bình và Phát triển bền vững; biết đến một Việt Nam có hàng nghìn năm lịch sử, có nền văn hóa mang bản sắc riêng và độc đáo, có truyền thống tốt đẹp; là quốc gia có đóng góp tích cực góp phần nâng cao vai trò của Liên hợp quốc trong thời kỳ mới; là nơi an toàn lý tưởng để các nhà đầu tư quốc tế lựa chọn, là nơi mà du khách có thể cảm thấy an toàn, thân thiện và hạnh phúc khi đặt chân đến… và là “Điểm đến của thiên niên kỷ mới”. Cũng từ các hoạt động định hướng, tuyên truyền thiết thực, khoa học mà chất lượng tuyên truyền biển, đảo và biên giới trên đất liền ở nước ta được nâng cao, nhận được sự đồng tình, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội. Nội dung công tác tuyên truyền biển, đảo và biên giới trên đất liền luôn được thực hiện đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tiễn; được bạn bè, cộng đồng quốc tế ủng hộ, thừa nhận tính chính danh và chính nghĩa của Việt Nam.

Công tác tuyên truyền - thông tin đối nội cũng đã đạt được nhiều thành tựu vẻ vang đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, “góp phần giáo dục, tuyên truyền và bảo vệ đường lối Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội của cách mạng nước ta” đồng thời bảo vệ, gìn giữ sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên các lĩnh vực tư tưởng - lý luận, tuyên truyền, khoa giáo, văn hóa - văn nghệ; là vũ khí đấu tranh, phản bác có hiệu quả trước các quan điểm sai trái, thù địch.

Như vậy có thể khẳng định, nhờ có hoạt động tuyên truyền mà chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước đã đến với nhân dân một cách kịp thời, hiệu quả và thiết thực. Các vấn đề quan trọng của đất nước, từ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, văn hóa… cho đến đời sống tư tưởng tình cảm, thực hành tôn giáo tín ngưỡng… của nhân dân được phản ánh kịp thời, sinh động. Đây chính là vai trò “cầu nối” giữa “Ý Đảng” với “Lòng Dân” của ngành tuyên giáo; góp phần tăng cường bồi đắp, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước; góp phần nâng cao vị thế quốc gia, lòng tự hào dân tộc, khát vọng Việt Nam. Thực tiễn các thế lực thù địch sẽ không ngừng xuyên tạc, chống phá nền tảng tư tưởng và chế độ chính trị - xã hội của chúng ta. Trong bối cảnh đó, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng được xác định là nhiệm vụ và nội dung tất yếu, cơ bản, hệ trọng, quan trọng hàng đầu của toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân ta. Trong đó công tác tuyên truyền phải luôn được xác định là nòng cốt, tự giác, thường xuyên và thiết thực như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tuyên truyền là đem một phần việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân làm, nếu không đạt được mục tiêu đó thì tuyên truyền thất bại”./.

                                                                                                   VHT.

DẤU TRANH, BÁC BỎ LUẬN ĐIỆU “THAM NHŨNG, THA HÓA, BIẾN CHẤT LÀ CÁI “PHỔ BIẾN” VÀ “TẤT YẾU” CỦA CHẾ ĐỘ ĐỘC ĐẢNG”

 

Lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam có nhiều thời kỳ phát triển rực rỡ nhưng hiếm thấy thời kỳ nào vị thế của dân tộc lại có được như hiện nay. Thành công đó là minh chứng hùng hồn về sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và sự tin tưởng tuyệt đối của toàn dân, toàn quân ta với Đảng để đồng lòng, chung sức xây dựng đất nước Việt Nam ngày càng vững mạnh, hùng cường vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng với mưu đồ chính trị, các thế lực thù địch đã và đang tìm mọi cách chống phá Đảng và chế độ ta. Khi các chiêu bài đòi “đa nguyên, đa đảng” đã hoàn toàn thất bại, họ lại dùng những thủ đoạn khác để thực hiện âm mưu đó. Nhằm mục tiêu làm suy giảm niềm tin của Nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, các thế lực thù địch xuyên tạc rằng: “tham nhũng, tha hóa, biến chất là cái “phổ biến” và “tất yếu” của chế độ độc đảng”. Đây là luận điệu hoàn toàn méo mó về lý luận, lệch lạc về thực tiễn, không thể lừa dối được ai. Trong lúc Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta kiên quyết đẩy mạnh công tác đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng tham nhũng, tha hóa, biến chất trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và từng bước đạt được những thành công, thì những thế lực chống đối lại đưa ra luận điệu: “tham nhũng, tha hóa, biến chất là cái “phổ biến” và “tất yếu” của chế độ độc đảng”. Đây vẫn là thủ đoạn xảo trá quen thuộc “lấy bé xé ra to”, lấy hiện tượng quy thành bản chất để phủ định tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn. Song, chúng ta có đầy đủ lý lẽ và chứng cứ thực tiễn để bác bỏ luận điệu này.

Một là, Đảng và Nhà nước ta nhận thức rõ sự nguy hại và đánh giá đúng thực trạng, tình hình tham nhũng, tha hóa, biến chất trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, tha hóa, biến chất là những hiện tượng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tham nhũng là một trong những biểu hiện của suy thoái, tha hóa, biến chất và nó là hiện tượng nghiêm trọng nhất. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gọi đó là “giặc nội xâm” phải kiên quyết đấu tranh chống kẻ địch nguy hiểm này cùng với các căn bệnh khác như tha hóa, thoái hóa, biến chất. Hiện nay, Đảng ta xác định, tham nhũng cùng với tha hóa, biến chất là một trong những “nguy cơ lớn” đe dọa sự tồn vong của chế độ ta.

Nhận rõ sự nguy hại của tình trạng tham nhũng, tha hóa, biến chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tại các kỳ đại hội Đảng, nhất là những đại hội gần đây, Đảng ta đã luôn đặc biệt chú trọng đến nhiệm vụ phòng, chống các tệ nạn này. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm”, bệnh lãng phí, vô cảm, bệnh thành tích ở một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi”. Những đánh giá của Đảng ta là rất nghiêm túc, khách quan, khoa học, đúng thực chất mức độ và tác hại của các hiện trạng tiêu cực vẫn đang diễn biến phức tạp. Có thể thấy rằng, việc xác định một bộ phận không nhỏ là sự đánh giá định tính nhưng rất chính xác (không nhỏ nghĩa là đã có con số đáng kể, có lớn nhưng chưa phải số đông, đáng kể nhưng vẫn là thiểu số, không phải đa số). Từ đầu nhiệm kỳ XIII đến nay đã thi hành kỷ luật 67 cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, trong đó có 07 Ủy viên Trung ương Đảng, 06 nguyên Ủy viên Trung ương Đảng. Với số lượng 67 trường hợp bị xử lý trong hàng nghìn cán bộ do Trung ương quản lý cũng như 07 trường hợp kỷ luật trong hàng trăm Ủy viên Trung ương thì không thể coi đó là “phổ biến”.

Hai là, Đảng và Nhà nước ta kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, suy thoái, tha hóa, biến chất trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và đã đạt được những kết quả tích cực. Nhận thức rõ tham nhũng, tha hóa, biến chất trong một bộ phận cán bộ, đảng viên sẽ làm suy yếu Đảng, suy giảm quyền lực của Nhà nước và sói mòn lòng tin của Nhân dân, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình chung của đất nước, Đảng và Nhà nước có quyết tâm chính trị cao trong việc phòng, chống các biểu hiện tiêu cực này. Bởi vậy, việc phòng, chống tham nhũng, tha hóa, biến chất trong đội ngũ cán bộ, đảng viên trở thành nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách của công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị. Đại hội XII của Đảng xác định nhiệm vụ trọng tâm: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Đến Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ, triệt để hơn, hiệu quả hơn. Kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa với chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời những hành vi tham nhũng, lãng phí, bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng, can thiệp, cản trở việc chống tham nhũng, lãng phí, không có vùng cấm, không có ngoại lệ”. Với quyết tâm chính trị cao của Đảng và Nhà nước, sự vào cuộc tích cực của cả hệ thống chính trị và sự đồng thuận, hưởng ứng của nhân dân, công tác phòng, chống tham nhũng, tha hóa, biến chất đã đạt được những kết quả tích cực. Tổng Bí thư chỉ rõ: trước một số ý kiến cho rằng, nếu quá tập trung vào chống tham nhũng sẽ làm “nhụt chí”, “chùn bước” những người dám nghĩ, dám làm, sẽ làm “chậm sự phát triển đất nước”, nhưng thực tế đã chứng minh, chính nhờ làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, chúng ta giữ vững ổn định chính trị xã hội, phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng quan hệ đối ngoại, củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân và bạn bè quốc tế.

Ba là, tình trạng tham nhũng, tha hóa, biến chất về nhân cách là “quốc tế nạn” chứ không phải ở chế độ một đảng cầm quyền. Chúng ta biết, quy luật của tự nhiên và xã hội luôn có sự phát triển không đồng đều. Trong một khu rừng, cùng một loại cây hoặc muông thú đều có cá thể mạnh, yếu và khuyết tật; trong một cây rất tươi tốt cũng có cành mục, cành khô; trong đời sống xã hội bao giờ cũng có người tốt và kẻ xấu và tham nhũng, suy thoái, tha hóa nhân cách cũng vậy, ở chế độ nào cũng có, nhưng không thể là cái “phổ biến”, mà chỉ là hiện tượng mang tính xã hội, tồn tại ở tất cả các quốc gia khi quyền lực nhà nước bị thao túng, lợi dụng để trục lợi và được coi là “quốc tế nạn” ở mọi thể chế chính trị, là căn bệnh nan y đã có từ rất lâu trong lịch sử loài người. Như vậy, chế độ một đảng cầm quyền không phải là nguyên nhân sinh ra tệ tham nhũng, suy thoái, tha hóa, biến chất. Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế, tham nhũng là tệ nạn rất nhức nhối, xuất hiện ở nhiều quốc gia, trong đó nhiều nhất lại là ở các quốc gia có chế độ đa đảng do giai cấp tư sản lãnh đạo. Nhiều quốc gia không phải đảng cộng sản cầm quyền, như: Hàn Quốc, Malaysia, Colombia, Brazil, Ukraine,… tham nhũng xảy ra rất nghiêm trọng.

Như vậy những luận chứng, luận cứ ở trên một lần nữa khẳng định: “tham nhũng, tha hóa, biến chất” là một hiện tượng mang tính xã hội, ở chế độ xã hội nào cũng có, không thể quy thành bản chất của chế độ độc đảng. Vì thế, luận điệu: Tham nhũng, tha hóa, biến chất là cái “phổ biến” và “tất yếu” của chế độ độc đảng - một cách nhìn méo mó về lý luận, lệch lạc về thực tiễn, cần kiên quyết bác bỏ. Với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, sự quyết liệt trong điều hành của Nhà nước, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, cùng sự đồng thuận của nhân dân, chúng ta hoàn toàn tin tưởng cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tha hóa, biến chất nhất định sẽ đạt nhiều thắng lợi, sự nghiệp cách mạng của chúng ta nhất định thành công./.

                                                                                                           VHT.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẤU TRANH VỚI NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG VIỆT NAM

 

Trong những năm qua, cùng với quan điểm, đường lối quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc được thể hiện nhất quán trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng, Việt Nam đã 4 lần công bố Sách trắng Quốc phòng, trong đó nêu rõ chủ trương “Bốn không”, thể hiện rõ sự công khai, minh bạch tính chất của nền quốc phòng Việt Nam là hòa bình và tự vệ; phương châm nhất quán là kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế; tích cực, chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Tuy nhiên, để đẩy mạnh đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, sự xuyên tạc chính sách quốc phòng Việt Nam trong tình hình hiện nay, cần thực hiện tốt những nội dung cơ bản sau:

Một là,  đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức và làm rõ tính đúng đắn của chính sách quốc phòng Việt Nam hiện nay. Đây là vấn đề quan trọng hàng đầu, cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa, bằng nhiều nội dung, hình thức, biện pháp phong phú, sáng tạo; trong đó, chú trọng thông tin, tuyên truyền về quan điểm, đường lối quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc, Luật Quốc phòng, Sách trắng Quốc phòng Việt Nam. Tập trung làm rõ cơ sở khoa học, khẳng định tính chính nghĩa, hòa bình và tự vệ của chính sách quốc phòng Việt Nam. Để đạt hiệu quả, cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu, đánh giá, dự báo chính xác tình hình, kịp thời cung cấp thông tin khách quan, chính thống về hoạt động quân sự, quốc phòng; những vấn đề phức tạp, nhạy cảm trong nước, khu vực và quốc tế, nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết, cách tiếp cận đúng cho nhân dân, kiều bào ta ở nước ngoài và cộng đồng quốc tế về chính sách quốc phòng Việt Nam. Thông qua đó, không ngừng củng cố lòng tin của các quốc gia về đất nước, con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình. Đồng thời, nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban Chỉ đạo 35 các cấp; phát huy vai trò của các tổ chức, lực lượng, nhất là lực lượng nòng cốt, chuyên sâu ở các cơ quan, đơn vị để hình thành mạng lưới sâu rộng, hùng hậu tham gia đấu tranh làm thất bại mọi thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch đối với chính sách quốc phòng Việt Nam.

Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn cho thấy, một trong những mục tiêu của các thế lực thù địch là phá hoại đường lối đối ngoại và chính sách quốc phòng độc lập, tự chủ của Đảng và Nhà nước ta; phủ nhận, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng; chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động quân sự, quốc phòng, tiến tới “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, tạo tiền đề cho chuyển hóa thể chế chính trị ở Việt Nam. Để làm thất bại mưu đồ của chúng, vấn đề tiên quyết đối với nước ta hiện nay là phải: “Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh”6. Tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện cơ chế, phương thức lãnh đạo của Đảng và hệ thống luật pháp của Nhà nước về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, đảm bảo đồng bộ, thống nhất, tạo hành lang pháp lý cho việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc và mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh. Đồng thời, chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn đòi đa nguyên, đa đảng, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang của các thế lực thù địch.

Ba là, làm rõ chủ trương huy động mọi nguồn lực, tăng cường sức mạnh quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Hiện nay, vấn đề mà các thế lực thù địch tập trung công kích nhiều nhất là chính sách quốc phòng “bốn không” của Việt Nam và hô hào đòi chúng ta phải liên minh, liên kết với nước ngoài. Song, thực tiễn lịch sử đã minh chứng, chúng ta luôn giành thắng lợi trước mọi kẻ thù xâm lược và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì đã biết phát huy cao độ ý chí tự lực, tự cường, sức mạnh nội lực của toàn thể dân tộc. Vì vậy, để đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc, cần làm cho mọi người hiểu rõ chủ trương tăng cường sức mạnh quốc phòng phải dựa trên sức mạnh tổng hợp của cả nước, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước; kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế. Đồng thời, xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, tạo thành sức mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc.

Bốn là, đẩy mạnh hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, kiến tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước. Đây là nhiệm vụ quan trọng và kế sách giữ nước từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình; đồng thời, phản bác luận điệu “tự cô lập mình” của các thế lực thù địch. Do đó, cần tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế với chiến lược đối ngoại linh hoạt, mềm dẻo, có nguyên tắc, tăng đối tác, giảm đối tượng, tạo thế đan xen lợi ích chiến lược giữa nước ta với các nước, nhất là các nước lớn, các đối tác chiến lược, các nước láng giềng và các nước trong khu vực; tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, lệ thuộc. Tích cực củng cố tình hữu nghị, đoàn kết quốc tế, thúc đẩy quan hệ, hợp tác quốc phòng, tăng cường tiềm lực để xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; góp phần củng cố lòng tin chiến lược giữa Việt Nam với các nước, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và Quân đội ta trên trường quốc tế.

Quan điểm, đường lối, chính sách quốc phòng Việt Nam thể hiện rõ truyền thống yêu chuộng hòa bình, nhân văn, nhân đạo và thiện chí của Việt Nam, không chỉ góp phần xây dựng, củng cố niềm tin, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, mà còn làm phá sản mọi sự chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

                                                                                                                   VHT.

 

CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG VỀ DÂN TỘC, TÔN GIÁO

 

Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, vận động đồng bào các dân tộc thiểu số, tôn giáo được triển khai đồng bộ ở các cấp, tập trung tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, tuyên truyền đến từng nhà, từng đối tượng; kết hợp giáo dục chung với giáo dục riêng, giáo dục tại cộng đồng, trong đó chú trọng giáo dục cảnm hóa, giáo dục bằng những việc làm cụ thể của cán bộ, chiến sĩ, đã giác ngộ được nhiều đối tượng bị các thế lực thù địch khống chế, bọn cực đoan trong các dân tộc, tôn giáo; thăm hỏi già làng, trưởng bản, người có uy tín trong các dân tộc, các chức sắc, chức việc, nhà tu hành; tổ chức giao lưu văn hóa, thể thao giúp đồng bào dân tộc, tôn giáo có Trước tiên cần nhận thức đúng đắn hơn về chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta; âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá. Công tác dân vận của Quân đội đã làm cho đồng bào các dân tộc, tôn giáo hiểu được giá trị cuộc sống độc lập, tự do, hòa bình, không có xung đột dân tộc và tôn giáo, giữ vững ổn định chính trị để phát triển đất nước.

Vì vậy, Hội đồng giáo dục quốc phòng, an ninh các quân khu, tỉnh, thành phố đã tham mưu, phối hợp với địa phương tổ chức bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho già làng, trưởng bản, người có uy tín trong các dân tộc, các chức sắc, chức việc tôn giáo, góp phần nâng cao ý thức quốc phòng toàn dân, các đơn vị trong những năm qua đã chỉ đạo các cơ quan chủ động nghiên cứu, biên sọan các chuyên đề để bồi dưỡng, tập huấn cho cán bộ, chiến sỹ làm công tác vận động quần chúng. Thường xuyên phát huy vai trò già làng, trưởng bản, người có uy tín trong các dân tộc, chức sắc, chức việc tôn giáo trong công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số, các tín đồ chấp hành và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và địa phương. Các cấp đã tổ chức tốt việc giáo dục quốc phòng, an ninh thuộc các đối tượng, chú trọng đội ngũ cán bộ, đảng viên, học sinh, sinh viên, chức sắc, chức việc tôn giáo, già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng dân cư.

 

 

CẠNH TRANH THẾ CHIẾN LƯỢC TRÊN BIỂN

 

Tại Biển Đông hiện đang tồn tại 02 nhóm mâu thuẫn lớn; mâu thuẫn về tranh chấp chủ quyền đang diễn biến phức tạp và khó giải quyết do liên quan nhiều bên (05 nước, 06 bên) với quan điểm khác biệt cả về chủ quyền, lợi ích và cách thức giải quyết tranh chấp, nhất là khác biệt về quan điểm, chủ trương của Trung Quốc với các bên có tranh chấp còn lại. Tranh chấp chủ quyền và cạnh tranh thế chiến lược, tranh giành ảnh hưởng, lợi ích của các nước lớn ở Biển Đông ngày càng diễn biến phức tạp, khó lường không chỉ đe dọa hòa bình, ổn định khu vực, chủ quyền của Việt Nam mà còn đặt ra nhiều thách thức, hệ lụy đối với an ninh quốc gia Việt Nam. Biển Đông không chỉ đơn thuần là tranh chấp chủ quyền mà đan xen với đó là sự cạnh tranh chiến lược, tranh giành ảnh hưởng và lợi ích của hầu hết các nước lớn trên thế giới, đặc biệt là sự tranh giành thế chiến lược giữa Mỹ và Trung Quốc. Thực tế quan hệ giữa các nước lớn và quan hệ Mỹ - Trung những năm gần đây đã phản ánh rõ, mỗi khi cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung diễn ra gay gắt thì vấn đề Biển Đông cũng diễn biến phức tạp, căng thẳng, hoạt động của Trung Quốc và sự can dự của các nước lớn vào vấn đề Biển Đông đều gia tăng.

Hai nhóm mâu thuẫn trên khiến tình hình Biển Đông còn diễn biến phức tạp, kéo dài, không thể giải quyết trong ngắn hạn và trung hạn, tiếp tục là yếu tố quan trọng chi phối môi trường an ninh trong khu vực, trực tiếp tác động, ảnh hưởng tới lợi ích, ANQG, môi trường đối ngoại của các nước trong khu vực trong đó có Việt Nam. Sự bế tắc trong giải quyết giữa các bên có tranh chấp ở Biển Đông và sự can dự mạnh mẽ của các nước lớn làm phát sinh những nguy cơ về xung đột cục bộ trên biển, xu hướng chạy đua vũ trang trong khu vực. Bệnh cạnh đó, những căng thẳng ở Biển Đông còn kéo theo hàng loạt các hệ lụy khác như tác động, ảnh hưởng, làm chậm đà phát triển kinh tế biển của đất nước, nhất là các hoạt động dầu khí, nghề cá; những đe dọa về an ninh ngay trong nội địa như các đối tượng phản động, cơ hội chính trị lợi dụng để xuyên tạc đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước, tiến hành các hoạt động chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết, kích động biểu tình, bạo loạn, phá hoại.

NHẬN DIỆN ĐỐI TƯỢNG ĐỐI LẬP VỀ Ý THỨC HỆ

 

Những đối tượng đối lập về ý thức hệ, có âm mưu và hành động tập trung nhằm xóa bỏ xã hội chủ nghĩa ở nước ta là chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch nói chung, về bản chất, các thế lực này hoàn toàn đối lập về hệ ý thức, tư tưởng, họ muốn xóa bỏ nền tảng tư tưởng lý luận của Đảng ta là Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; xóa bỏ vai trò lãnh đao của Đảng Cộng sản Việt Nam, phủ nhận đường lối, quan điểm của Đảng; chính sách pháp luật của Nhà nước; các nguyên tắc lãnh đạo của Đảng; lịch sử truyền thống, nền văn hóa dân tộc.

          Những đối tượng thuộc các lưc lượng dân tộc hẹp hòi, có ý đồ  bành trướng, tranh đoạt chủ quyền lãnh thổ nước ta. Bản chất của đối tượng này tuy cùng có ý thức hệ gần tương đồng hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, cùng con đường đi lên xã hội chủ nghĩa, đấu tranh để bảo vệ xã hội xã hội chủ nghĩa, nhưng do lợi ích dân tộc hẹp hòi, họ có chủ trương và hành động xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền lãnh thổ của nước ta, ở cấp độ cao hơn có thể dẫn đến xung đột vũ trang và chiến tranh biên giới, trên biển, trên bộ và trên không gian.

Phương thức chống đối mà các thế lực đối lập trên thường áp dụng là chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, kết hợp với nhiều loại hình can thiệp bằng kinh tế, chính trị, ngoại giao, văn hóa; có thể cả bằng vũ trang can thiệp, hoặc chiến tranh, ủy nhiệm, trừng phạt. Mục tiêu chủ yếu của chúng là lật đổ chính quyền, dựng lên một chính thể mới chịu sự chi phối về lợi ích chiến lược của chúng, tuy không nhằm mục tiêu đánh chiếm đất đai, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, nhưng nếu chúng ta xử lý sai lầm về chiến lược, rất có thể chúng tạo cớ cho các thế lực thù địch đưa nước ta vào thế đối đầu với chúng và viện cớ một điều khoản của Liên hợp quốc trách nhiệm bảo vệ để đưa đồng minh dưới danh nghĩa Liên hợp quốc vào tiến hành chiến tranh can thiệp, lật đổ và xâm lược đối với nước ta.

          Những đối tượng nêu trên có thể bị các nước lớn thao túng, có âm mưu   và hành động chống phá nước ta. Về bản chất của những đối tượng này là, trong điều kiện bình thường họ là những đối tác tốt, tương đồng về lợi ích, tuy   có thể còn có một số khác biệt về chế độ chính trị, về lợi ích đối ngoại. Nhưng trong những điều kiện phức tạp, họ có thể bị lôi kéo, thao túng, can  thiệp, chống lại chúng ta. Trong đó có thể có một số nước vốn có quan hệ hữu nghị truyền thống với Việt Nam nhưng khi bị các nước lớn thao túng về lợi   ích và giàng buộc về chính trị cũng trở mặt thành đối tượng của Việt Nam.

         

TĂNG CƯỜNG HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO

 

Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác tôn giáo, tạo điều kiện thuận lợi cho các tôn giáo, chức sắc, tín đồ sinh hoạt tôn giáo bình thường theo quy đúng chủ trương, chính sách, quy định của Đảng, Nhà nước, Hiến chương, Điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận.

Thực hiện quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước đã thể chế hóa thành các văn bản luật, pháp lệnh. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo thể hiện nhất quán chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo.

Tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Đảng; truyên truyền Luật Tín ngưỡng tôn giáo và các quy định của Nhà nước về công tác tôn giáo. Tăng cường sự chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, sự phối kết hợp của các ngành, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể trong công tác tôn giáo. Về công tác lãnh đạo, chỉ đạo: Phải có nhận thức đúng, hiểu biết thấu đáo về tôn giáo và chính sách tôn giáo, quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng và các văn bản pháp luật của Nhà nước về công tác tôn giáo. Thực hiện nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý hoạt động tôn giáo theo pháp luật; phát huy vai trò của các cơ quan tham mưu, sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, Mặt trận và đoàn thể, đảm bảo tập trung, thống nhất, chủ động, kịp thời, chặt chẽ và đúng pháp luật trong giải quyết các vấn đề tôn giáo phát sinh.

 Tạo được sự thống nhất về tư tưởng, nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức các cấp, các ngành về vị trí, vai trò của công tác tôn giáo trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh. Nâng cao ý thức, trách nhiệm quản lý của các cấp, các ngành đối với công tác tôn giáo; xác định rõ trách nhiệm, thẩm quyền, thời hiệu giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan đến tôn giáo của các cấp chính quyền; đồng thời tạo được sự đồng thuận giữa các tôn giáo và chính quyền khi giải quyết các vấn đề có liên quan đến tôn giáo; thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, cập nhật kiến thức cho cán bộ chủ chốt các cấp, cán bộ làm công tác tôn giáo, kinh nghiệm giải quyết các vụ việc phức tạp về tôn giáo.

 

ĐẤU TRANH BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO

 

Tiềm lực quốc phòng có vai trò quan trọng trong quản lý, đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Đây là sức mạnh tiềm tàng, là "hậu phương", bảo đảm "hậu cần" và là chỗ dựa về sức mạnh cho quản lý, đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo; là lực lượng dự bị sẵn sàng đáp ứng yêu cầu của đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo. Tiềm lực quốc phòng mạnh còn là lực lượng răn đe đối với âm mưu và hành động xâm phạm chủ quyền biển đảo của Tổ quốc.

Biển, đảo nước ta có vị trí rất quan trọng, nhạy cảm về mặt chính trị đối với đất nước và cả khu vực, cũng như thế giới; giữ vững chủ quyền, bảo đảm an ninh trên biển, phát triển kinh tế biển bền vững sẽ trực tiếp củng cố, giữ vững ổn định chính trị trong nước, góp phần nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định, an ninh khu vực và thế giới. Vì vậy, cần tăng cường xây dựng, củng cố tiềm lực quốc phòng biển đảo đáp ứng yêu cầu mới.

          Xây dựng, củng cố thế trận quốc phòng; để xây dựng, củng cố thế trận quốc phòng quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo cần tiến hành đồng bộ, có hiệu quả các biện pháp: Xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở, xây dựng, củng cố "thế trận lòng dân" vững chắc; xây dựng khu vực phòng thủ các tỉnh ven biển vững chắc; tổ chức bố trí lực lượng vũ trang; xây dựng các công trình quốc phòng, quân sự bảo vệ biển, đảo.

          Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế và tăng cường công tác đối ngoại nhằm khai thác những nhân tố tích cực, hạn chế những nhân tố tiêu cực, góp phần to lớn vào việc quản lý, bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia, giữ vững môi trường hòa bình trên vùng biển, đảo của Tổ quốc. Đẩy mạnh quá trình đàm phán giải quyết các vấn đề về bất đồng về biên giới lãnh thổ trên biển và về ranh giới thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế với các nước láng giềng, trên cơ sở quán triệt và nắm vững lập trường, quan điểm, chính sách đối ngoại. Đặc biệt là chủ trương giải quyết các vấn đề tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ cũng như các tranh chấp khác liên quan đến biển đảo là thông qua thương lượng hòa bình trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng pháp luật quốc tế để vụ bảo vệ Tổ quốc.

NÂNG CAO HIỆU LỰC QUẢN LÝ ĐIỀU HÀNH CHÍNH QUYỀN CÁC CẤP TRONG PHÒNG CHỐNG DIỄN BIẾN HÒA BÌNH

 

Sự chống phá chủ nghĩa xã hội của các thế lực thù địch bằng chiến lược “diễn biến hoà bình” ngày càng mạnh mẽ hơn, đặc biệt là tập trung sử dụng các phương thức tạo diễn biến, chuyển hóa nội bộ các nước trên không gian mạng trong bối cảnh bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với âm mưu, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, thâm độc hơn hẳn giai đoạn trước, hòng xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại và phong trào độc lập, dân chủ, tiến bộ trên thế giới. Trong đó, Việt Nam là một trọng điểm chống phá của chúng.

Vai  trò của cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền các cấp không chỉ thể hiện ở việc trực tiếp tổ chức quản lý, điều hành việc triển khai thực hiện phòng chống, mà còn trực tiếp huy động, sử dụng sao cho hiệu quả lực lượng, phương tiện để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phòng chống diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ thuộc từng cấp, từng lĩnh vực, từng ngành cơ sở.  

Chính quyền các cấp phải cụ thể hoá nghị quyết, quan điểm phòng chống “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ thành ch­­­ương trình hành động cụ thể, thiết thực và tổ chức cho nhân dân thực hiện có hiệu quả. Tính hiệu quả, thiết thực, khả năng thực thi nhiệm vụ phòng chống diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ phụ thuộc rất lớn vào việc nó được cụ thể hóa đến đâu và như thế nào trong quá trình thực hiện. Làm cho nghị quyết không dừng lại ở “giấy tờ”, mà được biểu hiện cụ thể trong thực tiễn củng cố tăng cường quốc phòng an ninh trên địa bàn tỉnh theo mục tiêu đã xác định.

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước, chính quyền các cấp trong phòng chống “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ đòi hỏi phải tăng cường pháp chế trên tất cả các lĩnh vực, bảo đảm cho luật pháp, các văn bản pháp luật thành hiện thực trong cuộc sống của nhân dân, đồng bào các dân tộc thiểu số. nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, góp phần đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế xã hội gắn với củng cố quốc phòng an ninh.

 

KẾT HỢP CHẶT CHẼ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VỚI QUỐC PHÒNG AN NINH TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VÊ TỔ QUỐC

 

Trong những năm tới trên thế giới hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng tình hình tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều nhân tố gây mất ổn định, bất trắc, khó lường. Ở trong nước, sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế-xã hội, bên cạnh những thành tựu đạt được, vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, xuất hiện những vấn đề phức tạp mới ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Thực hiện biện pháp này đòi hỏi người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thực sự coi công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí là một nhiệm vụ trọng tâm và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện; phải cam kết về sự liêm khiết và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quản lý chặt chẽ đảng viên, cán bộ, thường xuyên kiểm tra nhắc nhở, ngăn ngừa và phát hiện cán bộ, đảng viên vi phạm; thực hiện công khai, minh bạch hoạt động của cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên.

Đồng thời, hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế, chính sách về tổ chức, cán bộ, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố xét xử tham nhũng, lãng phí. Quá trình phát triển kinh tế - xã hội kết hợp chặt chẽ với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giải quyết các vấn đề xã hội, giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước; thực hiện mục tiêu dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, từng bước củng cố lòng tin của Nhân dân vào Đảng, Nhà nước, vào thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tạo điều kiện để giải quyết tận gốc tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, xóa đói, giảm nghèo, giảm dần sự cách biệt về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa giữa các vùng, miền; góp phần tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân; mở rộng khả năng hội nhập, hợp tác quốc tế, nâng cao vị thế quốc tế của đất nước, tăng cường hơn nữa sự ủng hộ của bạn bè quốc tế đối với nước ta; tạo tiền đề và điều kiện cơ bản để xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, củng cố lòng tin của Nhân dân vào sức mạnh bảo vệ Tổ quốc.

Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển kinh tế thị trường; đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước; phát triển và nâng cao vai trò của kinh tế tập thể để kinh tế nhà nước giữ vững và phát huy vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

GIỮ VỮNG LÒNG TIN CỦA NHÂN DÂN VỚI ĐẢNG NHÀ NƯỚC

 Trước tình hình trên, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, một số yếu tố quan trọng để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc chậm được củng cố, tăng cường, có mặt còn giảm sút và phát sinh những vấn đề phức tạp mới. Thực hiện giải pháp này đòi hỏi người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị phải thực sự coi công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí là một nhiệm vụ trọng tâm và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện; phải cam kết về sự liêm khiết và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quản lý chặt chẽ đảng viên, cán bộ, thường xuyên kiểm tra nhắc nhở, ngăn ngừa và phát hiện cán bộ, đảng viên vi phạm; thực hiện công khai, minh bạch hoạt động của cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên. Đồng thời, hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế, chính sách về tổ chức, cán bộ, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử tham nhũng, lãng phí.

Quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, giữ vững ổn định chính trị - xã hội; thực hiện mục tiêu dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, từng bước củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, vào thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tạo điều kiện để giải quyết tận gốc tình trạng nghèo làn, lạc hậu, xóa đói, giảm nghèo, giảm dần sự cách biệt về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa giữa các vùng, miền; góp phần tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân; mở rộng khả năng hội nhập, hợp tác quốc tế, nâng cao vị thế quốc tế của đất nước, tăng cường hơn nữa sự ủng hộ của bạn bè quốc tế đối với nước ta; tạo tiền đề và điều kiện cơ bản để xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, củng cố lòng tin của nhân dân vào sức mạnh bảo vệ Tổ quốc. Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ ng

ĐOÀN KẾT DÂN TỘC LÀ CƠ SỞ ĐỂ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC

 

Dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài; đồng thời là vấn đề cấp bách hiện nay của công cuộc đổi mới đất nước. Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, yêu thương, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng, xoá bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung… để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã hội. Thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc là quan điểm nhất quán của Đảng ta trong giải quyết vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc. Các dân tộc có dân số dù ít hay nhiều, ở trình độ phát triển cao hay thấp đều bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội quốc phòng, an ninh, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc .

Đoàn kết dân tộc phải trên cơ sở lấy mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng; tập hợp, đoàn kết mọi người vào một mặt trận chung, tăng cường đối thoại xã hội, đảm bảo thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Luôn tôn trọng lẫn nhau về lợi ích, truyền thống, văn hoá, ngôn ngữ, phong tục tập quán của các dân tộc; dân tộc có trình độ phát triển cao phải có trách nhiệm giúp đỡ dân tộc có trình độ phát triển thấp, vùng kinh tế - xã hội phát triển phải giúp đỡ vùng kinh tế - xã hội chậm phát triển, nhằm đảm bảo các dân tộc có điều kiện phát triển toàn diện, tiến kịp trình độ phát triển chung của cả nước. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ đoàn kết dân tộc; tránh tư tưởng kỳ thị dân tộc, tư tưởng ỷ lại trông chờ vào sự hỗ trợ của Trung ương và tương trợ của dân tộc khác.